Oâng ta vẫn trăn trở, thì thào những điều khó hiểu. Dầu tôi cúi sát, để lỗ tai vào miệng ông ta, nhưng vẫn không thểå hiểu được gì, trừ cái tên Rosemary được lập lại nhiều lần. Tôi ngồi thẳng lên, băn khoăn buồn bã, không biết xử trí như thế nào. Sự khẳng định của ông ta về cái tên làm tôi cảm thấy âu lo. Rất có thể một phần trong những chuyện viễn vông kia là đúng sự thật và thật sự ông ta đã có vợ tên Rosemary đã sinh trưởng tại nước Anh. Dầu đã uống nhiều nước , nhưng môi tôi vẫn thấy khô, khô đến nỗi không mở miệng ra được.
Làm cách nào anh gặp được cô ấy?
Tiếng mưa rơi đều trên mái tôn làm át tiếng nói của ông ta nên tôi không nghe rõ. Một lúc sau, có tiếng của ông ta trả lời:
Sau chiến tranh tôi được thuyên chuyển về Boscombe Down và sau đấy lại được đổi về White Waltham. Tôi gặp nàng ở Hoàng cung.
Trong cơn mê sảng tôi hỏi ông ta:
Cung nào?
Hoàng cung Buckingham. Nữ hoàng ở đấy, thưa Cha.
Dĩ nhiên theo sự hiểu biết của tôi, chuyện ấy chẳng nghĩa lý gì cả. Oâng ta mê sảng thì tôi cũng chẳng hơn gì! Tôi nghĩ rằng tất cả đều là nhảm nhí nhưng tôi quá mê sảng và hoang mang nên không thể suy nghĩ chính xác tại sao như thế. Tôi ngồi đấy, cầm bàn tay của ông ta và suy nghĩ rằng, giá như giờ này Xơ Finlay còn thức, nghe được những gì ông ta nói, ắt hẳn Xơ đã hành động một phần nào làm cho tôi đỡ khó khăn hơn. Trong lúc này, tôi có thể mê đi vì cơn sốt, nên giữa hai chúng tôi chỉ là nói chuyện vẩn vơ, chứ không phải là một cuộc đối thoại, như thế dễ hơn.
Tôi hỏi:
Boscombe Down ở đâu?
Ơû Anh, tây Luân Đôn – ông ta trả lời, đấy là nơi thử nghiệm máy bay của không lực Hoàng gia. Tuy ở trạng thái mê sảng, tôi đã cố nhớ ra ông ta đã từng là phi công tham chiến ở Pháp hồi đệ nhất thế chiến, nên cũng có thể ông ta đã đến nơi ấy. Oâng ta nói đấy là một nơi rất lớn ở một phi trường, bộ chỉ huy gồm nhiều kỹ sư và các nhà khoa học, thử nghiệm những loại máy bay này. Phi công là một tập thể gồm nhiều quốc tịch trong Liên hiệp Anh vì mỗi quốc gia chọn một số phi công xuất sắc nhất để gởi đến Boscombe Down, nên có rất nhiều phi công Anh, Canada, Uùc, Aán độ, Rhodesie và nhiều quốc tịch khác nữa, cùng làm việc, cùng bay thử nghiệm những máy bay này và cùng sống chung trong cư xá sĩ quan.
Tôi ngồi đấy, đầu váng vất và hỗn độn, lắng nghe những ý nghĩ kì quặc của ông ta, trong lúc mưa vẫn rơi đều trên mái làm át các âm thanh khác. Oâng ta nói rằng đã từng có mặt ở đấy trong sáu tuần để bay thử nghiệm hằng ngày và lần đầu tiên đã gặp được không đoàn trưởng Cox. Trước đó từ sáng sớm, ông ta bay thử nghiệm lên đến độ cao tám mươi ngàn bộ trong chiếc máy bay chiến đấu và phóng xuống ở độ cao thấp hơn, nhưng hệ thống lạnh không được hoàn hảo nên ông ta đã đổi hướng bay và giảm vận tốc còn lại bốn mươi ngàn bộ vì nhiệt độ ở trong buồng lái không thể chịu nổi. Oâng ta bay lên và thử lại lần nữa và cố giữ đường phóng xuống cho tới độ cao ba mươi hai ngàn bộ. Oâng ta hạ cánh sau một giờ mười phút bay và cảm thấy rất mệt mỏi. Những dòng chữ tường trình ấy, giờ đây những chi tiết còn rõ nét trong trí nhớ của ông, sau đấy ông đã trở về cư xá sĩ quan tắm rửa và thay áo quần. Và rồi ông đến phòng ăn tập thể để ăn trưa.
Cùng bay với ông lúc ấy có hai phi công khác: một từ Hải quân và một từ không lực Hoàng gia như ông. Từ phòng ngoài đã thấy hai người bạn đứng với vị sĩ quan chỉ huy và một vị không đoàn trưởng mà ông chưa biết tên. Vị sĩ quan gọi ông lại và giới thiệu ông với ông Cox
Đây là phi đội trưởng Anderson.
Không đoàn trưởng thật sự là người Anh, một sĩ quan thuộc loại già dặn, hơi gầy nhưng chắc chắn và đẹp trai với cung cách lịch thiệp. Oâng ta nói:
Chào anh, tôi có tên trong điện thoại niên giám. Anh uống gì nào?
Stevie trả lời:
Nước cà chua, thưa Đại tá.
Có bay chiều nay chăng?
Stevie lắc đầu:
Tôi đáp để chếch lại hệ thống lạnh. Phải đưa máy bay vào xưởng gấp, chắc không kịp bay ngày mai.
Uống thêm nước sê-ri nhé!
Dạ, xin cảm ơn, tôi không quen.
Oâng ta nhận ra rằng không đoàn trưởng đặc biệt chú ý công tác vừa rồi ông đã thực hiện trên chiếc đấu cơ và muốn biết rõ hơn nữa về sự việc đã xảy ra. Mở đầu câu chuyện, David Anderson luôn luôn cảnh giác tránh né một câu hỏi trực tiếp bằng cách pha trò rất khôn khéo khiến chỉ huy trưởng và không đoàn trưởng đều cười. Chỉ huy trưởng nói:
Thôi, được rồi Anderson. Anh có thể nói chuyện với Đại tá
Nói hết ư, chỉ huy trưởng?
Ưø, thì nói hết. Chúng ta sợ gì mà không nói hết!
Họ cùng ăn cơm trong phòng ăn sĩ quan. Qua câu chuyện, David càng thấy rõ, sự lưu tâm chính của không đoàn trưởng là đặt vào những chuyến bay thí nghiệm của chiếc máy bay mới chế tạo Havilland 316, sau này còn được gọi là De Havilland Ceres. Đây cũng là sự lưu tâm của nước Uùc nữa. Trước khi rời khỏi Laverton để đến nước Anh để theo học khoá này, David đã được phỏng vấn ở Canberra do bộ trưởng hàng không Uùc. Vị bộ trưởng này đã nói cho David biết về loại máy bay chở thư tín này và sau đó bắt đầu những cuộc bay thử nghiệm ở Anh, và chính vị bộ trưởng đã tin cho ông biết hãng hàng không Uùc, Quatas, đã đặt mua sáu chiếc máy bay mới ra lò để bắt đầu cho dịch vụ chuyển thư tín bằng máy bay từ nước Anh. Cũng vì đơn đặt hàng ấy và cũng vì loại máy bay này hấp dẫn đối với không lực hoàng gia Uùc cho mục đích khác nữa, ông bộ trưởng đã viết thư cho Bộ hàng không ở Luân Đôn và yêu cầu cho phi đội trưởng Anderson được tham gia càng nhiều càng tốt trong các cuộc bay thử nghiệm ở Boscombe Down. Cho đến nay, David không làm một việc gì ngoài việc bay thử nghiệm
Tuy nhiên, chiều hôm ấy, ông ta đã cùng không đoàn trưởng Cox và phi công thử nghiệm trong cơ xưởng, giám sát chiếc máy bay mới trong nhà chứa máy bay. Chiếc máy bay đưa thư được thiết kế để bay từ Anh đến Uùc, chỉ dừng lại một lần ở Colombo, nửa đường từ Luân Đôn đến Canberra. Vận tốc máy bay vào khoản năm trăm gút ở độ cao năm mươi ngàn bộ, nên chuyến bay từ Anh đến Uùc được thực hiện độ hai mươi giờ, chở theo ba tấn thư từ. Nhà chế tạo đã để mắt vào các thị trường khác nhờ loại máy bay đường dài và nhanh này, nên đã thiết kế một thân máy bay lớn đủ để chở hai mươi hành khách, thay vì chở hàng, cho nên loại máy bay 316 là loại máy bay có khả năng đa dụng.
Mãi cho tới chiều hôm ấy David Anderson mới khám phá ra lí lịch của vị sĩ quan mà ông ta đã cùng sinh hoạt chiều hôm ấy. Trong phòng ăn sĩ quan, ông đã hỏi chỉ huy trưởng buổi hẹn với không đoàn trưởng có mục đích gì và ông cũng còn lo ngại vì sự thiều dè dặt khi nói chuyện với đại tá không đoàn trưởng một cách tự do.