Thế là nàng quyết định khép mình trước ngoại giới. Nàng nhắm mắt lại. Nàng khép tai lại. Nàng đóng chặt tâm trí mình. Nàng không nghĩ gì nữa, không hy vọng gì nữa. Mấy tháng sau đó là một khoảng trống hoàn toàn trong ký ức nàng. Nàng tuyệt chẳng nhớ bất cứ điều gì xảy ra trong thời gian đó. Khi hồi tỉnh, nàng thấy mình đang ở trong một ngôi nhà mới. Đó là ngôi nhà lẽ ra nàng đã sống từ xưa đến nay. Ba mẹ nàng sống ở đây, anh nàng cũng thế, chị nàng cũng thế. Nhưng đó không phải nhà của nàng. Nó chỉ là một môi trường sống mới mà thôi.
Kumiko trở thành một đứa trẻ lầm lì, khó tính trong môi trường mới đó. Không ai là người cô bé có thể tin, không ai là người cô bé có thể tin vậy vô điều kiện. Ngay cả trong vòng tay cha *** cô cũng không bao giờ hoàn toàn thoải mái. Cô không biết mùi cơ thể họ; cái mùi lạ lẫm đó khiến cô bứt rứt khó chịu. Thậm chí có đôi khi cô còn căm ghét nó. Người duy nhất trong nhà mà Kumiko dần dần cởi mở hơn, dù một cách khó khăn, là chị gái. Cha mẹ đã hết hy vọng có thể gần gũi được cô bé; anh trai gần như không biết đến sự tồn tại của cô. Nhưng chị gái thì thấu hiểu sự bấn loạn và nỗi cô đơn ẩn sau thái độ bướng bỉnh đó. Chị ở suốt ngày bên Kumiko, ngủ cùng buồng với cô, nói chuyện với cô, đọc sách cho cô nghe, đưa cô đi học, giúp cô làm bài tập. Những khi Kumiko rúc vào một góc giường mà khóc hàng giờ, chị gái luôn có mặt, ngồi một bên, ôm chặt cô vào lòng. Chị làm tất cả những gì có thể để tìm đường đến với cõi lòng sâu kín của Kumiko. Giá như chị không chết vì trúng độc thức ăn chỉ một năm sau Kumiko từ Niigata trở về thì mọi chuyện hẳn đã khác đi rất nhiều.
- Nếu chị còn sống thì mọi chuyện trong gia đình hẳn đã tốt hơn rồi, Kumiko nói. – Mới mười một tuổi chị ấy đã là trụ cột về tinh thần cho cả gia đình. Giá như chị không chết thì mọi người khác trong nhà hẳn đã ít khác người hơn. Ít nhất thì em cũng không phải là một trường hợp hết thuốc chữa như thế này. Anh có hiểu ý em không? Em thấy mình thật có lỗi sau chuyện đó. Tại sao em không chết thay cho chị? Tại sao em đây, một đứa chẳng ai cần tới, chẳng đem lại niềm vui cho ai, tại sao em không chết đi? Ba mẹ và anh trai hiểu rõ cảm xúc của em, nhưng họ không hé một lời để an ủi em. Mà đâu chỉ có thế. Họ không từ bất cứ cơ hội nào để nói về người chị quá cố của em: nào chị ấy xinh, nào chị ấy thông minh, nào ai cũng thích chị ấy, nào chị ấy chu đáo quan tâm đến mọi người, nào chị ấy chơi piano giỏi! Thế rồi họ bắt em phải học chơi piano! Sau khi chị mất thì cũng phải có ai sử dụng cây đàn piano to đùng kia chứ! Nhưng em chẳng thích chơi piano tí nào! Em biết mình sẽ chẳng bao giờ chơi hay như chị ấy, em cũng không cần có thêm một cách để chứng tỏ em kém cỏi thế nàóso với chị ấy. Em không thể thế chỗ cho bất cứ ai, nói gì đến cho chị ấy. Nhưng chẳng ai nghe em. Không ai thèm nghe em cả! Mãi đến giờ, hễ nhìn thấy piano là em ghét cay ghét đắng. Thấy ai đó chơi piano là em không chịu nổi.
Tôi vô cùng phẫn nộ với gia đình Kumiko khi nghe nàng kể. Phẫn nộ vì những gì họ đã làm với nàng. Vì những gì họ đã không làm được cho nàng. Ấy là hồi chúng tôi chưa cưới. Hai chúng tôi chỉ mới quen nhau được hai tháng. Đó là một sáng Chủ nhật yên tĩnh, chúng tôi đang nằm trên giường. Nàng kể một hồi lâu về thời thơ ấu, như thể gỡ dần một sợi chỉ rối, thỉnh thoảng lại ngừng để đánh giá tầm quan trọng của từng sự kiện nàng vừa thổ lộ. Đó là lần đầu tiên nàng kể nhiều đến vậy về mình. Trước buổi sáng hôm đó tôi hầu như chẳng biết gì về gia đình hay thời thơ ấu của nàng. Tôi biết tính nàng trầm lặng, rằng nàng thích vẽ, rằng nàng có mái tóc dài thật đẹp, rằng nàng có hai cái bớt trên bả vai phải. Và rằng tôi là người đàn ông đầu tiên trong đời nàng.
Nàng vừa kể vừa khóc thút thít. Tôi hiểu tại sao nàng cần phải khóc. Tôi ôm nàng trong vòng tay, vuốt tóc nàng.
- Nếu chị ấy còn sống, em tin chắc anh sẽ yêu chị ấy, - Kumiko nói. – Hồi xưa ai cũng yêu chị ấy. Vừa thấy lần đầu là đã yêu ngay.
- Có thể, - tôi nói. – Nhưng anh lại phải lòng em. Chuyện ấy đơn giản lắm mà. Chỉ có anh và em thôi. Chị của em chẳng có liên quan gì ở đây hết.
Kumiko nằm đó một hồi mà ngẫm nghĩ. 7 giờ rưỡi sáng Chủ nhật: khi mọi âm thanh đều êm dịu và nhẹ bỗng. Tôi nghe tiếng bồ câu vỗ cánh bay ngang qua mái căn hộ của tôi, ai đó gọi chó ở xa xa. Kumiko nhìn không rời mắt vào một điểm duy nhất trên trần nhà.
- Này, nói em nghe, anh có thích mèo không?
- Có chứ, anh mê mèo lắm, - tôi nói. – Hồi nhỏ lúc nào anh cũng có một con mèo. Anh chơi với nó suốt, ngủ cũng ôm mèo.
- Hay quá! Từ nhỏ em đã thích có mèo đến chết được. Nhưng người ta không cho em nuôi. Mẹ em ghét mèo. Cả đời chưa bao giờ em thử cố sao cho có được cái mình muốn cả. Chưa một lần nào cả. Anh có tin được không? Anh không thể hiểu sống như vậy là thế nào đâu. Khi anh đã quen với cuộc sớng đó rồi – không bao giờ có được cái mình muốn – thì anh sẽ không còn biết mình muốn gì nữa.
Tôi nắm tay nàng.
- Có thể từ trước đến giờ với em là vậy. Nhưng em không còn là trẻ con nữa. Em có quyền chọn cho mình một cuộc sống riêng. Em có thể bắt đầu lại. Nếu muốn có mèo, em chỉ việc chọn một cuộc sống mà trong đó em có một con mèo. Đơn giản thôi mà. Đó là quyền của em… đúng không?
Mắt nàng nhìn chăm chắm vào tôi.
- Ừ… đúng vậy.
Vài tháng sau, Kumiko và tôi bàn chuyện cưới nhau.
* * *
Nếu thuở thiếu thời của Kumiko trong căn nhà đó què quặt, nặng nề, thì thời thơ ấu của Wataya Noburu lại méo mó đến độ phi tự nhiên theo một cách khác. Cha mẹ yêu thằng con duy nhất đến mức cuồng si, nhưng họ không chỉ nâng niu, vồ vập thằng bé mà còn đòi hỏi ở nó nhiều thứ. Người cha tin chắc như đinh đóng cột rằng cách duy nhất để có một cuộc sống sung túc trong xã hội Nhật là phải đạt được những thành tích cao nhất đồng thời gạt bỏ bất cứ ai hay bất cứ việc gì chắn ngang đường tiến thân của ta. Ông ta tin chắc vào triết lý đó với một niềm tin sắt đá.
Chẳng bao lâu sau khi cưới Kumiko, tôi nghe được những lời như vậy từ chính ông ta. Con người ta sinh ra vốn không bình đẳng, ông ta nói. Lý tưởng bình đẳng này nọ nghe thì phải đạo, song chỉ là những thứ vớ vẩn người ta dạy ở trường. Nhật Bản có một thể chế chính trị dân chủ, nhưng đồng thời cũng là một xã hội phân chia giai cấp theo một thứ luật rừng khốc liệt, cá lớn nuốt cá bé, thành thử nếu không trở thành một kẻ trong tầng lớp tinh hoa thì sống ở cái xứ này chẳng để làm gì. Anh sẽ bị nghiền nát thành cám. Anh phải giành giật từng nấc thang một để leo lên, leo lên mãi. Cái tham vọng này hoàn toàn lành mạnh. Nếu người ta đánh mất tham vọng đó, nước Nhật sẽ tiêu vong. Tôi không đưa ra ý kiến gì đáp lại quan điểm của bố vợ. Mà ông ta cũng chả cần nghe ý kiến của tôi. Đơn giản là ông ta tuôn ra niềm tin của mình, cái niềm tin ông cho tin là ngàn đời cũng không đổi.
Mẹ của Kumiko là con gái một quan chức cao cấp. Bà lớn lên ở Yamanote, khu thượng lưu của Tokyo, chưa bao giờ thiếu thốn thứ gì, cũng chẳng có một ý kiến hay tính cách nào để đối chọi lại ông chồng. Theo như tôi thấy, bà ta không có ý kiền về bất cứ sự kiện hay sự vật gì nếu nó không bày ra ngay trước mặt bà ta (nói cho ngay, bà ta bị cận thị cực nặng). Còn nhỡ có lúc nào đó buộc phải phát biểu ý kiến về một cái gì đó nằm ngoài tầm nhìn của mình, bà ta lại vay mượn ý kiến chồng. Giá như bà ta chỉ có vậy thì cũng chẳng làm phiền ai, song, cũng như hầu hết các phụ nữ tương tự, bà ta mắc chứng hợm hĩnh không thể nào chịu nổi. Những kẻ như vậy không có thang giá trị nào cho riêng mình mà chỉ có thể tìm được chỗ đứng trong thiên hạ bằng cách vay mượn các chuẩn mực hoặc quan điểm của người khác. Nguyên lý duy nhất chi phối tâm trí họ là “Mình trông thế nào trong mắt thiên hạ?”. Thế nên bà Wataya trở thành một phụ nữ hẹp hòi, bộp chộp, chẳng quan tâm đến gì khác ngoài địa vị của chồng mình trong chính phủ và thành tích học hành của đứa con trai. Mọi thứ khác không có ý nghĩa gì với bà ta hết.
Thế là ông cha bà mẹ ra sức nhồi nhét cái triết lý đáng ngờ và thế giới quan méo mó của họ vào đầu cậu bé Wataya Noburu. Họ nhồi sọ nó, cho nó học những gia sư tốt nhất mà họ mua được bằng tiền. Mỗi khi nó đạt thứ hạng cao, họ lại thưởng bằng cách mua cho nó bất cứ thứ gì nó muốn. Thời thơ ấu của nó đầy ứ xa hoa vật chất, nhưng khi đến giai đoạn có những rung động và cảm xúc đầu đời, cậu bé chẳng lấy đâu ra thì giờ cho bạn gái, chẳng có dịp nào đi chơi với lũ bạn trai. Cậu phải trút toàn bộ sức lực vào việc duy trì vị trí số một. Wataya Noburu có thích cuộc sống đó chăng, tôi không biết. Kumiko cũng không. Wataya Noburu không phải loại người hay thổ lộ cảm xúc với người khác: không thổ lộ với em gái, không bộc bạch với cha *** không cởi mở với bất kỳ ai. Vả chăng, anh ta chẳng có lựa chọn nào khác. Tôi thấy hình như có những phương thức suy nghĩ giản đơn và một chiều đến nỗi ta không thể nào cưỡng lại được. Dù thế nào, Wataya Noburu cũng đã tốt nghiệp trường tư dành cho giới thượng lưu, thi đỗ vào khoa kinh tế Đại học Tokyo và tốt nghiệp ngôi trường danh giá này với thứ hạng danh giá nhất.
Người cha muốn rằng tốt nghiệp đại học xong anh ta vào làm việc trong chính phủ hay một tập đoàn hàng đầu nào đó, nhưng Wataya lại quyết định theo con đường học thuật và trở thành học giả. Anh ta không phải thằng ngốc. Anh ta biết,môi trường thích hợp với mình không phải là cái thế giới nơi anh ta phải giải quyết các vấn đề thực tiễn cùng với những người khác, mà là cái thế giới đòi hỏi sử dụng tri thức một cách có kỷ luật và hệ thống, cái thế giới đề cao kỹ năng cá nhân của người trí thức. Anh ta theo học năm thứ hai sau đại học ở Yale rồi trở lại theo chương trình nghiên cứu sinh ở Tokyo. Vâng lời cha *** anh ta lấy vợ, đám cưới do hai nhà sắp đặt, nhưng cuộc hôn nhân kéo dài không quá hai năm. Sau khi ly dị, anh ta lại về sống với cha mẹ. Cho tới khi tôi gặp anh ta lần đầu, Wataya Noburu đã là một tay dở dở ương ương, một thằng cha không thể nào ưa nổi.
Sau khi tôi cưới Kumiko được hai năm, Wataya Noburu xuất bản một cuốn sách to, dày. Đó là một công trình nghiên cứu kinh tế đầy rẫy thuật ngữ chuyên môn; tôi đã cố đọc, nhưng đã không thể hiểu tí gì những điều anh ta nói. Không hiểu nổi lấy một trang. Tôi chẳng biết là do nội dung quá khó với tôi hay do tác giả viết tồi. Thế nhưng dân trong ngành thì khen lấy khen để. Một tay điểm sách tuyên nố đây là “một loại công trình kinh tế hoàn toàn mới được viết từ một quan điểm hoàn toàn mới”, nhưng đọc hết bài điểm sách tôi cũng chỉ hiểu được mỗi một câu đó thôi. Chẳng bao lâu giới truyền thông bắt đầu giới thiệu anh ta là “người hùng của thời đại mới”. Hàng đống sách ra đời để diễn giải cuốn sách của anh ta. Hai thành ngữ anh ta chế ra, “kinh tế tính dục” và “kinh tế bài tiết” trở thành câu đầu lưỡi của thiên hạ. Báo và tạp chí đăng trên trang nhất những bài viết về anh ta như một trong các trí thức của thời đại mới. Tôi không tin rằng chính tác giả mấy bài báo đó thật sự hiểu Wataya Noburu nói gì trong cuốn sách của anh ta. Thậm chí tôi ngờ rằng họ chưa hề giở cuốn sách đó ra lần nào nữa kia. Nhưng điều đó chẳng làm họ bận tâm chút nào hết. Wataya Noburu còn trẻ, độc thân, và đủ thông minh để viết một cuốn sách không ai hiểu.
Nó làm anh ta nổi tiếng. Các tạp chí đua nhau mời anh ta viết bài. Anh ta xuất hiện trên truyền hình để bình luận về các vấn đề chính trị và kinh tế. Chẳng mấy chốc anh ta trở thành thành viên thường trực của các chương trình thảo luận bàn tròn về chính trị. Những ai từng biết Wataya Noburu (trong đó có Kumiko và tôi) không thể nào hình dung anh ta lại thích hợp với trò phô phang trước người khác đến vậy. Ai cũng đinh ninh anh ta là loại người thuần túy sách vở, chả quan tâm đến bất cứ gì ngoài lĩnh vực chuyên môn. Nhưng hóa ra, bước vào thế giới truyền thông, anh ta nhập vai mới thật dễ dàng, còn tỏ ra khoái trá là khác. Anh ta không hề nao núng khi bị ống kính quay phim chĩa vào mình. Thậm chí trước ống kính anh ta trông còn thoải mái ung dung hơn cả trong thế giới thực. Chúng tôi vô cùng sửng sốt quan sát sự biến hình đột ngột của anh ta. Gã Wataya Noburu chúng tôi thấy trên truyền hình vận những bộ com lê đắt tiền, cà vạt chọn kỹ không chê vào đâu được, đeo kính gọng đồi mồi. Anh ta để kiểu tóc mới nhất. Rõ ràng anh ta được chăm sóc bởi một tay làm đầu chuyên nghiệp. Tôi chưa thấy anh ta khoe bộ cánh chảnh chọe đến thế bao giờ. Mà thậm chí nếu bộ cánh đó là do hãng truyền hình bắt anh ta mặc thì anh ta cũng đã khoác lên người một cách hết sức tự nhiên, như thể suốt đời anh ta vẫn muôn ăn mặc thế. Con người này là ai vậy? Tôi đã tự hỏi khi lần đầu tiên gặp anh ta. Wataya Noburu đích thực ở đâu?
Trước ống kính anh ta đóng vai Người Ít Nói. Mỗi khi ai hỏi ý kiến, anh ta trả lời đơn giản, rõ ràng, chính xác và súc tích. Khi cuộc tranh luận nóng lên và những người khác vận hết gân cổ mà gào, anh ta vẫn bình thản. Khi bị tấn công bằng những câu hỏi gai góc, anh ta điềm tĩnh, mặc đối phương muốn nói gì thì nói, sau đó chỉ cần buông một câu duy nhất là đập tan mọi lý lẽ của y. Anh ta học được cái nghệ thuật giữ cho giọng nói vẫn đều đều, nụ cười vẫn trên môi mà tung ra ngón đòn chí mạng. Trên màn ảnh tuyền hình, anh ta có vẻ thông minh và đáng tin cậy hơn nhiều so với Wataya Noburu trong thực tế. Tôi không biết làm sao anh ta đạt được như vậy. Anh ta không điển trai, nhưng cao ráo, mảnh dẻ, phong thái đường hoàng, rõ con nhà dòng dõi. Bằng phương tiện truyền hình, Wataya Noburu đã tìm được đúng chỗ cho mình. Truyền thông đại chúng dang rộng tay chào đón anh ta, và anh ta cũng chào đón nó nồng nhiệt như thế.
Thế nhưng tôi không thể nào chịu nổi cái bộ dạng anh ta, dù trên báo hay trên truyền hình. Anh ta là người có tài, có năng lực, tôi không phủ nhận. Tôi nhận thấy quá rõ là khác. Anh ta biết cách quật nốc ao đối thủ một cách chóng vánh và hiệu quả chỉ bằng một vài lời. Anh ta có cái bản năng của loài thú là đánh hơi chiều gió. Nhưng nếu để ý kỹ những gì anh ta nói hay viết, ta sẽ thấy lời lẽ anh ta thiếu sự nhất quán. Chúng không hề phản ánh một thế giới quan duy nhất dựa trên một niềm tin sâu sắc. Thế giới của anh ta là một thế giới mà anh ta dựng nên bằng cách lắp ghép vài ba hệ tư tưởng một chiều. Nếu cần, anh ta có thể xào xáo lại cái kết cấu đó để tạo ra một hệ quan điểm mới trong nháy mắt. Đó là những trò biến dị và tổ hợp tư duy rất tài tình, thậm chí phải nói là đầy nghệ thuật. Nhưng với tôi, tất cả những cái đó chỉ là một trò chơi, không hơn không kém. Nếu trong các quan điểm của anh ra có cái gì đógọi là nhất quán, ấy là cái sự trước sau như một chẳng có gì nhất quán, và nếu anh ta có một thế giới quan thì thế giới quan đó có thể gọi là “tôi chẳng có thế giới quan nào sất”. Nhưng chính những sự thiếu vắng đó lại là hành trang trí tuệ của anh ta. Sự nhất quán và một thế giới quan vững chắc chỉ là những thứ thừa thãi không cần thiết trong những cuộc giao đấu trí tuệ diễn ra trong một thời lượng ngắn ngủi trên truyền hình, thành thử không có những cái đó hóa ra lại là ưu thế lớn của anh ta.
Anh ta chẳng có gì để bảo vệ, nghĩa là anh ta có thể hoàn toàn chú tâm vào những “hành vi giao chiến” thuần tuý. Anh ta chỉ cần tấn công, chỉ cần hạ nốc ao đối thủ. Wataya Noburu là một con tắc kè trí thức, đổi màu tuỳ theo màu của đối thủ, biết điều chỉnh các lập luận logic của mình tùy từng trường hợp sao cho đạt hiệu quả tối đa, và làm các lập luận đó vững chắc hơn bằng tài hùng biện. Tôi không biết làm cách nào anh ta học được những kỹ năng đó, nhưng rõ ràng anh ta có biệt tài thu hút cảm tình của đám đông khán giả. Anh ta biết cần dùng loại lập luận nào có khả năng tác động mạnh nhất đến số đông. Mà các lập luận đó cũng chẳng cần phải có logic, chúng chỉ cần có vẻ như thế, điều quan trọng là chúng đánh vào tâm tư tình cảm người xem.
Một thế mạnh khác của anh ta là phô thuật ngữ chuyên môn. Dĩ nhiên chẳng ai biết mấy thuật ngữ ấy có ý nghĩa gì, nhưng anh ta có khả năng đưa chúng ta với cái vẻ như nếu bạn không hiểu thì tại bạn thôi. Anh ta lại còn luôn trích dẫn số liệu thống kê. Những số liệu ấy nằm sẵn trong đầu anh ta, chúng khiến cho lý lẽ anh ta càng có sức thuyết phục, nhưng nếu về sau nghĩ lại, ta sẽ nhận ra rằng chẳng ai dặt nghi vấn về nguồn hoặc tính tin cậy của các số liệu đó cả.
Những thủ thuật tinh khôn của anh ta thường khiến tôi điên tiết, nhưng tôi chưa bao giờ giải thích được với người khác cụ thể cái gì làm tôi bực bội. Tôi chưa khi nào dựng được một lý lẽ đủ sức quật lại anh ta. Chẳng khác gì đấu quyền Anh với một bóng ma: những quả đấm của ta chỉ vụt vào khoảng không. Tôi bị sốc khi thấy ngay những vị thức giả tinh tương nhất cũng bị cuốn vào cuộc chơi của anh ta. Điều đó khiến tôi khó chịu một cách kỳ lạ.
|