11
Cái xẻng này có thực không?
(Chuyện xảy ra trong đêm - Phần 2)
Chú bé chìm sâu vào giấc ngủ và mơ một giấc mơ sống động như thật. Tuy nhiên, chú biết đây là mơ, điều đó khiến chú phần nào yên lòng. Mình biết đây là mơ, cho nên những gì xảy ra trước đó là thật. Những chuyện đó đã xảy ra, thật sự xảy ra. Mình có thể nói ngay cái này khác cái kia ở chỗ nào.
Trong giấc mơ, chú bé đi ra ngoài vườn. Lúc đó vẫn đang giữa đêm thâu, xung quanh không một bóng người. Chú bé nhặt xẻng và bắt đầu đào cái lỗ mà người đàn ông cao lớn vừa lấp lại. Y đã kê chiếc xẻng vào gốc cây. Đất vừa mới lấp nên đào lên lại không khó, nhưng với chú bé năm tuổi thì chỉ mới nhấc xẻng lên thôi cũng đã hụt hơi rồi. Đã vậy chú không đi giày. Hai gót chân chú sẽ tê cóng vì lạnh. Dù vậy, chú vẫn vừa thở hổn hển vừa đào, cho tới khi tìm thấy cái túi vải mà nguời đàn ông chôn mới thôi.
Con chim vặn dây cót không kêu nữa. Người đàn ông đã trèo lên cây không hề trở xuống. Đêm lặng ngắt đến nỗi nghe ong ong trong tai. Dường như người đàn ông chỉ vừa biến mất thôi. Nhưng nói gì thì nói, đây là mơ kia mà, chú bé nghĩ. Con chim vặn dây cót kêu và người đàn ông trông giống cha của chú trèo lên cây, mấy chuyện đó đâu phải mơ. Những chuyện ấy đã thực sự xảy ra. Vậy là không thể có mối liên kết nào giữa đằng này với đằng kia. Nhưng thật lạ: chú ở đây, trong giấc mơ, đang đào một cái lỗ thật trong thực tại.Vậy làm sao chú phân biệt cái gì là mơ cái gì không phải là mơ? Cái xẻng này có thực không? Hay là cái xẻng ở trong mơ?
Càng nghĩ, chú bé càng không hiểu ra sao. Thế là chú thôi không vắt óc nghĩ nữa mà hoàn toàn tập trung vào việc đào cái lỗ. Cuối cùng, xẻng bập vào túi vải.
Chú hết sức cẩn thận xới nốt chỗ đất bao quanh sao cho không động tới cái túi vải. Đoạn chú quỳ xuống nhấc cái túi ra khỏi hố. Trời không một gợn mây, không có chướng ngại vật nào ngăn làn ánh sáng ẩm ướt của vầng trăng tròn đổ lên mặt đất. Trong mơ, chú hoàn toàn không thấy sợ. Nỗi tò mò ghê gớm là cảm xúc duy nhất ngự trị trong tâm trí chú. Chú mở túi ra thì thấy trong đó một trái tim người. Chú nhận ra trái tim qua hình dáng và màu sắc đúng như bức tranh chú từng thấy trong cuốn bách khoa thư. Trái tim còn tươi rói, còn sống nguyên và cử động, như một đứa bé vừa bị cha mẹ bỏ rơi. Nó vẫn phập phồng đập mạnh dẫu không có dòng máu nào phụt ra từ những lỗ mạch máu bị cắt. Chú bé nghe tiếng đập thùm thụp inh cả tai, nhưng đó là tiếng đập của chính tim chú. Trái tim bị chôn và trái tim chú đập cùng một nhịp, như đang nói chuyện với nhau.
Chú bé cố thở đều mà tự nhủ một cách dứt khoát: “Chẳng có gì phải sợ! Chỉ là trái tim người thôi mà. Y như trong cuốn bách khoa. Ai cũng có một trái như vậy. Mình cũng có”. Tự trấn an mình rồi, chú lại gói trái tim vào tấm vải, cho xuống hố rồi lấp đất lại. Chú dùng đôi chân trần sai đất cho phẳng để không ai biết là có người đã đào một cái hố ở đó, rồi chú tựa xẻng vào thân cây như trước. Trong đêm, đất lạnh như băng. Xong xuôi đâu đó, chú bé trèo qua bậu cửa sổ, trở về căn phòng ấm áp, quen thuộc của mình. Chú chải bùn đất dính ở chân vào sọt rác để khỏi làm bẩn chăn đệm rồi chui vào giường. Nhưng rồi cậu nhận ra rằng đã có người nằm đó rồi. Ai đó đang ngủ trên giường chú, vùi mình dưới chăn, ngay ở chỗ chú nằm.
Đùng đùng nổi giận, chú bé liền giật mạnh chăn. “Này, cút khỏi đây ngay! Đây là giường của tao!” – chú muốn hét lên như vậy, nhưng không thốt được thành lời, bởi kẻ đang ngủ trên giường kia là chính chú. Chú đang ngủ ngon lành, hít thở đều đặn ở trên giuờng. Chú bé ngây ra như hoá đá, không cất nổi một tiếng nào. Nếu mình đã ngủ ở đây rồi thì cái mình đây sẽ ngủ ở đâu? Lần đầu tiên chú thấy sợ, một nỗi sợ dường như thấu vào tận xương tuỷ chú. Chú bé muốn thét lên. Chú muốn thét càng to càng tốt để đánh thức cái tôi đang ngủ kia dậy, đánh thức tất cả mọi người trong nhà dậy. Nhưng giọng chú đã biến đâu mất. Chú vận hết sức bình sinh, nhưng không bật ra nổi một âm thanh nào. Thế là chú túm vai cái tôi đang ngủ kia mà lay thật lực. Nhưng chú bé đang ngủ kia không thức dậy.
Chú chẳng biết làm gì nữa. Chú cởi áo len ra ném giữa sàn. Đoạn chú ra sức đẩy cái người đang ngủ kia – mà cũng là chú- ra khỏi giường. Chú phải giữ lấy cho mình một chỗ ở đây. Bằng không, có thể chú sẽ bị đẩy bật ra khỏi cái thế giới quen thuộc bấy nay của chú. Nằm co quắp, thậm chí gối cũng chẳng có, nhưng vừa đặt lưng xuống là lập tức chú cảm thấy buồn ngủ lạ lùng. Chú không nghĩ gì được nữa. Chỉ một khoảnh khắc sau chú đã ngủ say như chết.
Sáng hôm sau thức dậy, chú bé đang nằm chính giữa giường, không có ai bên cạnh. Gối đang kê dưới đầu chú. Chú chậm rãi nhỏm dậy, nhìn quanh phòng. Thoạt trông, có vẻ chẳng có gì thay đổi. Vẫn cái bàn đó, cái tủ đó, vẫn cái đèn chân đế kia. Kim đồng hồ chỉ 6 giờ 20 sáng. Nhưng chú bé biết có một cái gì đó đã đổi khác. Mặc dù thoạt trông chẳng có gì thay đổi, nhưng chú bé biết đây không phải là căn phòng nơi chú đi ngủ đêm qua. Không khí, ánh sáng, âm thanh, mùi, tất cả đều khác trước một chút. Người khác có thể không nhận ra, song chú bé thì biết. Chú tung chăn rồi kiểm tra toàn thân mình. Chú giơ hai bàn tay lên rồi lần lượt động đậy từng ngón tay. Tay chú bình thường. Chân cũng ổn. Chú không đau, không ngứa gì. Chú ra khỏi giường rồi xuống phòng vệ sinh. Đi tiểu xong, chú đứng ở bồn rửa nhìn khuôn mặt mình trong gương. Chú cởi áo pajama, đứng lên một chiếc ghế, nhìn hình ảnh phản chiếu cái thân hình bé nhỏ trắng xanh của chú. Không thấy có gì bất thường.
Thế nhưng vẫn có cái gì đó khác. Chú cảm thấy như chính mình đã bị trút vào một cái vỏ chứa khác. Chú biết, chú vẫn chưa hoàn toàn quen với cái cơ thể mới này. Cái cơ thể mới này có gì đó không khớp với cái tôi nguyên thủy của chú. Đột nhiên chú cảm thấy mình thật bơ vơ, không ai giúp đỡ, chú cố gọi *** nhưng cái từ ấy không bật ra khỏi cổ họng chú. Thanh đới của chú không làm rung động nổi không khí, như thể bản thân từ “mẹ” cũng đã biến mất khỏi thế gian. Nhưng chẳng mấy chốc chú nhận ra rằng cái đã biến mất không phải là từ “mẹ”.
12
Liệu pháp bí mật của M
TRÒ HUYỀN BÍ LAN TRÀN TRONG GIỚI
KINH DOANH GIẢI TRÍ
(Trính Nguyệt san _____, tháng Mười Một)
___________________________
... Các liệu pháp huyền bí này, vốn đã trở thành một thứ cơn sốt trong giới kinh doanh giải trí, chủ yếu được lưu truyền bằng cách rỉ tai nhau, nhưng trong một số trường hợp lại mang dấu ấn của vài hội kín nào đó.
Chẳng hạn như trường hợp “M”: 33 tuổi, mười năm trước chỉ đóng vai phụ trong các series kịch truyền hình, được công chúng đón nhận và từ đó chuyên đóng vai chính trong phim truyền hình và phim màn ảnh rộng, sáu năm trước đã cưới một “đấng nam nhi thành đạt” làm nghề kinh doanh bất động sản, hai năm đầu vợ chồng sống với nhau hạnh phúc. Chàng làm ăn phát đạt, nàng cũng có một số vai diễn thành công trong điện ảnh. Nhưng rồi nhà hàng ăn uống và shop thời trang mà chàng thành lập mang tên nàng bị thua lỗ, chàng bắt đầu nợ nần chồng chất nhưng về danh nghĩa người mang nợ là nàng. Vốn dĩ M chẳng bao giờ thích thú chuyện kinh doanh, nhưng do chàng muốn khuếch trương việc làm ăn nên nàng đã ít nhiều để chồng cầm tay bảo gì làm nấy. Có người cho rằng bởi chồng nàng bị dính vào một âm mưu lừa đảo. Ngoài ra, ngay từ đầu giữa M với bố mẹ chồng đã chẳng xuôi chèo mát mái rồi.
Rồi lại có lời đồn rằng giữa M với chồng cũng cơm không ngọt, và chẳng bao lâu hai người sống ly thân. Cách đây hai năm hai vợ chồng đã hoàn tất thủ tục ly hôn chính thức sau khi tòa giúp họ thu xếp trả nợ nần, nhưng sau đó M bắt đầu có dấu hiệu trầm uất; vì phải điều trị nên nàng gần như thôi hẳn đóng phim. Theo một nguồn tin ở hãng phim nơi nàng từng làm việc thì từ sau khi ly hôn, M thường xuyên bị hành hạ vì những cơn ảo giác trầm trọng. Nàng tự hủy hoại sức khỏe do dùng quá nhiều thuốc chống trầm cảm, đến độ người ta bắt đầu nói về nàng rằng “Xưa kia cô ấy từng là diễn viên”. Theo chúng tôi quan sát, “Nàng đã mất khả năng tập trung vốn rất cần thiết để có thể đóng phim, còn ngoại hình nàng cũng xuống cấp đến đáng kinh ngạc. Đã vậy nàng vốn là người bản chất nghiêm túc nên luôn luôn ưu tư về mọi việc đến nỗi ảnh hưởng xấu đến cả tâm thần nàng. Cũng may, tình hình tài chính của nàng vẫn ổn nên dù không làm gì nàng vẫn có thể sống một thời gian”.
Một người họ hàng xa của M là vợ của một chính khách nổi tiếng, cựu bộ trưởng trong Nội các. M gần như là con gái của người này, nên ông ta mới giới thiệu nàng đến gặp một người đàn bà có liệu pháp chữa trị bằng tâm linh cho một nhóm khách hàng rất hạn chế thuộc tầng lớp thượng lưu. M đều đặn đến gặp bà này trong suốt một năm trời để trị chứng trầm uất, nhưng chính xác liệu pháp này bao gồm cái gì thì không ai biết. Bản thân M giữ bí mật hoàn toàn. Dù liệu pháp đó là gì đi nữa thì nó cũng có tác dụng. Chẳng bao lâu M thôi dùng thuốc chống trầm uất, kết quả là nàng không còn bị chứng phù kỳ lạ thường phát sinh do tác dụng của thuốc, tóc nàng lại mọc dày, sắc đẹp của nàng trở lại như xưa. Nàng cũng hồi phục về mặt tâm thần và dần dần đóng phim trở lại. Đến lúc đó thì nàng thôi không điều trị nữa.
Tuy nhiên, vào tháng Mười năm nay, ngay khi ký ức về cơn ác mộng của nàng đã bắt đầu phai nhạt, M lại gặp một sự cố mà trong đó những triệu chứng cũ lại tái phát chẳng vì lý do gì. Thật không đúng lúc chút nào, bởi chỉ vài hôm nữa nàng sẽ phải thủ một vai quan trọng, nhưng trong tình trạng thế này thì nàng không thể đảm đương. M liền liên lạc với người đàn bà nọ yêu cầu được điều trị như mọi lần, nhưng người đàn bà bảo bà ta không còn điều trị nữa. “Tôi rất tiếc, - bà ta nói, - tôi không thể làm gì cho cô. Tôi không còn đủ sức nữa. Tôi đã mất năng lực. Tuy nhiên có một người mà tôi có thể giới thiệu với cô, nhưng cô phải thể giữ bí mật tuyệt đối. Nếu cô hở ra dù chỉ một lời về chuyện này với bất cứ ai thì cô sẽ phải hối tiếc. Thế đã rõ chưa?
M được chỉ dẫn tới một nơi, tại đó người ta đưa nàng đến gặp một người đàn ông có vết bầm màu xanh trên mặt. Người này trạc ba mươi tuổi, không hề nói với nàng một câu trong suốt thời gian nàng ở đó, nhưng liệu pháp của anh ta “có hiệu lực lạ lùng”. M từ chối tiết lột nàng đã phải trả bao nhiêu cho buổi chữa trị, nhưng ta có thể đoán rằng “phí tư vấn” là một khoản tiền khá lớn.
Về liệu pháp bí ẩn mà M đã kể với một người bạn “rất thân”, chúng tôi chỉ được biết như sau. Đầu tiên nàng phải đến “một khách sạn nào đó” ở đó nàng gặp một chàng thanh niên có nhiệm vụ đưa nàng đến gặp “người chữa trị”. Họ lên “một chiếc xe lớn màu đen” trong một lô đỗ xe đặc biệt dưới lòng đất dành cho VIP rồi đi đến nơi liệu pháp được thực hiện. Tuy nhiên, về bản thân liệu pháp kia thì chúng tôi chẳng biết được gì. Người ta nói M đã bảo bạn nàng, “Những người này có sức mạnh đáng sợ. Nếu mình nuốt lời hứa thì sẽ có những chuyện kinh khủng xảy ra cho mình.”
M chỉ đến chỗ đó một lần duy nhất, từ đó trở đi các triệu chứng không trở lại nữa. Chúng tôi đã cố tiếp vận M để tìm thêm thông tin về liệu pháp kia cũng như người đàn bà bí ẩn, song, đúng như chúng tôi đã biết trước, M “cự tuyệt”. Theo một nguồn đáng tin cậy, cái “tổ chức’ này thường tránh tiếp xúc với giới kinh doanh giải trí mà tập trung vào những giới chính trị và tài chính vốn dĩ kín đáo hơn. Những tiếp xúc của chúng tôi với giới nghệ sĩ cho đến nay không mang lại thêm thông tin gì…
13
Kẻ chờ đợi
Không dễ gạt bỏ tôi như vậy đâu
Không ai là một hòn đảo cả
Đã quá 8 giờ, chung quanh tối đen như mực khi tôi mở cánh cổng sau rồi bước ra con ngõ. Cổng rất hẹp, tôi phải lách mình mới len qua được. Cổng cao không đầy một mét, được ngụy trang khôn khéo ở một góc rào để đứng từ bên ngoài thì không thể nhìn thấy cũng chẳng thể sờ ra. Con ngõ bao giờ cũng vậy trồi lên từ trong bóng tối, dưới ánh sáng trắng lạnh của ngọn đèn thủy ngân trong vườn nhà Kasahara May.
Tôi đóng chặt cổng rồi rảo bước theo con ngõ. Qua từng hàng rào tôi thấy loáng thoáng bóng những người đang ăn tối trong phòng ăn hay xem ti vi trong phòng khách. Mùi thức ăn tỏa ra ngoài ngõ qua các cửa sổ nhà bếp và quạt thông gió. Một cậu thiếu niên đang tập một đoạn nhanh trên cây đàn ghita điện hạ thấp âm lượng. Trong một cửa sổ tầng hai, một cô bé nhỏ xíu đang ngồi bên bàn học, vẻ mặt rất nghiêm nghị. Một cặp vợ chồng cãi nhau, tiếng la lối om sòm vang ra ngoài ngõ. Một đứa bé khóc thét. Chuông điện thoại reo. Thực tại tuôn vào con ngõ như nước trào ra khỏi chiếc bát đầy tràn - dưới dạng những âm, những mùi, những hình ảnh, tiếng gọi và lời đáp.
Tôi mang đôi giày tennis quen thuộc. Cần phải đi không quá nhanh, nhưng cũng không quá chậm. Quan trọng là đừng để người ta chú ý, đừng để cái “thực tại” kia phát hiện ra sự có mặt thoáng qua của tôi. Tôi biết rõ từng ngóc ngách, từng vật chướng ngại một. Ngay cả trong bóng tối tôi vẫn có thể đi dọc theo con ngõ kia mà không va vào bất cứ vật gì. Rốt cuộc, khi về đến phía sau nhà mình, tôi dừng lại, nhìn quanh rồi trèo qua bức tường thấp.
Căn nhà lù lù trong bóng tối như cái vỏ của một con thú khổng lồ. Tôi mở khóa cửa bếp, bật đèn rồi thay nước cho mèo. Tôi lấy một hộp thức ăn cho mèo ra khỏi tủ rồi mở ra. Nghe tiếng động đó, Cá thu chẳng biết từ đâu hiện ra. Nó dụi đầu vào chân tôi mấy lần rồi chúi mũi ăn ngon lành. Trong khi con mèo ăn, tôi lấy một lon bia từ trong tủ lạnh. Tôi luôn luôn ăn tối ở Dinh - ở đó Quế đều đặn nấu cho tôi món gì đó – thành thử ở nhà chỉ cần món salad hay một mẩu phó mát là đủ. Tôi vừa uống bia vừa bế con mèo lên đầu gối, để xác nhận bằng hai bàn tay mình cái ấm áp, mềm mại của nó. Suốt ngày chúng tôi ở hai nơi xa nhau, bây giờ cả hai đều muốn cảm nhận rằng mình đang ở nhà.
Nhưng tối hôm đó, khi về đến nhà, vừa cởi giày và vươn tay định bật đèn nhà bếp, tôi bỗng nhận ra sự hiện diện của cái gì đó. Tay tôi chững lại nửa chừng trong bóng tối, nín thở, dỏng tai nghe ngóng. Im lặng như tờ, song tôi ngửi thấy thoang thoảng mùi thuốc lá. Hẳn là ngoài tôi ra, trong nhà đang có một người nữa, người này từ nãy đến giờ ngồi đợi tôi về, và chỉ ít phút trước khi tôi vào nhà đã không nhịn nổi mà châm thuốc hút. Y ta chỉ rít vài hơi rồi mở cửa sổ để khói bay ra ngoài, nhưng cái mùi vẫn còn. Đây hẳn là một người lạ. Cửa thì tôi đã khóa, và trong số những người tôi quen, chỉ một mình Nhục đậu khấu là hút thuốc. Mà nếu bà ta muốn gặp tôi thì hẳn đã không ngồi trong bóng tối thế kia.
Một cách bản năng, tay tôi mò mẫm trong bóng tối tìm cây gậy. Nhưng không có. Cây gậy tôi đã để lại ở giếng. Tim tôi đập thình thình, to đến nỗi như không có thực, như thể nó đã bật ra khỏi lồng ngực mà đập ngay bên tai tôi. Tôi cố thở đều. Có khi tôi cũng chẳng cần gậy. Nếu ai đó lẻn vào nhà nhằm hại tôi thì hẳn y đã không ngồi đợi thế kia. Nhưng dù vậy, hai lòng bàn tay tôi vẫn ngứa ngáy muốn đề phòng. Tay tôi vẫn thèm cái cảm giác siết chặt lấy cây gậy. Con mèo từ đâu xuất hiện, vừa kêu meo meo vừa cọ đầu vào chân tôi. Nhưng lần này nó không đói như mọi khi. Tôi nhận ra điều qua giọng kêu của nó. Tôi sờ được công tắc đèn bếp, liền bật lên.
- Xin ông thứ lỗi cho, tôi cho con mèo ăn rồi, - kẻ đang ngồi trên sofa trong phòng khách nói bằng giọng khá trầm bổng. – Tôi đợi ông từ lâu lắm rồi, thưa ông Okada, mà con mèo thì cứ quẩn chân tôi mà kêu meo meo. Thế là tôi mạo muội lấy thức ăn cất trong chạn ra cho nó. Thật tình mà nói, tôi không hợp với giống mèo lắm…
Y thậm chí không buồn đứng dậy. Tôi nhìn y, không nói gì.
-Hẳn ông bị sốc khi thấy tự dưng có kẻ cha căng chú kiết nào chui vào nhà mình, ngồi đợi mình trong bóng tối. Tôi xin lỗi. Thật tình xin lỗi. Nhưng nếu như tôi bật đèn thì hẳn ông đã cảm thấy có gì bất thường và không vào nhà rồi. Tôi không định làm gì hại đến ông đâu, thành thử xin đừng nhìn tôi như thế. Tôi chỉ muốn nói chuyện với ông một chút thôi.
Y là một người bé nhỏ, vận com lê. Khó mà ước đoán chính xác y cao bao nhiêu bởi y đang ngồi, nhưng hẳn y cùng lắm chỉ hơn mét rưỡi một chút. Khoảng từ bốn mươi lăm đến năm mươi tuổi, trông y như con ếch béo mẫm có cái đầu hói, một tiêu bản hoàn hảo cho loại A theo bảng phân loại của Kasahara May. Thật ra thì phía trên hai tai y có mấy dúm tóc như được dán vào, nhưng bộ dạng đen đúa xấu xí của chúng chỉ càng làm nổi bật hơn cái đầu hói. Cái mũi to tướng hình như bị ngẹt, vì mỗi khi y hít thở, cái mũi lại co vào phồng ra chả khác cái bễ lò rèn. Phía trên mũi là cặp gọng kính kim loại dày cộp. Mỗi khi y nói, môi trên của y lại cong lên (nhưng chỉ với một số từ nhất định thôi), làm lộ ra hàm răng xiêu vẹo vàng khè vì thuốc lá. Chắc chắn rằng y là kẻ xấu xí nhất tôi từng gặp. Mà không chỉ là xấu xí về thể chất; ở y có cái gì đó tơm tởm, lành lạnh, trơn, ẩm mà tôi không biết tả ra sao, kiểu như khi tay ta chạm phải một thứ sâu bọ to đùng không rõ hình thù trong bóng tối. Y giống như con đẻ của một cơn ác mộng ta đã quên từ lâu hơn là giống con người.
-Tôi hút thuốc được không? – y hỏi. – Tôi đã cố không hút, nhưng cứ ngồi đợi mãi, đợi mãi mà không được rít hơi nào thì quả là cực hình. Thói quen thật là xấu, ông ạ.
Tôi không biết nói thế nào, chỉ gật đầu. Kẻ lạ mặt bé nhỏ rít trong túi áo khoác ra một gói “Peace” không đầu lọc, lấy một điếu đưa lên môi rồi quẹt diêm châm lửa làm bật ra một tiếng động lớn, khô khốc. Y nhặt cái vỏ hộp đựng thức ăn mèo ở dưới chân lên, ném que diêm vào. Ra là y dùng vỏ hộp rỗng làm gạt tàn. Y rít mấy hơi vẻ ngon lành thấy rõ, cặp lông mày sâu róm châu vào nhau thành một đường xệch xạc, rồi rên lên khe khẽ vì thích thú. Cứ mỗi lần y rít một hơi dài, đầu điếu thuốc lại bừng lên như than hồng. Tôi mở cánh cửa kính dẫn ra ngoài hiên cho không khí lọt vào. Ngoài kia đang mưa lâm thâm; không nghe thấy, không nhìn thấy, nhưng ngửi mùi tôi biết.
Gã đàn ông mặc bộ com lê màu nước trà, sơ mi trắng, cà vạt đỏ, đều thuộc hạng rẻ tiền và đều cũ rích như nhau. Màu của bộ com lê làm ta liên tưởng tới những nhát sơn vụng về của một gã tay ngang trên chiếc ô tô cũ. Những nếp nhăn sâu hoắm ở quần và áo khoác xem ra cũng trường tồn như những thung lũng trên một bức không ảnh. Chiếc sơ mi trắng đã ngả màu vàng, một cúc trên ngực lúc nào cũng chực rơi ra. Lại nữa, chiếc sơ mi xem chừng nhỏ hơn người y đến hai cỡ, cúc trên cùng bung ra, cổ áo thì xơ xác. Cà vạt thắt theo một kiểu kỳ quặc giống như một mẫu tế bào dị dạng, tuồng như một thứ còn sót lại từ thưở anh em nhà Osmond (6). Ai nhìn qua cũng thấy ngay rằng người đàn ông này tuyệt đối chẳng quan tâm gì đến cái gọi là quần áo. Y mặc quần áo đơn giản vì khi ra ngoài gặp người này người nọ thì không thể không mặc gì, dường như y căm ghét cái vụ quần áo này lắm lắm. Hẳn y có ý định sẽ mặc mãi những thứ này cho tới khi chúng bục ra thành từng mảnh, kiểu như tay nông dân vùng cao cưỡi con lừa của gã từ sáng sớm đến tối mịt cho đến khi nó chết mới thôi.
Sau khi đã hít vào phổi đủ lượng đủ nicotin cần thiết, y thở dài khoan khoái, và một cái vẻ kỳ lạ không ra cười cũng không ra nhếch mép hiện trên mặt y. Rồi y mở miệng.
- Ồ vâng, suýt nữa thì tôi quên tự giới thiệu. Xin lỗi, xin lỗi. Thường tôi không thô lỗ thế. Tên tôi là Ushikawa. Ushi là “con bò” ấy, còn kawa là “sông” (7). Tên dễ nhớ phải không. Ai cũng gọi tôi là Ushi – con bò.
6. Anh em Osmond: một ban nhạc lừng danh của Mỹ, khởi nghiệp vào đầu thập niên 1969 – ND.
7. Ushikawa, viết bằng Hán tự (Kani) là Ngưu Hà – ND