|
1. THIỀN VÀ NHỮNG PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH TÂM CỔ ĐIỂN ^
Đạo học Phật Giáo khác với các môn phái thần bí khác ở chỗ nó dựa vào sự dọn mình có phương pháp để bước vào đời sống nhiệm mầu. Ngành đạo đức này biến việc định tâm thành một nghệ thuật, trong đó phần kỹ thuật không chỉ đóng vai trò đích thực của nó như trong các ngành nghệ thuật khác, mà còn chiếm một vị trí rộng lớn lạ thường. Như vậy, Đạo học Phật Giáo đã làm một việc có công đức khôn lường là cứu sự tu luyện tâm linh thoát khỏi cảnh may nhờ rủi chịu. Hơn nữa, ngành Đạo học này còn trình bày những nổ lực được tập trung để đạt đến sự trầm lắng như một "đường lối" và không nơi nào khác có được đường lối tức phương pháp định tâm đạt tới mức quan trọng căn bản như thế.
Có thể nói Á Đông đã nhờ vào đường lối của Đức Phật tức "Đạo Phật", "Phật Pháp" rất nhiều. Đường lối này đã tạo ra một mẫu người tu hành độc đáo. Đối với chúng ta thì không cần tìm xem trình độ thượng thừa mà thời xưa đã đạt có còn lưu giữ khắp nơi trong Phật cho đến ngày nay hay không, cũng chẳng cần biết phương pháp tu hành chặt chẽ có trở nên lề thói quen thuộc hoặc giác ngộ có biến thành tri thức bí truyền hay không.
Cái mà chúng ta quan tâm là Thiền tông Phật Giáo. Ở đây sẽ không đề cập tới thời điểm, cách thức và người nào khởi xướng tông phái này, mà chỉ bàn luận tại sao Thiền mặc dù bắt nguồn từ Đạo Phật, nhưng xét về phương pháp tu tập thì lại phát triển thành một hướng đi khác biệt với bí pháp định tâm cổ điển của Phật Giáo.
Có điều đáng lưu ý là trong Phật Giáo, sự giác ngộ nằm ngay trong sự nhìn thấy tỏ sáng những chân lý mà công việc định tâm cũng dựa vào đó để bắt đầu. Những cảm nhận bên trong từng thôi thúc người ta xa lánh đời thường, bây giờ lại nổi lên dưới hình thức trừu tượng, không còn mọi cảm xúc lộn xộn, và như vậy chứng thực cho sự thấy biết bắt đầu của Đức Phật đã khiến Ngài bước vào con đường tu hành dẫn đến giác ngộ. Vậy phải chăng có thể giải thích kết quả này bằng sự kiện là chủ đề để hành Thiền trở thành một ý niệm cố định, không thay đổi như đã từng là thế?
Người theo đạo Phật bắt đầu với giả thuyết sống ở đời là khổ, nhưng giả sử họ thấy biết ban đầu khác đi, sống được xem là đáng hưởng thụ, và cõi đời là thuận hợp sướng vui, thì chẳng lẽ sự giác ngộ cũng nhuốm màu theo đó hay sao? Lúc ấy nếu có người mong mỏi thoát ra khỏi cõi đời sướng vui thuận hợp này thì quả là khó hiểu!
Rõ ràng chưa có ai định tâm theo chiều hướng đó vượt được chính bản thân mình, nghĩa là vượt ra khỏi vòng suy tính được mất, sướng khổ v.v... mà chỉ có thể đạt đến trạng thái hững hờ, lãnh đạm rồi tự cho là "vượt qua đến bờ bên kia", là "giải thoát". Vậy thì trạng thái "huyền đồng", "hiệp thông mầu nhiệm" (unio mystica) nhờ cái gì mà có được? Tất cả công việc mà người định tâm đã làm là tách mình ra khỏi những gì không thuộc con người chân thực của mình, nên dù có lắng nghe đến mức sâu nhất của bản thân, người này cũng chỉ tìm thấy chính mình.
Vì vậy, xét đúng lý thì chắc hẳn người ta có thể thực hành định tâm mà không cần chủ đề định sẵn, bước đi mà không cần bám vào một cái gì chắc chắn và khách quan hoặc nương vào một loại giả thuyết triết học nào, và nghiệm thấy cuộc đời chẳng trọn buồn cũng chẳng trọn vui, chẳng đáng ghét cũng chẳng đáng yêu, dù có thể thấy nó vô thưòng tạm bợ. Nên để "triết lý" cho giác ngộ sinh ra; mà giác ngộ là có thật, chính Đức Phật đã hứa hẹn điều đó. Có lẽ sự giác ngộ như vậy sẽ hóa ra khác hẳn trạng thái giác ngộ của Phật Giáo nếu Đức Phật cho thấy điều này chắc chắn là có. Tu hành theo Phật Giáo có một giai đoạn tâm trí dửng dưng, lạnh nhạt khi tu sinh đứng ở điểm trung hòa giữa hai trạng thái biết và không biết, không còn để tâm hướng về cái gì nữa, nhưng khi theo phép định tâm của Phật Giáo, tu sinh luôn bị tất cả những giai đoạn trước đó làm trở ngại.
Điều gì sẽ xảy ra nếu ta định tâm theo cách "không có định kiến" từ đầu, mà chỉ tập lắng sâu vào trong con người mình, trở thành trống vắng hoàn toàn, không theo chương trình nào cả và để mặc cái gì thì đến.
Đây chính là đường lối của Thiền. Chúng ta không thể nói được phải lùi lại bao xa để tìm thấy cái "Không" theo kiểu cách này, nhưng sự tồn tại của Thiền ở Trung Quốc và Nhật Bản cho thấy việc tìm kiếm đã thành công. Sự thành công rạng rỡ đó được chứng minh bằng sự sống của Thiền còn mãi đến ngày nay. Chỉ còn mỗi một điều khó hiểu: Người tu Thiền có lý do gì mà ngoảnh mặt khỏi cuộc đời trong khi xét về quan điểm triết lý thì thái độ của họ với cuộc đời là trung dung? Lịch sử có thể trả lời câu hỏi này: họ biết có giác ngộ và có con đường dẫn đến giác ngộ. Sau cùng, họ có thể cho rằng kinh nghiệm mà họ đã trải qua là "đại giải thoát". Nhưng thoát khỏi cái gì? Và theo ý nghĩa nào?
__________________
|