| 
		
	
		
		
		
		 
			
			6. CÔNG ÁN  
 
 
Đề tài thiền quán gọi là công án. Nó đòi hỏi tâm trí phải cố gắng tối đa và không cho phép được mơ màng, lười biếng. Sau đây là một vài công án điển hình: 
 
"Hãy cho xem bộ mặt vốn có của bạn trước khi cha mẹ sinh ra". 
 
"Nếu giữa đường gặp một người đã ngộ chân lý, bạn muốn vượt qua mà không nói cũng không im lặng. Vậy làm thế nào để tiếp xúc với người đó?". 
 
Thiền sư Thủ Sơn (9) cầm cây tích trượng đưa ra trước chúng tăng và nói: "Nếu gọi đây là cây gậy thì đáng chê; nếu không gọi là gậy thì nói sai. Vậy, gọi là cái này là gì?". 
 
Thiền sư Hakuin (Bạch Ẩn) đưa bàn tay lên và bảo các đệ tử: "Hãy lắng tai nghe âm thanh của một bàn tay như thế nào" (10). 
 
Dựa vào công án sau cùng này, tôi sẽ cố hết sức trình bày quá trình tu tập của thiền sinh và trọng tâm của việc tu tập là gì. 
 
Suốt nhiều giờ, nhiều ngày và nhiều tuần, người đệ tử trầm tư về công án. Chìm đắm trong sự tập trung sâu xa, anh ta suy gẫm vấn đề đủ cách. Một điều rất rõ ràng là: vì phải có hai bàn tay vỗ vào nhau mới phát ra tiếng được; do đó, câu trả lời chỉ có thể là: Không ai, dù có mong muốn nhất đời, có thể nghe được âm thanh của một bàn tay, nhưng chẳng lẽ đáp án quá đơn giản như vậy. Hay là sẽ thận trọng hơn nếu bảo: Một bàn tay duy nhất không phát ra âm thanh cho lỗ tai người nghe được? Nhưng điều này cũng chẳng giúp anh ta tiến thêm được bước nào. Chắc hẳn trọng tâm vấn đề không phải là âm thanh và sự nghe, ghép chúng vào chỉ tổ thêm rắc rối. vậy trọng tâm rõ ràng là: Thế nào là ý nghĩa của một bàn tay khác với hai bàn tay? Không biết đây có giống sự khác biệt giữa thống nhất với phân hai chăng? Bàn tay chắc là biểu tượng của nguyên lý: "Duy nhất không có cái thứ hai". Đáp án tỏ ra có lý đối với người đệ tử vì đây là quan điểm "bất nhị" đóng vai trò trọng yếu trong Phật Giáo và thường được đem ra thảo luận. 
 
Tìm ra được một đáp án tuyệt diệu như thế, người đệ tử liền đến gặp Sư phụ. Anh ta có quyền xin ông mỗi ngày một câu hỏi. Anh trình bày đáp án một cách hãnh diện và phấn khởi. Vị thầy nghe xong bèn lắc dầu và không nói một lời, ra dấu cho người đệ tử ngỡ ngàng lui về thiền phòng. Có khi đệ tử vừa mở cửa ló vào, vị thầy đã đuổi đi không để anh ta kịp nói lời nào. Người đệ tử bị dội trở về với chính mình, bắt đầu tập trung suy tưởng lần nữa. Anh ta quyết trở thành xuất chúng và làm thầy phải ngạc nhiên. Người đệ tử miệt mài trầm tư, cố tìm ra đáp án, nhưng dù lục lọi hết mọi ngóc ngách của vấn đề, cố tìm ra đáp án, nhưng dù lục lọi hết mọi ngóc ngách của vấn đề, anh ta cũng không mò ra kết luận nào khác. Lúc đó, người đệ tử suy nghĩ: Tại sao Thầy xua đuổi mình? Có lẽ do mình trình bày tệ quá? Anh ta cân nhắc lại lời trình bày, rồi lại đến gặp Thầy; ông lại xua đuổi, lần này có kèm lời chê bai. Nhưng người đệ tử vẫn không tìm thấy chỗ sai của mình. Bấy giờ, anh ta đâm ra hoang mang lo lắng: Nếu mình còn quá xa đáp án, thì bao giờ mới đạt đến đích? Rồi anh ta lấy lại bình tĩnh: A ! thì ra đây là vấn đề sinh tử! Người đệ tử háo hức lao vào vấn đề, không phải bằng trí xét suy biện luận và với toàn thể sức lực của thể xác, tinh thần và tâm linh đến độ vấn đề không lúc nào để anh ta yên, mà cứ ray rứt mãi dù trong giờ nghỉ, trong giờ ăn hoặc đang làm việc hằng ngày. Nó đeo đuổi anh ta cả trong giấc ngủ. Bây giờ chẳng cần ép mình suy nghĩ về nó! Ngay cả khi anh ta muốn giải tỏa trí óc, nó cũng cứ bắt phải suy nghĩ, nhưng tất cả đều hoài công; đáp án vẫn không đến. Anh ta đâm ra nghi ngờ khả năng của mình, bắt đầu chán nản, và không biết phải nhắm vào đâu. Anh ta được cứu khỏi cơn tuyệt vọng hoàn toàn nhờ lời Thầy nhắc nhở phải gia tăng cường độ tập trung cho đến không không còn bị những ý tưởng vẩn đục quấy rầy; phải biết chờ đợi một cách kiên nhẫn và vững tin cho đến khi đáp án đã chín mùi và tự hiện ra mà không bị thúc ép.  
 
Bởi vậy bây giờ, người đệ tử bắt đầu tìm đáp án theo cách khác. Anh ta không còn cần phải phân tích vấn đề và nghĩ ra đáp án nữa vì đã làm việc ấy đủ rồi. Anh ta không còn nghĩ vòng vo thế này hay thế kia nữa, về một bàn tay hay hai bàn tay, về nguyên lý này hay nguyên lý nọ nữa; anh ta cũng chẳng nghĩ đến đáp án để cố nặn ra nó; tuy anh ta vẫn luôn nhớ đến nó trong sự căng thẳng tinh thần tột độ. Anh ta mong mỏi đáp án như người khát mong ước nước cho đã, nhưng anh ta xử sự như một người đang cố nhớ lại một điều nào đó, và anh cảm thấy mình như người đang tìm lại cái gì đó mà mình đã quên đi, một cái mà anh ta phải nhớ lại bằng mọi giá, vì sự sống của anh ta tùy thuộc vào nó. 
 
Trong trạng thái căng thẳng tinh thần này, có thể đột ngột đáp án bỗng hiện ra, hoàn toàn bất ngờ, hoặc là một tiếng hét, một âm thanh nặng nề, hoặc trong những trường hợp ngoan cố, một cú đánh rất đau như ngày xưa thường dùng để đẩy sự căng thẳng đến chỗ bùng vỡ. Lúc ấy thật hứng khởi làm sao! Người đệ tử run lên, toát mồ hôi và tràn trề hoan lạc: cái mà anh ta hoài công tìm kiếm đã hiện ra chớp nhoáng. Giờ đây, anh ta thấy rõ mọi thứ rắc rối ở chỗ nào trước đó, anh ta có thể thấy rừng dù chỉ có cây. Những cái vảy cá đã rơi ra khỏi mắt. Anh ta cảm thấy mình được cứu rỗi, giải thoát. Khỏang thời gian này rất ngắn ngủi, như ánh chớp lên rồi mất nhưng gây ra ấn tượng thật sâu xa. Tất nhiên anh ta không thể nắm giữ được nó. 
 
còn tiếp...
		 
		
		
		
		
		
        
		    
  
		 
		
		
		
		
	
	 |