Dường như phải rất lâu tôi mới chạm tới đáy. Thực ra thì chắc hẳn không quá mấy giậy, nhưng trong khoảng thời gian rơi xuống đó tôi đã kịp nhớ lại rất nhiều thứ. Tôi nghĩ về thị trấn quê nhà sao mà xa quá đỗi. Tôi nghĩ về người con gái tôi đã ngủ cùng chỉ một lần duy nhất trước khi xuống tàu ra đi. Tôi nghĩ về bố mẹ tôi. Tôi nhớ mình đã cám ơn trời đã cho tôi một đứa em gái chứ không phải em trai: nhờ vậy thì dù tôi chết bố mẹ tôi vẫn còn có nó và không phải lo rằng đến lượt nó phải đi lính. Tôi nhớ những chiếc bành bột gạo gói trong là sồi. Thế rồi tôi đâm sầm xuống mặt đất khô cứng và bất tỉnh một lát. Dường như toàn bộ không khí bên trong tôi đã phụt cả ra ngoài qua lớp vỏ thân thể tôi. Tôi đã rơi phịt xuống đáy giếng như cái bao cát.
Hẳn tôi đã ngất đi chỉ một thoáng vì cú ngã. Khi tỉnh dậy, tôi cảm thấy có dòng nước nào đó đang rưới lên mình. Ban đầu tôi ngỡ là mưa, nhưng tôi nhầm. Đó là nước tiểu. đám lính Mông Cổ đang đái lên tôi trong khi tôi nằm dưới đáy giếng. Tôi nhìn lên thấy bóng dáng lờ mờ của họ xa mãi trên kia, từng người một đến bên miệng giếng tròn để đái. Quang cảnh đó có gì đó phi thực một cách khủng khiếp, như một cơn ảo giác vì ma túy vậy. Nhưng đó là thực tại. Quả thực tôi đang ở dưới đáy giếng, và người ta đang đái lên tôi bằng nước đái thật. Sau khi cả bọn đã đái xong, một người rọi đèn pin lên tôi. Tôi nghe họ cười rộ. Rồi họ biến mất khỏi mép giếng. Sau đó, mọi sự chìm vào im lặng thăm thẳm.
Tôi nghĩ tốt nhất là nằm sấp một lát, chờ xem họ có quay lại không. Nhưng hai mươi phút trôi qua, rồi ba mươi phút (tôi chỉ đoán vậy vì không có đồng hồ), họ vẫn không quay lại. Dường như họ đã đi, bỏ tôi ở đây. Tôi đã bị bỏ lại ở dưới đáy một cái giếng giữa sa mạc. Khi đã chắc là đám lính không quay lại nữa, tôi quyết định kiểm tra xem mình có bị thương không. Làm việc đó trong bóng tối thật không dễ. Tôi không nhìn thấy chính cơ thể mình. Tôi không thể dùng mắt để xác định xem cơ thể mình có ổn không. Tôi chỉ có thể dùng tay sờ, nhưng không dám chắc những cảm nhận của mình trong bóng tối là chính xác. Tôi cảm thấy mình đang bị dối gạt, bị đánh lừa. Đó là một cảm giác thật kỳ lạ.
Tuy vậy, từng tí một, và bằng cách hết sức chú ý tới từng chi tiết, tôi bắt đầu nhận thức được hoàn cảnh của mình. Điều đầu tiên tôi nhận thấy là tôi đã hết sức gặp may. Đáy giếng tương đối mềm, toàn cát. Nếu không thì khi rơi xuống từ trên cao đến thế chắc tôi đã gãy hết xương. Tôi hít một hơi dài, sâu rồi cố cử động. Trước hết tôi thử cử động các ngón tay. Ngón tay động đậy được, dù yếu ớt. Sau đó tôi thử ngồi dậy, nhưng không được. Cơ thể tôi như đã mất hết cảm giác. Ý thức vẫn còn, nhưng có cái gì đó không ổn trong sự liên lạc giữ ý thức với cơ thể. Tâm trí tôi quyết định làm cái gì đó, nhưng không truyền tải được ý nghĩ đó đến hoạt động các cơ. Tôi đành chịu thua, chỉ nằm im một lát trong bóng tối.
Tôi đã nằm như thế trong bao lâu, tôi không biết. Nhưng rồi, dần dần, cảm giác bắt đầu trở lại. Và cùng với sự phục hồi là – cũng tự nhiên thôi – cái đau xuất hiện. Đau ghê gớm. Chắc tôi gãy chân mất rồi. Và tôi hẳn đã bị trật khớp, có khi còn gãy không chừng.
Tôi nằm đó ráng chịu đau. Không biết tự lúc nào nước mắt tuôn ràn rụa xuống hai má tôi – khóc vì đau, nhưng còn hơn cả đau là khóc vì tuyệt vọng. Chắc ông sẽ không bao giờ hiểu nổi cảm giác ấy đâu – nỗi cô đơn tột cùng, nỗi tuyệt vọng cùng cực khi bị bỏ mặc trong một cái giếng sâu giữa sa mạc ở bên rìa thế giới, người đau như dần trong bóng tối như mực. Thậm chí tôi hối tiếc phải chi tên hạ sĩ quan Mông Cổ bắn quách tôi cho rồi thì có hay hơn không. Nếu tôi bị giết bằng cách đó thì chí ít bọn họ cũng biết về cái chết của tôi. Chứ nếu tôi chết ở đây, đó sẽ là một cái chết thực sự cô độc, một cái chết chẳng ai buồn quan tâm, một cái chết câm lặng.
Thi thoảng tôi nghe tiếng gió. Mỗi khi lùa qua mặt đất, gió lại gây ra một âm thanh kỳ lạ nơi miệng giếng, âm thanh như một người đàn bà than khóc ở một thế giới xa xôi nào. Thế giới đó và thế giới này nối với nhau bằng một đường thông hẹp qua đó giọng của người đàn bà vọng đến tôi, dù chỉ từng chặp cách quãng không đều. Tôi đã bị bỏ mặc một mình trong im lặng sâu thẳm và trong bóng tối còn thăm thẳm hơn thế.
Cố nén đau, tôi vươn tay sờ nền đất quanh mình. Đáy giếng phẳng, không rộng lắm, đường kính khoảng từ mét rưỡi tới mét bảy. Trong khi sờ soạng mặt đất, tay tôi bỗng chạm phải một vật cứng, sắc. Tôi sợ hãi rụt tay về, nhưng rồi lại chầm chậm, cẩn thận chìa tay về phía vật đó. Các ngón tay tôi lại tiếp xúc với cái vật sắc đó. Ban đầu tôi nghĩ đó là một cành cây, nhưng chẳng mấy chốc tôi nhận ra mình đang chạm phải xương. Không phải xương người mà là xương của một con vật nhỏ. Xương vung vãi tứ tung, có thể vài lâu ngày, cũng có thể vì cú ngã của tôi. Chẳng còn gì khác dưới đáy giếng nữa, chỉ toàn cát, mịn và khô.
Kế đó tôi miết lòng bàn tay lên vách giếng. Dường như vách được làm bằng những viên đá mỏng, nhẵn. Bề mặt sa mạc vào ban này nóng như thiêu, nhưng cái nóng đó không xuyên thấu nổi đến thế giới dưới lòng đất này. Các viên đá lạnh toát như băng. Tôi lại sờ soạn lên vách giếng để kiểm tra khoảng hở giữa các viên đá. Nếu đủ chỗ tì chân thì tôi sẽ có thể leo lên được. Nhưng khoảng hở giữa các viên đá quá hẹp không thể tì chân được, đã vậy cái thân tôi bầm dập thế này thì leo lên là chuyện hầu như không tưởng.
Cố hết sức bình sinh, tôi lếch về phía vách giếng, gượng dậy ngồi tựa vào vách. Mỗi cử động lại khiến chân và vai tôi đau thon thót như bị châm hàng trăm mũi kim dày. Sau đó thì từng hơi thở đều khiến tôi có cảm giác toàn thân tôi sắp rời ra từng mạnh. Tôi sờ vai thì thấy nó nóng hầm hập, sưng tấy lên.
* * *
Bao nhiêu thời gian trôi qua như vậy, tôi không biết. Nhưng rồi, đến một lúc, xảy ra một điều mà tôi không thể tưởng tượng nổi. Ánh nắng mặt trời rọi xuống qua miệng giếng như một thứ mặc khải. Trong khoảnh khắc đó, tôi thấy rõ mọi vật quanh mình. Giếng ngập trong ánh sáng rực rỡ. Cả một dòng thác ánh sáng. Cái chói chang đó hầu như làm tôi nghẹt thở. Bóng tối và cái lạnh bị quét sạch trong một khoảnh khắc, ánh mặt trời ấm áp, dịu dàng bao bọc tầm thân trần trụi của tôi. Ngay cả cái đau của tôi dường như cũng được ban phúc trong ánh sáng của mặt trời, cái ánh sáng giờ đây đang rọi chiếu lên mớ xương trắng của con vật nhỏ bên cạnh tôi. Nắm xương đó vốn lẽ ra đã là điềm gở cho cái chết mười mươi của tôi, nhưng trong ánh nắng mặt trời dường như nó lại là một người bạn thân thiết đồng cam cộng khổ. Tôi thấy rõ những tảng đá xây vách giếng bao quanh tôi. Chừng nào còn ở trong ánh sáng, tôi có thể quên hết nỗi sợ, cái đau, cơn tuyệt vọng. Sững sờ, tôi ngồi ngây ra trong ánh sáng chói lòa. Thế rồi ánh sáng biến mất cũng đột ngột như khi nó đến. Bóng tối dày đặc lại trùm lên mọi vật. Khoảnh khắc vừa rồi hết sức ngắn ngủi. Nếu nói theo đồng hồ, nó kéo dài khoảng mười giây, cùng lắm là mười lăm giây. Rõ ràng là do góc độ nên ánh sáng mặt trời chỉ có thể rọi thẳng vào đáy giếng trong ngần ấy thời gian, chỉ một lần duy nhất mỗi ngày. Dòng ánh sáng đã ra đi trước khi tôi kịp hiểu ra ý nghĩa của nó.
Sau khi ánh sáng đã tàn, tôi lại chìm trong bóng tối còn dày đặc hơn trước. Tôi gần như không cử động được. Tôi không có nước, không có thức ăn, không một mảnh vải che thân. Buổi chiều dài dằng dặc trôi qua, rồi đêm đến, nhiệt độ tụt xuống thấp nhất. Tôi gần như không ngủ được. Cơ thể tôi thèm được ngủ, nhưng cái lạnh chọc vào da tôi như hàng ngàn cái gai nhỏ xíu. Tôi cảm thấy như phần cốt tủy của sinh mệnh tôi đang cứng lại, đang chết dần. Trên đầu, tôi thấy những vì sao lạnh giá trên bầu trời. Sao nhiều đến hãi hùng. Tôi ngắm nhìn chúng, quan sát chúng di động chầm chậm. Chuyển động của chúng giúp tôi yên lòng rằng thời gian vẫn đang trôi. Tôi ngủ một chút, sực tỉnh vì lạnh và đau, ngủ thêm chút nữa rồi lại sực tỉnh vì đau.
Cuối cùng trời cũng sáng. Từ miệng giếng tròn, những điểm sáng li ti sắc nhọn của ánh sao dần dần nhạt đi. Thế nhưng, ngay cả khi bình minh đã rạng, các vì sao vẫn không biến mất hoàn toàn. Dù đã mờ nhạt đến hầu như không thấy được, chúng vẫn còn đó. Để cho đỡ khát, tôi liếm những giọt sương buổi sáng đọng trên vách giếng. Dĩ nhiên là chẳng được bao nhiêu, nhưng với tôi chỗ nước đó ngon như một hồng phúc trời cho. Tôi chợt nhớ ra rằng đã suốt một ngày tôi không ăn, không uống. Thế nhưng tôi không thấy đói chút nào.
Tôi cứ ở đó, ngồi yên, dưới đáy lỗ. Tôi không làm gì khác được. Thậm chí tôi không thể suy nghĩ, cảm giác cô đơn và tuyệt vọng của tôi quá to lớn. Tôi ngồi đó chẳng làm gì, chẳng nghĩ gì. Tuy nhiên, một cách vô thức, tôi chờ tia sáng đó, cái dòng ánh sáng chói lòa tuôn thẳng xuống đáy giếng chỉ trong một khoảnh khắc vô cùng ngắn ngủi mỗi ngày. Ắt hẳn đó là một hiện tượng xảy ra lúc rất gần giữa trưa, khi mặt trời nằm ở thiên đỉnh và ánh sáng của nó chiếu vuông góc xuống mặt đất. Tôi đợi ánh sáng đó, ngoài ra tôi không chờ đợi gì nữa. Tôi chẳng còn có thể đợi cái gì khác nữa.
Dường như rất nhiều thời gian đã trôi qua. Đến một lúc, tôi thiếp đi mà không hay. Ngay lúc tôi cảm thấy sự hiện diện của cái gì đó và sực tỉnh thì ánh sáng đã ở đó rồi. Tôi nhận ra mình lại đang ngập trong ánh sáng chan hòa đó. Một cách vô thức, tôi dang rộng hai tay, ngửa lòng bàn tay ra đón nhận mặt trời. Lần này ánh sáng mạnh hơn nhiều so với lần đầu. Nó cũng ở lại với tôi lâu hơn lần trước nhiều. Ít nhất là tôi cảm thấy như vậy. Trong ánh sáng đó, lệ trào khỏi mắt tôi. Tôi cảm thấy như toàn bộ chất lỏng trong cơ thể tôi có thể biến thành nước mắt rồi trào ra khỏi mắt tôi, rằng chính cơ thể cũng có thể tan đi mất. Nếu như điều đó xảy ra trong niềm phúc lạc tột cùng của ánh sáng kỳ vĩ đó thì ngay cái chết cũng không còn đáng sợ nữa. Thực sự tôi cảm thấy muốn chết. Tôi có một cảm giác kỳ diệu về nhất thể, một cảm thức vô cùng lớn lao về sự hợp nhất. Phải, nó đấy: ý nghĩa đích thực của cuộc nhân sinh nằm trong cái ánh sáng chỉ kéo dài mấy giây kia, và tôi cảm thấy thật sự mình cần phải chết ngay lúc đó, ngay ở đó.
Nhưng dĩ nhiên, chưa có chuyện gì kịp xảy ra thì ánh sáng đã biến mất. Tôi vẫn đang ngồi dưới đáy cái giếng khốn khổ kia. Bóng tối và cái lạnh lại siết chặt lấy tôi như thể tuyên bố rằng ánh sáng kia chưa bao giờ tồn tại cả. Tôi cứ ngồi co ro đó mãi một hồi lâu, mặt mũi đầm đìa nước mắt. Như bị một sức mạnh to lớn nào đó giã cho tơi bời, tôi không thể làm gì, không thể nghĩ về bất cứ cái gì, thậm chí không còn cảm thấy sự tồn tại của thân thể mình nữa. Tôi như một bộ xương khô, cái vỏ rỗng bị một con côn trùng bỏ lại. Nhưng rồi, trong tâm trí tôi, như một căn phòng trống, lại hiện về lời tiên tri của hạ sĩ Honda: rằng tôi sẽ không chết ở Trung Hoa đại lục. Giờ đây, khi ánh sáng đó đã đến và đã đi qua, tôi thấy mình có thể tin lời của anh ta. Giờ đây tôi có thể tin lời của anh ta bởi vì, ở nơi mà đáng lẽ ra tôi đã chết, vào thời điểm mà đáng lẽ ra tôi đã chết, tôi đã không thể chết. Không phải tôi không chết, mà là tôi không thể chết. Ông Okada có hiểu tôi đang nói gì không? Bao nhiêu ân huệ mà tôi đã được trời ban cho tôi lúc đó, tôi đã mất cả rồi.
* * *
Kể đến đây, Trung úy Mamiya nhìn đồng hồ.
- Và như ông thấy đó, tôi đang ngồi đây. – Ông lắc đầu như cố xua đi những sợi tơ vô hình của ký ức. – Đúng như ông Honda đã nói, tôi không chết ở Trung Hoa đại lục. Và trong số bốn người chúng tôi khi đó, tôi là người sống lâu nhất.
Tôi im lặng gật đầu.
- Xin ông thứ lỗi cho, chuyện tôi kể dài quá. Phải nghe một lão già vô dụng lãm nhãm liên tục bất tận về những ngày xa xưa thế này hẳn là ông thấy chán lắm. – Trung úy Mamiya đổi thế ngồi trên ghế sofa. – Trời ạ, nếu tôi nán lại thêm nữa thì sẽ nhỡ tàu mất.
Tôi vội tìm cách giữ ông lại.
- Xin ông đừng ngưng câu chuyện như thế, - tôi nói. – Sau đó thì thế nào? Tôi muốn nghe nốt phần còn lại.
Ông nhìn tôi một lát.
- Thế này vậy. Thật sự là tôi muộn tàu mất rồi, hay ông đi bộ với tôi đến trạm xe buýt nhé? Trong khi đi tôi có thể kể vắn tắt cho ông.
Tôi ra khỏi nhà, cùng ông đi bộ đến trạm xe buýt.
- Đến sáng ngày thứ ba, tôi được hạ sĩ Honda cứu thoát. Ông ấy đã cảm thấy rằng đêm hôm đó đám lính Mông Cổ sẽ tấn công chúng tôi, nên đã lẻn ra khỏi lều và nấp kỹ suốt thời gian đó. Ông ấy đã lấy bản tài liệu trong túi của Yamamoto mà mang theo mình. Ông ấy làm vậy bởi vì ưu tiên số một của chúng tôi là phải làm sao cho tài liệu đó không rơi vào tay kẻ thù, dù có phải hy sinh đến đâu. Hẳn ông đang tự hỏi, nếu hạ sĩ Honda đã đoán được quân Mông Cổ sẽ đến thì tại sao ông ấy bỏ chạy một mình mà không đánh thức mọi người để tất cả cùng thoát. Vấn đề đơn giản là chúng tôi không hề có hy vọng thắng trong hoàn cảnh đó. Quân Mông Cổ biết chúng tôi đang ở đâu. Bọn họ quân số đông hơn, súng ống nhiều hơn. Và họ, tìm ra chúng tôi, bắn chết chúng tôi và lấy tài liệu đi là việc dễ như bỡn. Tình huống đã vậy thì hạ sĩ Honda không có cách nào hơn là trốn thoát một mình. Trên chiến trường, hành vi của ông ta có thể là một trường hợp đào ngũ rõ ràng, nhưng với một nhóm đặc nhiệm như chúng tôi thì điều quan trọng nhất là khả năng tùy cơ ứng biến.
Ông ấy đã chứng kiến mọi việc. Ông ấy đã quan sát chúng lột da Yamamoto. Ông ấy đã thấy đám lính Mông Cổ điệu tôi đi. Nhưng ông ấy không còn ngựa nên không thể đi theo ngay lúc đó được. Ông ấy chỉ còn cách cuốc bộ. Ông ấy đào chỗ thức ăn thừa mà chúng tôi đã chôn trong sa mạc lên rồi chôn dấu bản tài liệu cũng ở đó. Sau đó ông ấy đi tìm tôi. Tuy nhiên, để tìm ra được tôi dưới cái giếng kia, ông ấy phải mất nhiều công sức lắm. Thậm chí ông ấy không biết đám lính dẫn tôi về hướng nào kia mà.
- Làm sao ông ấy phát hiện ra cái giếng? – tôi hỏi.
- Tôi không biết, - Trung úy Mamiya nói. – Ông ấy không nói gì nhiều về chuyện đó. Chắc chỉ có thể nói là ông ấy biết, vậy thôi. Khi tìm thấy tôi, ông ấy xé quần áo thành từng mảnh làm thành một sợi dây dài. Đến khi đó tôi hầu như đã bất tỉnh, khiến ông ấy lại càng vất vả hơn mới kéo được tôi lên. Thế rồi ông ấy tìm đâu được con ngựa, liền đặt tôi lên lưng nó. Ông ấy đưa tôi qua các **n cát, vượt sông về chốt tiền tiêu của quân đội Mãn Châu quốc. Ở đó người ta chữa các vết thương cho tôi rồi cho tôi lên một chiếc xe tải do bộ tham mưu cử đến. Tôi được đưa tới bệnh viện Hailar.
- Còn cái tài liệu, bức thư hay cái gì gì đó thì sao?
- Chắc hẳn nó vẫn còn nằm đâu đó trong lòng đất, gần sông Khalkha. Đối với hạ sĩ Honda và tôi, quay trở lại suốt quãng đường đó để đào nó lên là một việc thậm vô lý, mà chúng tôi cũng chẳng tìm được lý do nào để phải nhọc công làm vậy. Chúng tôi đi đến kết luận rằng truớc hết một vật như vậy lẽ ra không bao giờ nên tồn tại. Chúng tôi quyết định sẽ thống nhất lời khai khi bị quân đội tiến hành điều tra. Cả hai chúng tôi sẽ khăng khăng rằng chưa bao giờ nghe nói đến tài liệu tài liếc gì hết. Nếu không, người ta sẽ buộc tội chúng tôi đã không đem tài liệu đó từ sa mạc về. Người ta bắt chúng tôi ở hai phòng riêng biệt được canh phòng cẩn mật viện cớ để chữa trị, rồi ngày nào cũng thẩm vấn chúng tôi. Các sĩ quan cao cấp ngày nào cũng đến, buộc chúng tôi kể đi kể lại mãi chuyện dã xảy ra. Họ hỏi những câu rất tỉ mỉ và rất thông minh. Nhưng dường như họ tin chúng tôi. Tôi kể cho họ đến từng chi tiết nhỏ những gì tôi đã trải qua, nhưng cẩn thận lược bỏ bất cứ điều gì tôi biết về bản tài liệu. Họ ghi lại tất cả, sau đó thì cảnh cáo tôi rằng đây là chuyện tối mật không được phép ghi vào hồ sơ chính thức của quân đội, và tôi không bao giờ được kể cho bất cứ ai, bằng không tôi sẽ bị nghiêm trị. Hai tuần sau tôi được đưa về vị trí ban đầu, còn hạ sĩ Honda chắc cũng được quay về đơn vị cũ.
- Có điều này tôi vẫn chưa rõ, - tôi nói. – Sao họ lại phải cất công đưa ông Honda từ đơn vị của ông ấy sang nhóm đặc nhiệm này?
- Ông ấy chẳng bao giờ nói nhiều với tôi về chuyện đó. Có lẽ người ta cấm ông ấy kể, và tôi ngờ rằng ông ấy cũng nghĩ tôi không biết thì hơn. Tuy nhiên, xét theo những lần nói chuyện với ông ấy, tôi có thể đoán rằng có một mối quan hệ cá nhân nào đó giữa ông ấy với người tên Yamamoto, mối quan hệ đó có liên quan tới năng lực đặc biệt của ông ấy. Tôi thường nghe nói quân đội có một đơn vị riêng chuyên nghiên cứu các hiện tượng huyền bí như vậy. Nghe bảo người ta tập hợp những người có khả năng tâm linh hay ngoại cảm đó từ mọi miền đất nước lại rồi tiến hành thí nghiệm trên họ. Tôi ngờ rằng ông Honda đã gặp Yamamoto trong hoàn cảnh đó. Dù thế nào đi nữa, nếu không có những năng lực đó thì ông Honda hẳn đã không bao giờ tìm được tôi ở dưới giếng và đưa tôi đến đúng vị trí tiền đồn của quân đội Mãn Châu quốc. Bản đồ không, la bàn cũng không, thế mà ông ấy biết chính xác hướng đi không một chút phân vân. Cứ suy theo lối thường thì không thể có chuyện đó được. Tôi là chuyên gia vẽ bản đồ thật đấy, tôi khá rành địa dư vùng đó, nhưng tôi chẳng bao giờ làm được như ông ấy. Có lẽ chính vì năng lực đó mà Yamamoto mới phải tìm đến ông Honda.
Chúng tôi đã tới trạm xe buýt và dừng lại đợi xe.
- Dĩ nhiên, có những điều không rõ đến bây giờ vẫn hoàn toàn không rõ, - Trung úy Mamiya nói. – Có những chuyện đến giờ tôi vẫn không hiểu. Tôi vẫn tự hỏi gã sĩ quan Mông Cổ đi một mình mà chúng tôi đã gặp trong sa mạc là ai. Tôi lại tự hỏi nếu chúng tôi mang bản tài liệu đó về bộ tham mưu thì sự thể sẽ ra sao. Tại sao Yamamoto không để chúng tôi lại trên hữu ngạn sông Khalkha rồi vượt sông một mình? Nếu làm vậy hắn sẽ có thể đi lại tự do hơn nhiều chứ. Có lẽ hắn có ý định dùng chúng tôi làm mồi nhử quân Mông Cổ để hắn có thể thoát một mình. Chuyện ấy có thể lắm. Có lẽ Honda nhận ra điều đó ngay từ đầu nên ông ấy chỉ đứng nhìn khi người Mông Cổ giết Yamamoto.
Dù thế nào đi nữa, mãi rất lâu sau đó tôi với hạ sĩ Honda mới có cơ hội gặp lại nhau. Ngay từ khi đến Hailar chúng tôi đã bị cách ly, người ta cấm chúng tôi nói chuyện với nhau, gặp nhau cũng không được. Thậm chí tôi muốn gặp để cám ơn một lần cuối, người ta cũng không cho. Ông ấy bị thương trong trận Nomonhan và được đưa về nước, còn tôi ở lại Mãn Châu đến hết chiến tranh, sau đó thì bị đưa đi Siberia. Mãi mấy năm sau khi được thả khỏi trại tù ở Siberia và hồi hương, tôi mới tìm lại được ông ấy. Sau đó chúng tôi gặp nhau vài lần nữa, còn lại thì viết thư. Nhưng hình như ông ấy tránh nói về những gì đã xảy ra với chúng tôi bên bờ sông Khalkha, chính tôi cũng chẳng hào hứng nhắc lại chuyện đó lắm. Với cả hai chúng tôi, những gì đã trải qua đó thật lớn lao quá sức, chúng tôi cùng chia sẻ nó bằng cách không nói gì về nó hết. Ông hiểu tôi chứ?
Chuyện hóa ra rất dài như vậy đó, song điều tôi muốn truyền đạt cho ông là, tôi cảm thấy cuộc sống thật của mình đã chấm dứt dưới cái giếng sâu trong sa mạc Ngoại Mông kia. Tôi cảm thấy như thể, trong cái ánh sáng cường liệt mỗi ngày chỉ rọi vào đáy giếng trong mười đến mười lăm giây đó, tôi đã đốt cháy cốt lõi của sinh mệnh mình cho đến khi chẳng còn lại gì nữa. Với tôi cái ánh sáng kia huyền bí đến như vậy đó! Tôi không giải thích được rõ lắm, nhưng nếu cố nói một cách thật trung thực và giản dị, thì từ đó trở đi, dù tôi có gặp chuyện gì, dù tôi có trải nghiệm gì đi nữa, tôi cũng không còn cảm xúc nào trong đáy lòng tôi. Ngay cả khi đối diện với những đơn vị xe tăng Xô Viết khổng lồ kia, ngay cả khi mất bàn tay trái, ngay cả những trại tù Siberia chẳng khác gì địa ngục, trong tôi chỉ có sự vô cảm. Nói thì nghe lạ, nhưng tất cả những chuyện đó chẳng quan trọng chút nào hết. Một cái gì đó bên trong tôi đã chết rồi. Khi ấy tôi nghĩ, lẽ ra tôi nên chết trong ánh sáng đó thì hơn, cứ tan biến đi trong ánh sáng đó thì hơn. Đấy mới là giờ chết của tôi. Song, như ông Honda tiên đoán, tôi đã không chết ở đó. Hay có lẽ phải nói rằng tôi đã không thể chết ở đó.
Tôi trở về Nhật khi đã mất một bàn tay và mất đứt mười hai năm quý báu. Khi tôi về tới Hiroshima thì cha mẹ và em gái tôi đã chết từ lâu. Người ta điều động cô em gái nhỏ của tôi vào làm việc ở một nhà máy, khi bom nguyên tử rơi thì cô ấy đang ở đó. Cha tôi lúc đó đang trên đường tới thăm cô ấy nên cũng mất mạng. Cú sốc khiến mẹ tôi nằm liệt giường, rốt cuộc bà cũng từ trần năm 1947. Như tôi đã kể với ông, cô gái mà xưa kia tôi bí mật cầu hôn đã lấy người khác và có hai đứa con. Ở nghĩa trang, tôi tìm thấy mộ của chính mình. Tôi chẳng còn gì hết. Tôi cảm thấy thực sự trống rỗng, biết rằng mình lẽ ra không nên trở về đây. Từ đó đến nay tôi sống như thế nào, thật khó mà nhớ được. Tôi trở thành thầy giáo dạy môn xã hội, dạy sử địa ở trường trung học, nhưng tôi không sống theo đúng nghĩa của từ. Tôi chỉ đơn thuần thực hiện những nhiệm vụ đời thường người ta giao cho, hết cái này đến cái khác. Tôi không có ai thực sự là bạn, không hề có mối quan hệ bình thường như giữa con người đối với các học sinh mà mình phụ trách. Tôi không hề yêu bất cứ ai. Tôi không còn biết yêu một người khác là như thế nào nữa. Hễ nhắm mắt lại là tôi thấy Yamamoto đang bị lột da sống. Tôi nằm mơ thấy cảnh đó hàng bao nhiêu lần. Mơ đi mơ lại. Tôi thấy người ta lột da sống anh ta, biến anh ta thành một đống thịt. Tôi nghe rõ tiếng thét xé ruột xé gan của anh ta. Tôi cũng thường mơ thấy mình mục ruỗng dần dần, khi vẫn còn sống, ở dười đáy giếng. Đôi khi tôi cảm thấy dường như đó mới là những gì đã xảy ra trong thực tại, còn cuộc sống của tôi hiện giờ chỉ là giấc mơ mà thôi.
Lúc ông Honda bảo tôi trên bờ sông Khalkha rằng tôi sẽ không chết ở Trung Hoa đại lục, tôi đã mừng khôn xiết. Vấn đề không phải là tin hay không tin – đơn giản là khi đó tôi cần bám víu vào một cái gì đó, gì cũng được. Hẳn ông Honda biết vậy nên nói thế chỉ là để an ủi tôi. Nhưng hóa ra chẳng có gì đáng để tôi vui. Trở về Nhật rồi, tôi sống như một cái vỏ rỗng. Sống như cái vỏ rỗng thì không phải là sống, dù kéo dài bao nhiêu năm đi nữa. Con tim và xác thịt của một cái vỏ rỗng chẳng sinh ra gì khác hơn là cuộc sống của một cái vỏ rỗng. Đó mới là điều tôi hy vọng làm ông hiểu, thưa ông Okada.
- Vậy có phải là sau khi về Nhật ông không hề lấy vợ? – tôi đánh bạo hỏi.
- Dĩ nhiên là không, - Trung úy Mamiya đáp. – Tôi không vợ, không cha *** không anh chị em. Tôi hoàn toàn cô độc.
Lưỡng lự một hồi, tôi hỏi:
- Ông có lấy làm tiếc đã nghe lời tiên báo của ông Honda không?
Lần này đến lượt Trung úy Mamiya lưỡng lự. Im lặng một chút, ông nhìn thẳng vào mặt tôi.
- Có thể, - ông nói. – Cũng có thể rằng lẽ ra ông ấy không nên nói những lời đó. Có thể rằng lẽ ra tôi đừng bao giờ nghe những lời đó. Như ông Honda đã nói khi ấy, vận mệnh con người thì chỉ có thể về sau nhìn lại chứ không thể nhìn trước được. Tuy nhiên, nay thì tôi nghĩ: đằng nào cũng vậy thôi. Giờ đây tôi chỉ đang thi hành nghĩa vụ của mình, ấy là tiếp tục sống.
Xe buýt đến, Trung úy Mamiya cúi chào tôi thật thấp. Rồi ông xin lỗi đã lấy mất của tôi nhiều thời gian quý báu.
- Thôi tôi đi đây, - ông nói. – Xin cảm ơn ông về mọi chuyện. Tôi rất vui vì đã trao được cho ông gói quà của ông Honda. Thế nghĩa là rốt cuộc việc của tôi đã làm xong, tôi có thể yên tâm trở về nhà rồi.
Bằng cả bàn tay phải lẫn bàn tay giả, ông khéo léo rút mấy đồng lẻ thả vào hộp thu tiền vé.
Tôi đứng nhìn cho tới khi chiếc xe buýt khuất dạng sau góc phố. Khi xe đi rồi, tôi thấy một cảm giác trống rỗng kỳ lạ trong lòng, cảm giác vô vọng như đứa trẻ bị bỏ rơi một mình ở một nơi xa lạ.
Về nhà, tôi ngồi trên sofa trong phòng khách mở gói quà đựng kỷ vật của ông Honda. Tôi phải toát mồ hôi mới mở được hết lớp giấy gói này đến lớp giấy gói khác đến khi lộ ra một hộp các tông vuông vức. Đó là một hộp whisky Cutty Sark dùng làm quà tặng, nhưng sao nhẹ bỗng, như không hề đựng chai rượu nào. Tôi mở ra thì thấy bên trong chẳng có gì hết. Hộp trống trơn. Tất cả những gì ông Honda để lại cho tôi là một cái hộp rỗng.
|