Buổi chiều hôm ấy, khi ở nhà ông Hàn Thịnh về. Thọ, Đình và Tân cùng nhau đi chơi trên đường Tam Đảo. Khỏi đầm Láp, đến dốc Định Trung, ba người rẽ sang đường Hà Nội. Bên trái là làng Định Trung với lũy tre xanh rì rào theo gió, bên phải là nghĩa địa, một thiếu phụ bận tang phục đứng sụt sùi bên cạnh một ngôi mộ mới.
Một chiếc ô tô từ phía Hà Nội đi lại, bọn Thọ đứng tránh sang bên đường, rồi ngả mũ chào, vì người ngồi trong xe là ông thanh tra ở Phúc Yên lên.
Tân nói:
- Ông thanh tra có lẽ cũng phục bọn nhà giáo chúng mình thanh nhã, những khi nhàn rỗi, chỉ đi ngắm cảnh giời đất, chứ không chúi mũi vào quân bài, xô xát nhau trong cuộc đen đỏ.
- Cũng có lẽ, nhưng Lại và Thúy thì sao?
Đình vừa nói vừa nhìn hai cậu học trò ở dưới ruộng đi lên. Hai cậu vào khoảng mười lăm, mười sáu tuổi, khi qua mặt bọn Thọ, nhìn đi nơi khác, không ngả mũ và cũng không chào hỏi.
Tân hỏi Đình:
- Anh có nhớ ai đấy không?
- Thằng Tài và thằng Ninh học tôi năm ngoái đấy, anh cũng nhớ à?
- Sao năm nay chúng nó không đi học?
- Không biết. Đầu năm không thấy chúng nó đến. Đấy anh coi, suốt một năm giời mình rát cổ bỏng họng với chúng nó... Không trách họ bảo nghề dạy học là nghề bạc có khác!
Tân nói:
- Họ không chào còn khá đấy. Có người kể chuyện một ông giáo ngồi trên xe hỏa, đang nói chuyện với một người bạn, một ông bận âu phục sang trọng đến vỗ vai nói: "Hình như trước moa có học toa ở Đáp Cầu thì phải". Ông giáo ấy mỉm cười, lễ phép nói: "Thưa ông, hình như thế!..."
Thọ nói:
- Câu chuyện ấy chưa chắc đã có nhưng phần nhiều học trò bây giờ đối với thầy không được lễ phép như xưa. Bởi thế nên làm nghề dạy học phải kiên tâm, và nhẫn nại. Một ông giáo có thể ví với một người giồng cây bên vệ đường không hòng ăn quả và hưởng cái bóng mát của cây ấy cũng không tưởng đến những người ngồi dưới bóng mát hay ăn quả của cây mình giồng có nghĩ đến mình không, nhưng cũng cứ giồng. Một ông giáo cũng vậy. Dạy học trò ông giáo không hề nghĩ đến sau này họ xử với mình ra sao, nhưng vẫn chăm chỉ dạy. Nhưng ông giáo còn hơn người giồng cây ở chỗ biết vui sướng mỗi khi nghĩ đến những trẻ mình rèn luyện bây giờ, sau này có thể trở nên có ích cho xã hội được, tiếng tăm lừng lẫy cũng chưa biết chừng. Những khi gặp sự gì trái ý trong công việc, tôi thường mượn hai câu thơ của Trần Khánh Dư ngày xưa, đổi đi mấy chữ, để tự an ủi:
Toan từ giáo học thay nghề khác,
Lại sợ trời kia lắm kẻ đần...
Nói chuyện nên vui chân, ba người đã đi được một quãng xa, đến một con đường đất sỏi, chạy dài về bên trái. Ba người rẽ vào con đường ấy. Đường hẹp dần, cỏ xanh phủ kín, chỉ chừa một lối đi nhỏ, thẳng băng và nhẵn thín. Đồng ruộng cũng ít dần, chung quanh đồi núi liên tiếp nhau, cỏ mọc rậm, cây cối lưa thưa.
Thọ rủ hai bạn bỏ con đường chính, theo lối vết chân lượn bên sườn đồi, ngòng ngoèo theo những bụi cây rậm nhiều gai. Gần đấy, trong khoảng rừng thưa, vẳng ra những tiếng búa của người đẵn củi. Vài con trâu bò, không có ai coi, vừa đi vừa gặm cỏ dưới chân đồi. Qua một dãy ruộng, đến một khoảng đồng nhỏ hẹp, những thửa ruộng thoai thoải chạy dài từng bậc từ chân đồi xuống. Rồi lại đồi nọ tiếp đồi kia... Có chỗ cỏ mọc lấp hẳn vết chân người, như không ai đi tới đó.
Trên một ngọn đồi thấp, giữa những cây cao, cành lá um tùm. Thọ thấy một ngôi chùa nhỏ. Chàng rủ hai bạn lên đấy xem. Đường lên không có bậc, cỏ non đã mọc phủ gần kín. Trên những cành cây, không một tiếng chim. Bốn bề im lặng. Thỉnh thoảng, một vài nhát búa đẵn cây từ đằng xa vẳng đến, càng làm tăng vẻ tịch mịch của buổi chiều xuân trong quãng vắng.
Chùa nhỏ, ba gian. Tường gạch và mái ngói chỗ mốc xám đen lại, chỗ rêu phủ xanh tươi; nhiều nơi vôi cát đã lở. Một cảnh chùa không người trông nom sang sửa. Sân chùa nhỏ, bề ngang độ dăm bước, bề dài suốt dọc chùa, cỏ cây mọc chi chít. Cả mặt trước chùa là cửa gỗ đóng kín, riêng một cánh về đầu bên kia hơi hé mở. Thọ ngắm kỹ chung quanh, tưởng tượng như lạc vào một nơi nguy hiểm, chàng thường thấy tả trong nhiều tiểu thuyết Tàu, nhất là trong truyện Thủy Hử.
Tân sẽ nói:
- Các anh ạ! Tôi thấy rợn tóc gáy...
Đình giơ tay ra hiệu bảo im. Mọi người lắng tai nghe. Này lạ! Trong chùa có người rên, tiếng rên khi to khi nhỏ, có lúc ngừng hẳn lại. Thọ bảo Đình và Tân cùng xuống chân núi rồi nói:
- Chắc trong ấy có sự gì lạ. Chúng ta đi lấy mỗi người hai nắm cát, rồi thử vào xem. Nhỡ gặp quân gian, ta ném cát vào mặt, nó cũng chẳng làm gì nổi.
Đình và Tân khen phải. Nhưng vì đấy không có cát, mỗi người lấy hai nắm sỏi vụn, rồi lên đồi, cả quyết vào chùa. Trong chùa tối om, phải một lúc mới nhìn được hơi rõ. Trước bệ thờ ở gian giữa, trên một chỗ lát gạch rộng bằng chiếc chiếu, một người nằm co quắp, ôm lấy bụng, miệng rên rỉ. Bọn Thọ lại gần. Đình hỏi to:
- Ai đấy? Làm sao mà rên lên thế?
Người kia ngẩng mặt lên. Thọ kinh ngạc nói:
- ồ! Anh Ba! Anh làm sao thế? Sao lại đến đây mà nằm rên?
- Kìa ông giáo! Con đang đẵn củi ở đằng kia bỗng đau bụng quá, con không chịu nổi, phải vào đây nằm.
Bọn Thọ nhìn nhau mỉm cười, bỏ sỏi rơi xuống đất rồi cùng xoa tay cho sạch. Lúc ấy, Thọ mới nhận thấy con dao đẵn củi của Ba, ở ngay chỗ mình đứng.
Tân hỏi Thọ:
- Ba nào đấy?
Thọ kể cho bạn nghe câu chuyện mượn Ba đến ở nhà Thanh để Thanh có thì giờ học tập. Chàng rất vui lòng vì thấy Thanh học tấn tới, trong lớp chỉ còn kém có Nhung, mà cũng chẳng kém bao nhiêu nữa.
Đình nắn túi áo nói:
- Mình có lọ dầu Đại Quang mà khuấy quên đi mất.
Rồi chàng lấy lọ dầu đưa cho Ba:
- Anh nhấm một tí nuốt đi, và xoa vào bụng thì bớt đau ngay.
Ba đỡ lấy lọ dầu, làm theo lời Đình. Trong khi ấy Thọ và Tân đứng nhìn khắp mọi nơi. Trong chùa lạnh lẽo, âm thầm bẩn thỉu, tối tăm, chỉ có mấy pho tượng ngồi trơ trên ba bệ gạch, đằng trước là ba bát sành sứt mẻ, thưa thớt mấy cái chân hương cắm xiêu vẹo.
Thọ hỏi Ba:
- Thế nào, anh đã đỡ chưa? Có thể cùng về với chúng tôi được không?
- Con thấy hơi dễ chịu chắc sắp khỏi. Mời ba ông về trước. Con còn phải gánh củi về để tối nay cụ Thanh dùng đến.
Thọ, Tân và Đình lại men theo mấy cái đồi, qua một khoảng rừng thưa, đến một cánh đồng rộng. Ba người đi tắt bờ ruộng, thẳng đến chùa Hà, rồi về đường Tam Đảo. Tân pha trò:
- Quả đất tròn có khác! Đi một đường lại về một đường.