Oâng Macmahon còn giữ họ lại ít phút để nói chuyện về nhà ở của hai sĩ quan Uùc và Canada. Dewar đã lập gia đình nên đã mướn được một căn nhà nhỏ ở Maidenhead. Anderson nói cho vị bí thư biết về căn hộ của anh ta. Sau đấy có một lúc hai ngnười nói chuyện chung chung về máy bay và nhà ở. Cuối cùng ông Macmahon nói với David
Mua thuyền chưa?
Vị sĩ quan cười mỉm trả lời:
Tôi đã mua sáu tuần nay rồi! Sau khi ăn tối với đại tá Cox về, vài ngày sau là tôi mua liền. Chủ nhật nào tôi cũng đi thuyền.
Anh đi ở đâu?
Trên sông Hamble, cách xa xưởng đóng tàu Luke.
Cô Long hỏi:
Chỉ huy trưởng Anderson, loại thuyền gì vậy?
Oâng Macmahon giới thiệu:
Cô ấy cũng là tay cừ đấy!
Vị sĩ quan lúc ấy mới để ý tới cô gái và trả lời:
Loại thuyền buồm năm tấn rưởi của đảo Bermuda, cũng khá xưa, đóng xong năm năm mươi ba, nhưng còn tốt lắm. Có người nói kỹ sư Laurent Giles thiết kế đấy.
Cô gái gật đầu:
Vào thời ấy, ông ta là nhà tạo mẫu nổi tiếng – cô ta dừng lại suy nghĩ.
David hỏi:
Cô tự lái sao?
Thuyền nhỏ thôi – cô ta trả lời – Loại dài bốn muơi mét rưởi. Tôi mua một chiếc ở Itchenor.
Ơû đâu vậy? – David hỏi
Itchenor? Ơû trong cảng Chichester. Tôi cũng đã từng đi biển với bác tôi trên chiếc muời lăm tấn. Chủ nhật vừa rồi tôi cũng có đi với ông cụ một chuyến – cô ta dừng lại – Chiếc năm tấn ông mua không phải sơn xanh, phải không? Buồm màu xanh?
Vâng, thì sao? – người sĩ quan Uùc trả lời – Tên nó là Nicolette. Cô đã thấy nó chưa?
Cô gái mỉm cười:
Không biết có phải thuyền của ông không, Chủ nhật vừa rồi nó bị mắc cạn ở sông Beaulieu?
Không dấu được nước da sậm của người Uùc, tuy nhiên ông ta vẫn tin tưởng:
Dấu chỉ đường sai nên mới thế. Cô có thấy chúng tôi không?
Chúng tôi chạy ra nên qua mặt các ông – cô ta trả lời – Rất nhiều người mắc cạn ở chỗ ấy. Có lẽ ông chạy ra ngoài rào cản theo dấu chỉ đường.
Vị sĩ quan nói:
Tôi chẳng quan tâm nên mới bị như thế. Tôi nghĩ đâu cũng nước sâu như nhau.
Cô ta cười:
Tôi mong ông không làm thế khi ông bay.
Dĩ nhiên rồi. Chỉ một lần ấy thôi – David trả lời
Những tuần sau đấy các phi công đi lại giữa hai căn cứ của White Waltham, nơi thí nghiệm và Boscombe Down, và xưởng lắp ráp ở Hatfield. Hai chiếc máy bay 316, giờ đây được gọi tên là Ceres, đậu bên cạnh nhau trong phi đội Nữ hoàng và dĩ nhiên được đặc biệt trang bị. Ngăn cho phi hành đoàn vẫn giữ nguyên, phòng cho hành khách được tân trang lại thành ba phòng cá nhân nhỏ có ghế ngồi quay mặt ra phía sau, ban đêm ghế này có thể mở ra thành giường; một phòng ăn có sáu chỗ ngồi, và mười hai ghế có thể nằm được, loại ghế hàng không, dùng cho gia nhân khi tháp tùng Nữ hoàng. Một nam và một nữ cũng có phòng riêng. Phi hành đoàn gồm chỉ huy trưởng phi đội Nữ hoàng, cơ trưởng, phụ tá cơ trưởng, hai sĩ quan cơ khí và hai sĩ quan truyền tin và rada.
Chừng đó cũng đủ cho các chỉ huy trưởng và cơ trưởng Canada và Uùc điều hành chứ đừng nói kiêm thêm việc nào nữa. David nhận ra rằng hầu hết các ngày cuối tuần, anh đã tránh được để tự mình lái xe đến nơi chiếc thuyền buồn của anh đậu ở sông Hamble. Thường thường anh nghỉ cuối tuần trên chiếc Solent một mình. Anh cũng quen một số người Anh nhưng anh không tạo cơ hội để gặp gỡ, chung **ng. Anh luôn luôn cảm thấy thoải mái khi một mình ở trên thuyền và anh thấy thích như vậy. Từ nhỏ anh đã quen với biển cả và ở trên thuyền nên chiếc thuyền năm tấn này đối với anh chẳng có nghĩa lí gì. Anh ta có thể lái một tay và sự cô đơn đem lại cho anh một cảm giác tự do. Ơû xứ Anh, cảm giác mà mọi người đè nặng lên anh từ mọi phía làm cho chàng trai xứ Queensland bối rối. Một mình trên biển cả, trên chiếc thuyền buồm, áp lực đã nhẹ đi và anh ta cảm thấy có gì thênh thang của quê hương mình. Mang một phần tư của một giòng máu bộ lạc Uùc, có lẽ anh muốn làm một điều gì đó theo sở thích. Cho dù nguyên nhân nào đi nữa. David Anderson thích lái thuyền buồm một mình hơn
Một buổi sáng thứ bảy vào tháng bảy anh ta thức dậy sớm trên bãi đậu thuyền trên sông Hamble, tự nấu ăn sáng trước bảy giờ. Cũng giống như những sĩ quan Uùc khác trong việc nấu ăn theo kiểu Anh là, khó mà điều chỉnh thói quen ăn theo khẩu phần của Anh vì món quê nhà vẫn hợp khẩu vị hơn. Tuần qua một oanh tạc cơ trong phi vụ huấn luyện đã đem từ Brisbane đến cho anh ta hai cân thịt heo nạc, cả trăm quả trứng bỏ trong một cái hộp đựng mạt cưa, sáu quả dứa. Anh ta đã nấu một phần thịt heo trong căn hộ của anh và ngày hôm đó anh ta đã ăn sáng với thịt heo và trứng. Anh bắt đầu khởi hành lúc tám giờ và đi xuống dưới Southampton, đi qua Calshot theo gió tây nam dìu dịu thổi, và rồi quay về hướng Tây để cho thuyền Solent đi theo thuỷ triều. Suốt buổi sáng anh cho thuyền chạy nương theo hướng Tây, khi mặt trời lên, gió ngưng thổi mạnh, nhưng thuỷ triều lại dâng mạnh hơn. Đến giờ ăn trưa, anh ta đã qua khỏi lâu đài Hurt và hướng thuyền ra biển. Khi cách Needles, anh ta dừng lại ăn trưa với bánh mì thịt và trái cây, sau đấy gần hai tiếng, anh ta giong buồm chạy lên chạy xuống bờ biển dốc đứng của miền Needles để câu cá ngừ. Câu được ba con nhưng anh ta bỏ cuộc vì thấy câu thêm chẳng ích lợi gì. Nhằm khi thuỷ triều dâng, anh ta quay mũi thuyền Solent ra đi, định đến thị trấn Yarmouth thì dừng lại qua đêm.
Vào những ngày hè nắng ráo Yarmouth là nơi thuyền buồm đậu tấp nập, đầu có đuôi có, cứ hai hay ba chiếc buộc vào một cọc ở trong vịnh. Người điều hành vịnh đứng trên một thuyền nhỏ chỉ cho David chỗ thuyền đậu, tay cầm dây kéo thuyền để cho anh ta vào chỗ cho nhanh, chỉ trong mười lăm phút là phải đậu thuyền sát vào nhau. Anh ta phải ném cái phao cứu hộ trên đầu tàu xuống phía sau lái và ngồi trong buồng lái một lúc, vừa nghỉ xả hơi, vừa xem quang cảnh tàu thuyền, vừa hút thuốc. Nước Anh, anh ta suy nghĩ, còn hướng dẫn Liên hiệp Anh theo thiết kế của những thuyền buồm này, cũng như trong hầu hết các ngành kỹ thuật khác.