Sáng hôm sau ra trường dạy học, Thọ thấy học trò nhìn mình bằng đôi mắt tò mò. Họ thì thầm bàn tán với nhau, Thọ thoáng nghe thấy một đứa nói nhỏ vào tai bạn:
- Đêm qua thầy giáo đi hát cô đầu.
Thọ nghĩ thầm: "Quái! Những đứa này tài thật!" Rồi chàng điềm nhiên vào lớp.
Nhưng Thọ nhận thấy rất rõ rệt cái trách nhiệm nặng nề của một ông giáo. Từ trong lớp học, ngoài đường, cho đến ở nhà lúc nào ông giáo cũng phải giữ gìn cẩn thận. Ông giáo là "người mẫu" của học trò. Không một lời nói nào, một cử chỉ nào của ông giáo là qua được mắt họ. Ông giáo đứng đắn ư? Làm được điều hay ư? Họ sẽ ca tụng, kính trọng, tin yêu; họ sẽ chăm chỉ, làm việc chóng tấn tới. Ông giáo ăn nói lố lăng? Làm điều bậy? Họ sẽ bàn tán, chỉ trích coi thường. Đừng có hòng họ chăm chỉ và lễ độ nữa. Học trò có yêu thầy mới chịu khó làm việc. Trí dục dễ, nhưng đức dục rất khó. Một ông giáo giỏi về các khoa để mở mang trí tuệ học trò cũng chưa đủ, còn phải có nhiều đức tính để học trò bắt chước, có đủ nghị lực tự kiềm chế lấy mình để khỏi giảm quyền giáo hóa của mình đối với học trò.
Thấy trong lớp không được im lặng như mọi ngày, Thọ rất nghiêm nghị. Chàng giảng bài thật kỹ, chấm bài thật cẩn thận. Thấy học trò lắng tai nghe lời mình dạy, Thọ vui sướng.
Một điều làm cho Thọ phải chú ý, là Nhung kém vẻ vui tươi hơn mọi ngày. Nàng ít nhìn Thọ, và mỗi khi nhìn, đôi mắt trong đen như lộ vẻ oán trách, van lơn.
Giờ ra chơi. Một người cu ly xe vào lớp nói với Thọ:
- Bẩm ông, có người hỏi ông ở ngoài cửa trường.
Thọ ra cửa, ngạc nhiên, vì thấy Thuật đứng lấp ở đằng sau xe. Thuật mỉm cười:
- Bây giờ em phải đi Hà Nội ngay, vậy đến để chào ông.
- Đi ngay ư? Tôi cám ơn nhé.
Hai người đứng nhìn nhau độ một phút. Thọ nói:
- Thôi ra ga đi, kẻo nhỡ tầu.
- Còn sớm.
- Không sớm đâu!
Rồi Thọ chào Thuật, quay trở vào. Thọ miễn cưỡng nói mấy câu ấy để đẹp lòng Thuật trước mặt người cu ly đứng liền ngay đấy.
Thọ không muốn làm bẽ mặt một người đàn bà, dù đối với hạng người không cần phải giữ lễ độ.
Trong sân trường, một bọn học trò xúm lại bên hàng rào nhìn Thuật. Khi thấy Thọ vào, họ tản ra, mỗi người đi một ngả. Thọ biết rằng họ chăm chú nhìn mình, nhưng chàng vẫn giữ vẻ mặt tự nhiên, qua lại trong sân, rồi đứng xem bốn cậu học trò nhỏ đá cầu truyền.
Quả cầu làm bằng dăm cái lông gà cắm chặt vào mấy miếng da mỏng cắt tròn bằng đồng bạc. Có thầy giáo đứng xem, bốn cậu ganh nhau chơi hay. Một cậu đá kém phải cúi xuống nhặt cầu để giao cho người bạn bên phải luôn, hổ thẹn, mặt đỏ gay. Các cậu học trò bé thường có tính cả thẹn. Chơi một mình với nhau, các cậu rất dửng dưng được thua không cần. Nhưng khi có thầy giáo đứng xem, các cậu thấy ngượng, cố sức, được thì hớn hở, thua thì bẽn lẽn. Là vì các cậu cho thầy đứng đấy là để chấm tài cao thấp của mình, các cậu tin tưởng rằng chơi giỏi hay không cũng có ảnh hưởng đến tình yêu của thầy đối với các cậu. Các cậu học trò bé chỉ muốn được thầy yêu. Khi thầy sai một việc, các cậu hết sức và vui lòng làm. Có cậu cho đó là một sự vinh hạnh. Cái tính ấy giảm dần mỗi khi các cậu lên một lớp trên. Đến lớp nhất các cậu sẽ cho sự thầy sai là khó chịu, bó buộc phải làm. ở lớp ấy, có cậu thấy thầy yêu lại thẹn với chúng bạn.
Ba tiếng trống làm cho sân trường đang ồn ào bỗng trở nên yên lặng. Học trò lớp nào chạy vội đến cửa lớp ấy xếp hàng đôi, bé đứng trên, nhớn đứng dưới. Thầy giáo ra hiệu: học trò thong thả lặng lẽ vào lớp.
Qua giờ luân lý đến giờ viết tập. Khi chấm đến sách Nhung, Thọ thấy trên tờ giấy thấm của nàng có chữ "Thuật" viết bằng bút chì, tuy bị nhiều nét ngang dọc xoá đi, nhưng vẫn còn rõ. Thọ nhận đích là chữ Nhung viết. Chàng ngẩng lên nhìn Nhung, thấy Nhung cúi nhìn chỗ khác, mặt có vẻ buồn.
Thọ thấy trong lòng rạo rực.