Khái lược về chưởng pháp
Trong quyền thuật, đòn đánh ra mau lẹ nhất, chính xác nhất, có sức mạnh nhất mà lại biến hóa khó lường nhất. chính là ở chỗ xuất chưởng. Chưởng đánh ra thì bàn tay chìa thẳng, các ngón tay khít chặt với nhau, lực tụ lại ở cườm tay, rồi tùy thời mà vận dụng. Những thế như Trảm, Thoát, Phách, Lạc, chẳng qua chỉ do vị trí trên dưới tả hữu mà phân biệt ra. Còn những thế như Thân, Xúc, Thiêu, Đái, Hoán, Liêu, Đáp, cho tới Nại, Thác, Phân cũng chỉ là nói về vận động của cườm tay trong khoảng chừng một tấc vuông và trong nháy mắt. Cho nên chưởng pháp biến ảo khó đoán, thần diệu khó nói thường là sau quyền pháp thì nghiên cứu tới chưởng pháp. Chưởng pháp gồm các loại Đơn chưởng, Song chưởng, Hoành chưởng, Thụ chưởng, Thượng chỉ chưởng, Hạ sáp chưởng và Phụng huyệt chưởng. Xin nói đại khái như sau :
ĐƠN CHƯỞNG
Đơn chưởng là một tay phóng ra, bàn tay không nắm lại mà các ngón tay duỗi thẳng khít chặt vào nhau, cạnh bàn tay sẽ dùng vào các thế Trảm, Kích, Phách. Bất luận các bộ pháp liên tiếp nhau thế nào, bất luận đang dùng quyền pháp nào, đều có thể ứng dụng được. Đại để là một tay đánh ra, còn tay kia có thể vận dụng tự do, hoặc co duỗi, hoặc gạt qua lại, cần nhất ở sức mạnh và sức nhanh, như vậy là kiêm cả công lẫn thủ. Còn như Hoành chưởng hay Thủ chưởng, tên gọi tuy có khác, nhưng tính chất cũng chỉ là một, chẳng qua căn cứ vào hình thức biến hóa mà đặt các tên khác nhau, chẳng như Hoành chưởng thì để tay nằm ngang, còn Thụ chưởng thì tay duỗi ra xỉa thẳng tới trước.
SONG CHƯỞNG
Song chưởng là tụ hết lực vào hai tay để tấn công hoặc chống đỡ. Bộ pháp sử dụng rộng rãi, nhưng nên lấy Trường sơn bộ và Đằng bộ làm chủ yếu. Khi tấn công thì dùng song chưởng lợi hơn. Còn như Thượng chỉ chưởng, Hạ sáp chưởng và Phụng huyệt chưởng, thì cũng đều dùng hai tay một lượt, tính chất cũng tương tự với Song chưởng, sự quan hệ về bộ pháp cũng tương đồng, sự khác nhau về tên gọi chẳng qua là căn cứ ở hình thức mà thôi.
Khái lược về chỉ pháp
Chỉ ngón tay là bộ phận nhỏ của cơ thể, sức rất yếu, dường như là không đáng để ý trong quyền thuật, nhưng thật ra không phải vậy tay hay chân cũng đều là khí giới che chở thân thể, mà tay có ngón, cũng như lưỡi dao có mũi nhọn, mũi dao không nhọn sắc là dao bỏ đi, cho nên ngón tay mà không luyện tập thì có khác gì mũi dao cùn, mà cả cánh tay cũng bỏ đi. Hai người tỷ thí, thắng hay bại, sống hay chết, đâu có phải chỉ ở chân tay, bởi vì trong quyền thuật, chúng ta há chẳng nghe tới các chỉ pháp như Song chỉ thám tỏa, hoặc Nhị Long hý châu hay sao ? Chỉ trong chớp mắt mà móc được mắt đối phương, móc được hầu đối phương, hoặc móc rách mũi đối phương, đó không phải là công lực của một hai ngón tay hay sao ? Lại chẳng nghe trong quyền thuật có những tên như Hải để thủ bảo, Tiểu nhi bính mệnh, Mãn môn tuyệt bộ hay sao ? Cử động mấy ngón tay mà làm tổn thương được huyệt đạo hoặc các bộ phận yếu hại trên thân thể đối phương, đó không phải là nhờ chỉ lực hay sao ? Cho nên chúng ta có thể nói rằng chỉ lực tuy yếu nhưng ứng dụng rất rộng rãi, người tập luyện quyền thuật không thể không biết tới chỉ pháp. Chỉ pháp gồm hai loại là Quỵ chỉ và Lập chỉ.
QUỴ CHỈ
Trong Quỵ chỉ, bốn ngón tay cong lại để lợi dụng đốt xương thứ nhì của mỗi ngón. Sức mạnh dồn cả vào các ngón tay. Phép này luyện tập dễ mà ứng dụng cũng dễ, nhưng lại là phép trọng yếu của chỉ pháp.
LẬP CHỈ
Lập chỉ là các ngón tay đứng thẳng, tuy nhiên thường chỉ dùng hai ngón, hoặc ngón trỏ và ngón giữa, hoặc ngón giữa và ngón áp út, cũng có khi dùng tới ba ngón là ngón trỏ, ngón giữa và ngón áp út. Chỉ lực có vẻ yếu, nhưng tập luyện lâu ngày thì ứng dựng như thần, công hiệu cũng ngang với Quỵ chỉ.
Khái lược về chửu pháp
Thuật luyện về chửu pháp (phép sử dụng khuỷu tay và bắp tay) đã từ lâu không thấy nói tới bởi vì người ta không biết rằng ứng dụng của khuỷu tay và bắp tay rất rộng rãi, có quan hệ tới chưởng pháp không ít. Bị chưởng của đối phương tấn công, không dùng chửu thì không thể chống đỡ. Dùø tấn công bằng thế nào đi nữa, đối phương cũng dùng sức mạnh của tay để uy hiếp ta, cho nên phải dùng nguyên tắc "chửu khắc chửu" thì mới ngăn được cái uy, đè được cái khí của đối phương. Chúng ta có thể đến các phép như Đinh chửu, Bang chửu, Đặng chửu, là những phép có sức công cực lớn. Cho nên sau khi nói về chỉ pháp, phải nói qua về chửu pháp để cùng nghiên cứu,
THỤ CHỬU
Trong phép Thụ chửu, bắp tay dựng thẳng, tay hướng lên trên, bàn tay nắm lại theo thế bán quyền, hoặc nắm chặt hẳn lại, đưa ra phía trước để ngăn đòn, tay kia để ở kế bên để giúp sức.
LAN CHỬU
Công dụng của phép Lan chửu là ngăn cản, một bắp tay để nằm ngang, cao hay thấp thì lấy ngực làm chuẩn, tay kia phụ đỡ cánh tay nằm ngang cho vững.
KHẮC CHỬU
Trong phép này cũng để một cánh tay nằm ngang nhưng tay kia thì tùy trường hợp mà vận dụng, hoặc giúp cánh tay nằm ngang trong nhiệm vụ ngăn cản, hoặc có thể tấn công đối phương.
ĐINH CHỬU
Trong phép này, một bắp tay phóng ngang về phía trước, cao ngang vai, đây là đòn tấn công, còn tay kia che giữ một bên làm nhiệm vụ phòng vệ.
BANG CHỬU
Phép này tương tự như phép Đinh chửu, khác một điều là tay kia xuất quyền cùng một lúc để hổ trợ thế xung kích cho cánh tay đang tấn công.
ĐẶNG CHỬU
Trong phép này, một bắp tay cũng dựng thẳng, tương tự như phép Thụ chửu, nhưng nhằm đỡ phía dưới.
Còn về bộ pháp trong khi dùng Chửu pháp thì không nhất định, có thể tùy thời thay đời sao cho thuận lợi, do đó không bàn tới.
|