Anh ấy gật đầu :
Chính vợ anh ta cũng không thích, nên anh ấy chẳng làm gì được. Tôi chỉ sợ làm buồn lòng Cha thôi !
Tôi nói :
Chẳng có chi mà phiền. Tôi đến đây để làm việc ấy.
Tôi chỉ sợ Cha mất ngủ. – Joe nói.
Tôi cười :
Đâu phải là lần đầu tôi ở lại trại của người lái trâu, sẽ còn dài dài.
Chúng tôi khởi hành lúc chín giờ sáng, sau khi đã làm lễ ban Thánh thể và rửa tội. Jock Anderson có hai con ngựa nhưng chỉ một cái yên vì dắt một con ngựa có yên sẵn mà không ai cởi thì cũng hơi quê. Anh ta nài nỉ tôi cởi con có yên, còn anh ta cởi con không yên lại còn đèo thêm cái vali đựng đồ lễ của tôi. Từ Blazing Downs chúng tôi ra đi.
Trên đường đi, anh ta nói rất ít. Tôi hỏi anh ta từ đâu đến, và anh ta nói cho tôi biết đã ở suốt mùa mưa ở Robinson River, hai trăm dặm về hướng tây bắc, vì đã trót ký hợp đồng đem bầy súc vật từ Wollogorang đến ngay xe lửa sau mùa mưa. Anh ta đã ở trên đường đi ba tuần, và hy vọng mười hai ngày nửa sẽ đưa bầy súc vật đến Curry nếu không có chuyện gì xảy ra. Rồi anh lại vội vã trở về Robinson River để kiếm bầy súc vật khác. Dưới quyền anh còn bốn người nữa và ba mươi con ngựa. Anh ta thuộc loại người làm việc đều đặn và có trách nhiệm, cho nên các quản lý trại súc vật, ai cũng cần. Có lẽ, anh là người kiếm được nhiều tiền nhưng lại ít tiêu tiền khi về thị trấn.
Cởi ngựa đến trại của anh ta cũng mất hai giờ, trước khi mặt trời lặn. Trại đóng bên cạnh một vũng nước đọng với bầy gia súc và ngựa khắp nơi. Thường thì anh ta di chuyển, nhưng hôm ấy anh ta nghỉ lại để đón tôi. Trại có lều cho vợ chồng anh ta và một mái che bằng cành bạch đàn cho người nuôi gia súc da trắng, Fleming và ba người thổ dân, ngủ ngoài trời.
Có một nhà bếp thô sơ dựng sát bờ sông, bếp lò làm bằng vài viên đá và hai thanh sắt, có một cô gái canh lửa. Cô gái lai, có nước da màu cà phê, người ít nói nhưng trông cũng có duyên. Vì để đón tôi, cô ta mặc áo đầm đỏ tươi, mái tóc đen dài thì cuốn quanh đầu. Tôi cho đó là chuyện lạ, vì sáng hôm sau, khi nhổ trại, cô ta ăn mặc áo quần đàn ông, quần cao bồi, áo carô. Cô ta phụ trách nấu ăn cho toàn trại.
Cô ta có đứa con nhỏ nằm trong võng đi rừng của quân đội Mỹ, trông giống như một cái giường nôi của trẻ em, cũng có mái che không thấm nước, để cháu bé khỏi bị ánh mặt trời chiếu vào, ở phía trong lại có mùng để ngăn ruồi, muỗi vào cắn đứa nhỏ, rất độc hại. Họ mở mùng cho tôi xem thằng nhỏ. Đứa trẻ bụ bẩm, cũng được nhiều tháng tuổi, nước da cũng không đen lắm. Tôi nói :
Cháu dễ thương quá, sinh lúc nào ?
Jock trả lời :
Ngày chín tháng giêng. Tôi nhớ là ngày thứ Ba sau lễ Ba vua, vào lúc năm giờ sáng, giờ tôi thức dậy, còn mơ màng vì buồn ngủ, nhìn thấy đàn súc vật còn đứng quanh nhà.
Chuyện trùng hợp là tên người đàn ông ấy cũng là Anderson. Tôi định bụng là quên đi chuyện cũ, trở lại với kỷ niệm làm gì ! Tôi nhìn cháu bé nói :
Cháu trông kháu khỉnh. Anh chị muốn đặt tên gì ?
Cô gái nhìn chồng mỉm cười, anh ấy tự tin nói :
Nhà tôi có ý gọi cháu là Stephen khi mới sinh cháu ra, nhưng tôi nghĩ nên chọn tên David, tên của cha tôi. Giờ thì cả hai chúng tôi đều bằng lòng.
Có điều gì ngăn cấm tôi phải cần dấu những cảm xúc hiện đến và tiếp tục công việc cần làm, coi như chẳng có chuyện gì lạ lùng cả. Tôi quay về phía người vợ hỏi :
Chắc chị cũng thỏa mãn với cái tên ấy chứ ?
Cô ta gật đầu :
Tên cháu là David.
David là tên Thánh đấy cô ạ !
Tôi thản nhiên trả lời, trong lúc chờ đợi để tập trung tư tưởng, tôi liếc nhìn bàn tay cô gái, thấy chiếc nhẫn cưới tôi hỏi:
Anh chị đã làm phép cưới ?
Anh ấy trả lời :
Vâng, Cha Fisher đã làm lễ cưới cho chúng tôi tháng chín năm ngoái ở vùng Roper River.
Tôi nghĩ Jock Anderson đã cưới cô gái lai và giờ thì có con, thế cũng được.
Bây giờ thì chẳng có chuyện gì để nói nữa và tôi làm lễ rửa tội cho cháu bé vào Giáo hội Cơ đốc giáo. Chẳng có gì phải chậm trễ nên tôi nói với anh Jock Anderson, phải làm lễ ngay, trước khi ăn, và anh ta đã nói cho bà vợ biết. Chị ta là người ít nói, sau khi người chồng đưa tên, tôi mới biết tên họ của chị ấy là Mary Anderson.
Chuyện người đỡ đầu cũng có chút trở ngại, vì Jock Anderson không chuẩn bị trước. Cuối cùng phải nhờ Phil Fleming, mới có hai mươi tuổi chưa biết nhiều về lễ rửa tội, nên tôi phải nói riêng với anh ta và hướng dẫn những điều cần làm. Chưa có mẹ đỡ đầu nhưng cô Mary nói rằng chị cô là Phoebe, hứa sẽ đỡ đầu cho cháu, nên tôi đã cho phép cô ta thay chị mà làm lễ, vì chị ấy bận làm việc ở Chillagoe.
Họ có một thùng gỗ sạch, đem ra chùi rửa, xong đổ đầy nước lụt và đặt trên một thùng thực phẩm có trải khăn lễ, dùng làm nước rửa tội. Chỗ làm lễ, trước hai cây bạch đàn, gần mép nước và cách xa trại, trên một khoản đất trống sạch sẽ. Chúng tôi đuổi bầy gia súc đi và tập trung chúng lại ở một nơi khác, trước khi buổi lễ bắt đầu.
Từ ngày thụ phong mục sư đến giờ tôi đã làm lễ rửa tội cho trẻ em hàng trăm hàng ngàn lần và với tuổi tôi, ai cũng nghĩ rằng đã nằm lòng ý nghĩa của lời kinh. Hơn nữa, tôi đã tự rèn luyện để tư duy về những từ tôi đang nói là một nghệ thuật ngăn ngừa buổi hành lễ trở thành máy móc, và trước tiên sự tập trung không bao giờ đưa tôi đến một sự bất ngờ nào trong lễ rửa tội cho trẻ em. Nhưng khi tôi đến câu : “Hãy cho đứa bé Chúa Thánh thần, để nó được tái sinh và được làm kẻ thừa kế cho sự cứu rỗi đời đời.”
Tôi phải dừng lại, bởi vì thình lình tôi cũng không hiểu thật sự tôi đang nói gì. Đối với tôi hình như trước đây tôi chưa bao giờ nói những lời như vậy và tôi phải nhìn vào quyển kinh để biết chắc là có trong đó và thật ra, chẳng sai chút nào, trước khi tôi có thể tập trung tư tưởng để tiếp tục hành lễ.
Trong ánh sáng của chiều tàn, quanh chúng tôi bầy gia súc đang đứng dầm mình trong nước, có con di chuyển gây ra những tiếng động bì bỏm, có con nằm phơi mình nhai lại. Mùi súc vật nồng nặc cả khu trại. Tôi nói nhẹ nhàng với người cha đỡ đầu để khiến anh ấy trả lời cho buổi lễ tiến hành êm đẹp. Tôi bồng cháu bé, rời khỏi tay mẹ cháu, và tự mình làm lễ đặt tên cho cháu là David.
Cuối cùng, buổi lễ đã xong, cháu bé đã được đặt lại vào võng, người mẹ bận nấu ăn tối và tôi xếp khăn lễ ở bàn thờ.
Bữa ăn tối cũng như lệ thường – thịt bò ướp muối, nướng ăn với khoai tây, bánh mì tự làm, bơ, trà đậm uống với đường, ngồi ăn ngay trên đất. Ánh nắng tắt dần khi chúng tôi ăn tối và bà mẹ thắp ngọn đèn bão, trong ánh sáng cuối cùng của ngày, tôi đã chọn được một nơi dưới gốc cây để ngủ, mở xách cá nhân và dọn giường để ngủ.
Tôi biết họ sẽ đi ngủ sớm vì họ phải dậy trước rạng đông để nấu ăn sáng và nhổ trại, và tập họp gia súc lên đường trước khi ánh mặt trời ló dạng. Nhưng trong lúc bà mẹ còn dọn dẹp sau bữa ăn tối, lo ru con ngủ ở trong lều, tôi ngồi với Jock Anderson trên một khúc gỗ, hút với anh ta một điếu cuối cùng trước khi đi ngủ.
Tôi nói :
Anh Jock, cháu thật dễ thương, nên hãnh diện vì cháu.
Anh ta trả lời :
Ôi, vì cháu da màu nên có một thời cũng khổ !
Tôi nói :
Chuyện ấy tôi chẳng ngại mấy ! Có nhiều việc trọng đại hơn. Cháu có một người mẹ đảm đang.
Anh ta trả lời :
À, cô ấy là một người đàn bà giỏi. – Anh ta hít một hơi ống điếu rồi nói – Tôi không biết bà con ở nhà nói thế nào ? Họ chẳng bao giờ thông cảm cho, thưa Cha. Một người đàn ông sống năm này sang năm khác và chưa bao giờ thấy một cô da trắng độc thân và cảm thấy cô đơn quá chừng ở trong rừng. Và cô ấy là một người vợ đảm đang.
Tôi nói :
Chắc chắn là thế. Một người con gái da trắng có thể chịu đựng như thế này chăng ? Anh nên nghĩ đến chuyện đã rồi. anh Jock ạ ! Phải vì lòng thương con, giá như anh có thêm các cháu nữa ! Vợ anh thật đảm đang, nhưng rồi ai cũng phải có một gia đình ổn định khi các cháu ra đời.
Anh ta chậm rãi nói :
Vâng, thưa Cha. Cô ấy chỉ biết lo việc gia đình thôi. Ông Jimmie Beeman, quản lý trại Tavistock Forest hứa sẽ cho tôi công việc trưởng toán chăn nuôi gia súc năm ngoái. Ông ta đi xem cuộc đua ngựa và gặp tôi. Có thể tôi không làm nghề này nữa và đến đấy.
Ông cũng biết Mary, phải không ?
Vâng, ông ấy chẳng quan tâm gì đến việc da màu !
Tôi nói :
Tôi rất đồng ý với anh. Anh đừng bắt buộc chị ấy phải đi theo đoàn khi chị ấy có con mọn. Đối với đàn bà điều đó thật không công bằng. Nếu Jimmie Beeman muốn nhận anh vào làm việc ở Tavistock. Tôi phải đi đến đấy. Anh ta có nhà ở đấy, phải không ?
Anh ấy gật đầu :
Tôi phải đắn đo việc ấy, thưa Cha. Ông ta có một căn nhà hai phòng ở khu vực chăn nuôi.
Tôi nói :
Có lẽ ông ấy phải xây thêm một phòng nữa, nếu anh làm với ông ta một hai năm. Thế tôi sẽ nói chuyện với ông ấy khi tôi có việc đi qua vùng ấy, tôi hứa giúp anh – Tôi ngừng nói và hút thuốc, nhìn ra hồ nước dưới ánh trăng lặng lẽ.
Tôi lại nói :
Thế anh có biết cô nàng mà ông ấy kết hôn không ? Nan Fowler, con gái của cụ Jim Fowler làm ở Sở Hỏa xa Julia Creek. – Anh ta gật đầu – Cô ấy là cô giáo vùng Charter Towers.
Tôi nhắc anh ta :
Thì họ cũng sắp có gia đình như anh vậy, mà cô ấy cũng vẫn còn đi dạy. Anh suy nghĩ gì nữa ! Bây giờ anh đã làm cha rồi !
Anh ấy chầm chậm trả lời :
Đấy là sự thật. Tôi nghĩ trường học là nỗi bận tâm của ông ấy đối với người da màu. – Anh ta nói tiếp – Thằng con tôi cũng dễ thương đấy, Cha nhỉ. Nó sẽ lớn lên và đẹp trai. Có thể làm giám thị cho trại nuôi gia súc, không thì làm lái trâu bò.
Tôi bảo :
Đừng nói như thế. Anh phải cho cháu đi học thật đàng hoàng. Anh không thể biết được tương lai một con người sẽ như thế nào. Nó có thể vươn lên để trở thành một cái gì đó trước khi chết.
Chúng tôi gõ sạch ống điếu rồi đi ngủ liền. Tôi nằm như vậy cũng đã lâu, chờ cơn ngủ đến, mãi ngắm những ngôi sao rực rỡ trên bầu trời Queensland, qua sự trang trí mỹ thuật của tàn lá bạch đàn. Tôi hiểu được rằng, ở một góc của bức màn đã được vén lên cho tôi thấy được, qua Stevie Higgins, trong bàn tay của Thượng đế, và tôi vẫn còn bối rối nhận biết tại sao việc ấy đã được thực hiện. Bởi vì điều đó có nghĩa là tôi đã được ngợi khen ở một nơi nào đó rất xa chỗ tôi đang sống, tôi chỉ là một con người nhỏ mọn, tối tăm như bao triệu con người khác vẫn làm công việc thiết thân hàng ngày mà chưa hoàn chỉnh. Tôi là ai mà Thượng đế đã chọn để tiết lộ những huyền vi của Ngài ?
Và Stevie là ai mà sự tiết lộ đầy đủ đã được thực hiện ? Nhưng ở đây tôi cảm thấy đang ở trên một miền đất chắc chắn hơn vì đó là con đường Thượng đế đã vạch ra cho những người nghèo khổ và hèn mọn. Nếu Thánh kinh dạy cho chúng ta điều gì, ý Thượng đế nói ra rất ít với các nhà thông thái và những nhà ngoại giao vĩ đại. Vì thông điệp của Ngài chỉ nói với người nghèo khổ và hèn mọn, người bị gia đình và xã hội ruồng bỏ, người bị khinh khi.
Vì thế, tôi chẳng viết thêm gì cho tác phẩm này. Tôi đã viết ra hết và cũng đã nhẹ nhỏm tâm hồn. Tôi xin gấp tập lại để cho tâm trí thảnh thơi để làm những việc cho họ đạo bao la này. Tất cả kinh nghiệm kỳ lạ này dạy cho tôi đi đến khẳng định, những gì tôi nghĩ là tôi đã biết, bí mật, có lẽ sâu trong đáy lòng. Nếu một điều gì đó được người ta nói là thật, điều đó có nghĩa là chúng ta đã tự tạo ra Thiên Đàng hay Địa Ngục trong cuộc sống hằng ngày của chính chúng ta, và vương quốc Thiên Đàng là ở đây, giờ này, cho những ai trước đây đã ra đi..