Nàng nói:
Ắt hẳn ông ấy rất cô đơn
Dĩ nhiên rồi! Dầu sao bây giờ cũng đã có đường băng. Trước đây, ở đây làm gì có người!
Hai người tiếp tục đi và giờ này đã thấy căn nhà của Quận trưởng. Đi ngược với họ có hai người khác, dắt tay nhau. Người đàn ông cao, dáng thon thả, tóc hoa râm. Người đàn bà hơi thấp, người hơi đẫy, tuổi trung niên; cả hai người mặc đồ trắng mỏng.
David nói:
Em nhìn kìa, chúng ta có nên rút lui chăng?
Rosemary nói:
Không nên. Cứ đi qua tự nhiên, anh Nigger ạ!
Nữ hoàng dừng lại khi hai người tiến đến và nói:
Chào cơ trưởng. Chào em Long. Đây cũng đẹp chứ nhỉ?
Thưa Ngài, dễ thương thôi! – cô gái trả lời
Chàng phi công cười:
Tôi vừa mới giải thích cho Rosemary về Luân Đôn và Paris, thưa Ngài! – chàng nói
Luân Đôn và Paris?
Anh ta giải thích hai từ ấy và Nữ hoàng cười:
Thật vô lý!
Sau đó Nữ hoàng hỏi về nơi ăn chốn ở
Tôi mong mọi người được thoải mái - Nữ hoàng nói tiếp – Tôi nghĩ là chẳng mấy thuận tiện về chỗ ở. Dĩ nhiên, chúng tôi thì không. Chúng ta có được một căn nhà nhỏ rất dễ thương
Rosemary nói:
Thưa Ngài, con nghĩ mọi người đều rất vui. Bất cứ người nào con nói chuyện đều rất thích thú.
David nói:
Không lực Hoàng gia Úc cũng hết sức mãn nguyện.
Tôi cũng rất vui. Giá mà chúng tôi được xem thêm nhiều thứ trên đảo nhỏ này. Tôi không nghĩ rằng có ai trong gia đình tôi đã đến đây bao giờ, ngay cả khi nó thuộc về Anh quốc.
Rosemary hỏi:
Thế nó thuộc nước Úc lúc nào vậy? Con vẫn cứ đinh ninh ngày hôm qua nó vẫn thuộc nước Anh.
Nữ hoàng nói:
Năm 1961, chín năm sau khi ta lên ngôi. Chúng ta đã chuyển giao quần đảo Line cho Úc năm 1961. đấy là một sự sắp xếp hết sức tế nhị – Dừng một chút, Nữ hoàng hỏi – Hai bạn có ai chơi được quần vợt?
Rosemary ngần ngại trả lời:
Con chơi được nhưng dở lắm!
Chàng phi công lại nói:
Dạ, tôi chỉ chơi cho vui thôi!
Nữ hoàng trả lời:
Ta hy vọng hai bạn chơi hay hơn hai chúng ta. Ta tìm được bốn cái vợt này trong căn nhà ấy. Có hai cái bị đứt dây chúng không được căng lắm. Có lẽ vì khí hậu. Chiều nay hai bạn nhớ đến thử một hai ván chơi nhé!
Thưa Ngài, vâng – Rosemary trả lời
Oà thế thì còn gì bằng. Nhớ bốn giờ rưởi nhé! Như thế chúng ta sẽ chơi được một tiếng rưởi trước khi mặt trời lặn. Ta cũng nhớ mỗi người phải lo tập thể dục hàng ngày, khi ở vùng nhiệt đới. Nhưng khó mà làm được điều đó.
Họ chia tay nhau, Nữ hoàng và Quận công đi về hướng khác. David và Rosemary lại sóng bước trong im lặng. Cuối cùng Rosemary nói:
Nữ hoàng là một phụ nữ tuy nhỏ người, nhưng đầy lòng nhân đạo. Thật không may khi ngài lại nhận một trách vụ như thế!
Trời vừa tối, hai người đã trở về nhà ăn. Bữa ăn tối đã chuẩn bị lúc bảy giờ để cô Gillian Foster có thể qua giúp dọn ăn ở nhà Quận trưởng vào lúc tám giờ. Bữa ăn trong nhà ăn thật vui vẻ, nào là rượu xê- ri Uùc, rượu chát của Uùc. Dưới ánh trăng sáng của đèn *****g Trung Quốc, những đĩa dày và dao muỗng nĩa trông rất thanh nhã, và món tôm thú ăn với sốt chua ngọt do đầu bếp Filipino làm rất ngon, có lẽ bỏ nhiều gia vị quá để át mùi đồ hộp. Rosemary không mấy thích tôm sú, nên chẳng ăn con nào. Họ đã nâng ly để chúc sức khoẻ Nữ hoàng, có lẽ vì lòng thương mến hơn là xã giao như trong các nhà ăn. Sau đó Frank Cox cũng chúc sức khoẻ ông bếp trưởng vì đã cho một bữa ăn tối ngon miệng. Sau khi ăn xong, chẳng có việc gì phải làm trừ ra ngồi ngoài hiên nói chuyện, nhìn mông ra ngoài đầm dưới ánh trăng sáng. Ai cũng đã mệt nhoài sau một ngày dài bay từ Ottawa, lần lượt từng người một xin lỗi và chuồn êm. Đến chín giờ rưỡi David mới đi ngủ.
Vào khoảng nửa đêm, cơ trưởng đã trải qua một giấc mơ hãi hùng. Anh ta thấy mính sắp chết, hình như anh ta đang nằm trên một chiếc giường trong một căn phòng tối, anh ta rất lạnh và đồng thời toát mồ hôi. Anh ta đau như cắt ở phần bụng, đôi chân hình như bị tê liệt và mọi thứ quanh anh đều hôi thối, cơ thể hôi thối vì mồ hôi hôi thối, giường nằm hôi thối vì vải trải giường bẩn thỉu, và trong miệng và mũi có mùi gì kì quặc và ghê tởm. Anh ta biết rằng dầu sao cái mùi kinh tởm ấy cũng làm nhẹ cơn đau và anh ta vùng vẫy một cách yếu ớt để cử động đôi tay để cho mùi ấy tái tục nhưng các cơ bắp không nhúc nhích được nữa. Anh ta hiểu rằng chất cay của rượu huýt ki đốt cháy cổ họng cũng làm giảm cơn đau và dịu đi mùi hôi thối quá mức đang bủa vây chỗ anh ta nằm và anh ta cố vùng vẫy để xin cho được huýt ki nhưng tứ bề yên lặng vì thực tế anh ta đã chết .
Có một người đàn ông ngồi cạnh giường, đang nắm bàn tay anh ta và người đàn ông này mất trí nhớ. Bàn tay ông ấy nóng ran như cái lạnh lẽo của David, và cả hai người đang đổ mồ hôi như tắm khiến người ta liên tưởng hai người đang dầm tay dưới nước. Người đàn ông này cũng bệnh hoạn, trí óc đang phiêu du đâu đó, ông ta là một mục sư, một người bạn thân thiết đã kiếm được giường cho người bạn đau tai nằm, nhưng ông ta không còn nhớ gì nữa và đang lang thang trong thế giới đầy thiên thần của thiên đàng.