Minh-Ðệ gằn từng tiếng:
– Ta hứa sẽ tha cho người, sẽ giải huyệt cho người, nhưng người không được lên tiếng, bằng không ta giết người ngay. Người có nghe không?
Viên-Hoa gật đầu. Minh-Ðệ giải huyệt cho y, rồi hỏi:
– Cái gã vương gia ban nãy ăn tiệc với người là ai?
– Là Thái-tử Tống, lĩnh Tề-châu tiết độ sứ, tả-kim ngô đại tướng quân, kiểm-hiệu thái sư, tước phong Tần-vương.
– Nói láo. Y là người Tống, mà sao lại nói tiếng Việt như người Việt vậy?
– Tiểu sư phụ không biết đấy thôi. Từ sau khi Nùng Trí-Cao đánh chiếm Lưỡng-Quảng, thì triều Tống hết sức chú ý đến Nam-phương, vì vậy trên từ vương, công, đại thần đến các văn võ bách quan đều thi nhau học tiếng Việt, nghiên cứu lịch-sử, phong-tục, địa-lý Ðại-Việt. Tần-vương nhất tâm nhất trí theo chí hướng Bộc-vương, nên ra sức học tiếng Việt. Người bắt chước Yên-vương Triệu Nguyên-Nghiễm đích thân mạo hiểm Nam du, trước khi thiết kế đánh Ðại-Việt.
– Bộc-vương là ai? Gia-Hựu (Nhân-tông) hoàng đế không có con trai, thì lấy ai mà phong Thái-tử?
– Dạ, Gia-Hựu hoàng đế không có con, nên nhận con trai của người em con chú con bác làm con nuôi, rồi phong làm thái tử.
Minh-Ðệ chợt nhớ lại hồi ở Thăng-long có nghe thầy đồ kể chuyện rằng vua Tống không có con trai, mới nhận con thứ mười ba của Bộc-vương Doãn-Nhượng, cháu của Ung-vương Nguyên-Bân là Thự làm con nuôi, rồi phong làm Thái-tử. Gã vương gia ban nãy chắc là gã Thái-tử này đây.(3)
Ghi chú,
(3) TS quyển 13, Anh-Tông kỷ, trang 283. Ung-vương Nguyên-Bân là con vua Thái-tông, tức ngang vai với Chân-tông. Bộc-vương Doãn-Nhượng ngang vai với vua Nhân-tông. Như vậy Triệu Thự gọi vua Nhân-tông (Gia-hựu) bằng bác.
Nàng hỏi tiếp:
– Tại sao Gia-hựu hoàng-đế vốn chủ hòa với Ðại-Việt, mà gã Thái-tử lại sang bên này đâm bị thóc, chọc bị gạo, mưu đem quân sang đánh chiếm Ðại-Việt?
– Nguyên phụ thân của thái-tử là Doãn-Tuyên vốn thân với bọn hiếu chiến Dư Tĩnh, Tiêu Chú, Lý Sư-Trung, Tống Hàm, Lý Hiến, Quách Qùy, Triệu Tiết, Tiêu Cố, nên thường tỏ ý phản đối Tống triều quá nhu nhược trong vấn đề Nam biên. Triều thần thấy ông là cha đẻ của Thái-tử, tương lai sẽ là Thái-thượng hoàng, nên thường xu phụ ông, theo ông, cùng bàn tính việc đánh chiếm phương Nam. Niên hiệu Gia-Hựu thứ ba (1060), Bộc-vương bị thích khách nhập cung giết chết cùng với một số nho thần chủ Nam xâm. Sát nhân để lại phạm trường một mũi tên bằng vàng, trên có khắc con chim ưng bay qua núi. Ðó là biểu hiệu của Ưng-sơn song hiệp tức Kinh-Nam vương Trần Tự-Mai. Ai cũng bảo Vương bị Kinh-Nam vương giết chết. Vì vậy Thái-tử xin Gia-hựu hoàng-đế cho mật du Nam phương để điều tra. Nhân vậy Thái-tử đem theo một số cao thủ, nho sĩ, kinh lý Nam phương. Không rõ cuộc điều tra ra sao, nhưng Thái-tử cùng tùy tùng thiết kế chuẩn bị đem quân sang đánh Ðại-Việt.
Minh-Ðệ chợt hiểu:
– Trước đây mình cứ tự hỏi rằng: Hoàng-đế Tống chủ trương hòa hoãn ở phương Nam, mà tại sao bọn biên thần lại gây hấn, để rồi xẩy ra cuộc phản công của Ðại-Việt cùng vua bà Bình-Dương (1060), làm Tống hao binh, tổn tướng. Thì ra cái tên Thái tử Thự kia chủ xướng.
Nàng hỏi tiếp:
– Mi có biết rõ kế hoạch của Thái-tử Tống không?
– Thái-tử được hiến kế rằng: Ðại-Việt sở dĩ mạnh là nhờ người người một lòng. Muốn đánh Ðại-Việt thì trước hết phải dùng mưu Ngũ-phân, Tam-điều.
– Ngũ-phân, Tam-điều là gì vậy?
– Ngũ-phân là năm kế chia rẽ. Thứ nhất, chia rẽ triều đình với khê động Bắc-cương. Thứ nhì, chia rẽ các phe phái trong triều. Thứ ba, chia rẽ các môn phái võ lâm. Thứ tư, chia rẽ trong nội cung. Thứ năm, chia rẽ Kinh-Nam vương với Ðại-Việt. Tam điều gồm có: Một là hứa không chiếm Ðại-Việt. Hai là chỉ muốn diệt triều Lý, thường xâm Tống, sẽ phong cho Dương tể tướng làm vua Ðại-Việt. Ba là hứa rằng tất cả bách quan văn võ Ðại-Việt nếu theo Dương, thì sẽ được thăng lên một đẳng. Còn ai chống lại, sẽ bị tru di tam tộc.
Minh-Ðệ nghĩ thầm:
– Mưu kế bọn này thâm sâu thực. Ðích thân tên Triệu Thự giả làm Kinh-Nam vương thì còn ai khám phá ra nữa? Chúng rình lúc chư tăng chùa Từ-quang vắng nhà, xưng là bạn của đại-sư Viên-Chiếu, rồi dạy võ, cho vàng mình, sau đó chính bọn chúng lại tố cáo chư tăng nhận vàng của Kinh-Nam vương hầu làm gian tế cho Tống thì còn chối vào đâu? Mưu này vừa dùng để diệt phe họ Mai trong triều, làm vừa lòng phe họ Dương; lại gây nghi ngờ của Ðại-Việt với Kinh-Nam vương Trần Tự-Mai. Trong vụ này, bọn Tống, họ Dương chủ động, chúng như con dao chém xuống cái thớt lớn là Ðại-Việt, là triều Lý, còn Kinh-Nam vương, chư tăng với ta vô tình là cái vật nằm giữa con dao với cái thớt. Hiểm thực.
Minh-Ðệ hỏi:
– Tại sao với một trừ quân như Triệu Thự, mà khi đến đây họp, y lại chỉ đi có một mình với Trịnh Quang-Thạch?
Có tiếng nói trầm trầm vọng vào:
– Ðâu có, chúng ta đâu có đi một mình?
Minh-Ðệ giật mình quát:
– Ai?
Nàng tung mình ra sân. Dưới ánh trăng, nàng thấy Triệu Thự đứng cạnh một người đàn bà, mà hồi thị đến chùa đã dạy võ, dạy nội công cho nàng. Phía sau còn ba người nữa, một tăng, một nho sĩ, một người không râu. Gần đó Trịnh Quang-Thạch tay để vào đốc kiếm.
Người đàn bà hất hàm hỏi Trịnh Quang-Thạch:
– Quân hầu nói rằng trong vùng này, ngoài đệ tử của quân hầu ra, không còn ai biết võ, sao nay lại có gã tiểu hòa thượng này?
Quang-Thạch khúm núm:
– Khải vương phi, dường như nó từ vùng khác mới tới, có thể nó thuộc phái Tiêu-sơn.
Y hỏi Minh-Ðệ:
– Mi là sư ở chùa nào? Tại sao dám to gan lớn mật đột nhập vào cấm địa của trường Trung-nghĩa?
Minh-Ðệ thấy Quang-Thạch sợ hãi, nàng nói lơ mơ:
– Ta từ chùa Lôi-âm bên Tây-phương cực-lạc, được Phật Thích-Ca sai đến đây để bắt gian.
Quang-Thạch nổi giận, y ra chiêu Ưng-trảo chụp cổ nàng. Minh-Ðệ trầm người tránh khỏi, rồi trả lại một chưởng. Quang-Thạch bật lên tiếng kinh ngạc, y biến trảo thành chưởng đỡ. Bình một tiếng, cả hai đều bật lui lại hai bước đứng gườm gườm nhìn nhau. Bây giờ tới lượt nho sĩ đứng sau Triệu Thự kêu lên tiếng "ái chà", y nói:
– Vương-gia coi, tên trọc con này xử dụng chưởng pháp Ðông-a bằng nội lực Mê-linh, nhưng dường như y có pha nội lực Huyền-âm của phái Trường-bạch bên Trung-nguyên mới lạ.
Quang-Thạch cười nhạt:
– Thì ra mi là đệ tử phái Mê-linh. Nhưng sao mi lại xử dụng quyền pháp Ðông-a? Mi hãy lĩnh của ta chưởng nữa.
Nói rồi y vận công phát chiêu. Minh-Ðệ thấy y tưởng mình là đệ tử Mê-linh thì nghĩ thầm:
– Ðã vậy ta xử dụng chưởng pháp Cửu-chân xưa cho y lầm một thể.
Nàng phát chiêu trong Thiết-kình phi chưởng. Vì nội công của nàng là nội công âm nhu nên không có chưởng phong. Trong khi đó chưởng của Quang-Thạch gió lộng ào ào. Ðấu được hơn năm mươi chiêu, thì tăng nhân đứng sau Triệu Thự nói với y:
– Vương gia xem kìa, tiểu-hòa thượng này tuổi còn quá trẻ, dường như chưa tới hai mươi mà sao công lực đã luyện tới mức thượng thừa. Trong khi ngoại công chỉ biết có pho quyền thô sơ. Còn Siêu-loại hầu thì nội công bình thường, mà chiêu số thực tinh vi. Nếu như hai chưởng gặp nhau, thì e hầu nguy đấy.
Quang-Thạch đấu với Minh-Ðệ trong mười chiêu, y đã nhận ra nội lực mình thua đối phương xa, nhưng nhờ chiêu số tinh vi, nên mới ngang nhau. Y biết rằng nếu để hai chưởng gặp nhau, thì y bị bại, vì vậy y dùng chiêu số ảo diệu tấn công liên tiếp. Bây giờ nghe nhà sư đứng theo Triệu Thự lên tiếng dường như chỉ rõ yếu điểm của y cho đối phương, thì bực mình. Y hừ lên một tiếng, rồi tấn công tới tấp.
Về phần Minh-Ðệ, nàng đã phát huy hết nội lực âm nhu, nên chưởng pháp trở lên cực kỳ trầm trọng. Nghe nhà sư nhắc, nàng hiểu ngay rằng ông ta không ưa Quang-Thạch. Nàng muốn lợi dụng dịp này chia rẽ giữa ông với đối thủ. Nàng lên tiếng:
– A-Di-Dà Phật, đa tạ đại sư phụ chỉ giáo cho tiểu tăng.
Nói rồi thình lình nàng phát ra chiêu Ðông-a chưởng. Quang-Thạch không đề phòng, nên hai chưởng chạm nhau đến bạch một tiếng. Quang-Thạch bị bật tung lại sau đến hơn trượng. Minh-Ðệ chưa kinh nghiệm chiến đấu, bằng không nàng tấn công tiếp hai chiêu nữa thì y đã bỏ mạng. Nhờ Minh-Ðệ tần ngần một chút Quang-Thạch đã lấy lại được thăng bằng, y lại tấn công nàng, nhưng y vừa phát chiêu thì cảm thấy như có con dao đâm vào ngực, đầu, vai. Ðau quá, y bật lên tiếng á rồi y nhảy lên choi choi.
Người đàn bà đi cùng Triệu Thự trước đây đóng vai công chúa Huệ-Nhu, vương phi Kinh-Nam vương... đã dạy võ cho nàng bước ra hỏi:
– Tiểu sư phụ, phải chăng tiểu sư phụ là đệ tử của phái Trường-bạch bên Trung-quốc?
Minh-Ðệ chắp tay:
– A-Di-Ðà Phật, bần tăng chưa từng sang quý quốc, cũng chưa từng biết phái Trường-bạch là gì.
Quang-Thạch vẫn ôm ngực rên rỉ. Gã nho-sinh chợt kêu lên:
– Phải rồi, thì ra tiểu sư phụ đã xử dụng Chu-sa huyền-âm công bằng nội lực âm nhu của phái Mê-linh, rồi phát chiêu trong Thiết-kình phi chưởng. Chẳng hay tiểu sư phụ đã thụ giáo với cao nhân nào?
– Tôi không thể nói được.
Người đàn bà vẫn ôn tồn:
– Tiểu sư phụ với chúng tôi không thù, không oán, hà cớ tiểu sư phụ tò mò vào chuyện của chúng tôi? Nào rình mò, nào tra khảo đại sư Viên-Hoa?
Minh-Ðệ đã đọc rất nhiều sách tại Thính-hương khách xá, tại nhà Thường-Kiệt, nên nàng hiểu rất rõ về chủ đạo tộc Việt. Nàng cung tay nói:
– Vương phi ơi, Vương phi là người Hoa nên Vương phi mới dạy thế. Vương phi nên hiểu cho bần tăng. Bần tăng tuy đã vào chốn không môn, nhưng cũng vẫn là con dân Ðại-Việt. Chủ đạo của tộc Việt định rằng: việc phòng gian, bảo quốc là nhiệm vụ của mọi con dân. Nay Vương gia, Vương phi cùng một số các vị đây đột nhập Ðại-Việt, bàn mưu cùng gian tế đưa ra Ngũ-phân, Tam-điều để chiếm nước của bần tăng, cho nên bần tăng phải điều tra để còn loan báo cho các bậc trưởng thượng hầu cứu nước chứ?
Người đàn bà quay lại bảo nho sinh:
– Tiêu Chú, tiểu sư phụ đã nói vậy, thì chúng ta chẳng còn cách nào nữa. Ai vì nước người đó. Người đã ở Nam-biên lâu ngày, hẳn người biết hết võ công Lĩnh-Nam. Người hãy ra lĩnh giáo mấy cao chiêu của tiểu sư phụ đi, để đưa tiểu sư phụ về với Trưng Trắc, Ðào Kỳ.
Nghe người đàn bà nói, Minh-Ðệ nghĩ thầm:
Thì ra tên nho sinh này là Tiêu Chú đây. Hiện giờ y là người tổng chỉ huy quân Tống tiếp giáp với biên thùy Tống-Việt đây. Mình từng nghe sư huynh Thường-Kiệt nói, Tiêu Chú đã đỗ tiến sĩ, lại xuất thân từ phái Võ-đang. Y dùng binh rất giỏi. Hồi trước y đã từng cầm quân chống lại cuộc Bắc-chinh của công chúa Bảo-Hòa với Nùng Trí-Cao. Sau khi Trí-Cao bị bại, y còn lần mò vào các khê động bắt được mẹ với con Trí-Cao. Ta phải cẩn thận mới được.
Tiêu Chú cung tay:
– Xin mời tiểu sư phụ.
Minh-Ðệ biết rằng với thân phận của Tiêu Chú, chắc y không phát chiêu trước đâu. Nàng cung tay:
– A-di-đà Phật, tiểu tăng xin vô lễ.
Rồi nàng phát chiêu Ðông-hải lưu-phong trong Ðông-a chưởng pháp. Tiêu Chú cười nhạt, y không đỡ chưởng của nàng mà đánh thẳng vào người nàng một chiêu quyền rất nhẹ nhàng. Minh-Ðệ kinh hãi, vội chuyển sang chiêu Phong đáo sơn đầu đỡ. Bộp một tiếng, nàng cảm thấy như trời long đất lở, tai phát ra những tiếng vo vo không ngớt. Minh-Ðệ còn như tê liệt, thì Tiêu Chú đã phát chiêu thứ nhì. Kinh hãi, nàng nghiến răng phát chiêu Phong hoa suy lạc đỡ. Hai chưởng chạm nhau, Minh-Ðệ bật tung người lên cao, rơi xuống phía sau đến hơn trượng.
Người đàn bà lên tiếng:
– Tiểu sư phụ chịu thua đi thôi. Ta chỉ giam tiểu sư phụ lại ít năm, chờ khi đánh xong Ðại-Việt ta sẽ thả tiểu sư phụ ra.
Minh-Ðệ nghĩ thầm:
– Ta thà chết, chứ không chiụ đầu hàng.
Nhưng nàng kiệt sức không ngồi dậy được nữa. Bỗng có tiếng ai dùng Lăng không truyền ngữ rót vào tai:
– Ðừng sợ, tung người dậy tấn công nó đi.
Rồi nàng cảm thấy như có đám bụi bay trên người, đám phấn bụi thơm ngát, khiến sức lực ở đâu sinh ra, nàng tung người dậy phát chiêu tấn công Tiêu Chú. Biến chuyển này làm tất cả mọi người đều kinh ngạc. Tiêu Chú lại phát chiêu đánh vào người Minh-Ðệ, nhưng chợt y cảm thấy có mùi thơm thơm như hương sen thoáng qua, rồi chân tay y bải hoải, kình lực chỉ phát ra được có ba thành. Hai chưởng chạm nhau bịch một tiếng, Tiêu Chú bật tung về phía sau, rồi ngã lộn đi hai vòng.
Tất cả mọi người đều bật lên tiếng kinh ngạc.
Tiếng Lăng-không truyền ngữ vẫn lọt vào tai Minh-Ðệ:
– Tấn công nó mau!
Minh-Ðệ đã có kinh nghiệm, nàng đánh liền hai chiêu chưởng Ðông-a. Tiêu Chú kinh hoàng vội lăn người đi mấy vòng để tránh. Hai chưởng đánh xuống đất bụi bay mịt mờ.
Triệu Thự bực mình:
– Tiêu Chú thực vô dụng. Lý Hiến, người hãy thu thập nhà sư kia cho ta.
Gã không râu tiến ra cung tay:
– Lý Hiến lĩnh Bắc-ban chỉ hậu Tống triều xin tham kiến tiểu sư phụ. Vừa rồi, rõ ràng từ công lực cho tới chiêu số tiểu sư phụ đều thua Tiêu tướng quân, thế mà sao bỗng nhiên tiểu sư phụ chuyển bại thành thắng mau đến không ngờ được? Nào xin tiểu sư phụ tứ giáo.
Nghe Lý Hiến nói, Minh-Ðệ chợt nhớ đến cố sự chép trong Nhân-Huệ hoàng đế kỷ sự: Lý Hiến dự tuyển phò mã, nhưng hạ bộ của y ái nam ái nữ nên bị loại. Tuy nhiên võ công y cao, nên được tuyển làm thái giám. Hèn chi y không có râu.
Minh-Ðệ lại phát chiêu tấn công Lý Hiến. Y trầm người tránh khỏi, rồi trả đòn. Võ công Hiến cao hơn Chú một bậc. Nhưng vừa rồi y thấy Chú bại một cách lạ lùng nên y đánh cầm chừng. Sau mười chiêu, y thấy từ chiêu số đến nội lực, đối phương thua mình xa, y mới phát một chiêu bằng tất cả bình sinh công lực. Chưởng của y chưa ra hết, mà Minh-Ðệ đã cảm thấy ngộp thở. Nhưng thình lình một miếng thịt quay rất chậm, kình lực nhu hòa bay qua đầu Minh-Ðệ trúng vào huyệt Khúc-trì Lý Hiến, khiến tay y tê liệt. Trong khi Minh-Ðệ phát một chiêu đánh vào mặt y. Y không đỡ được, chiêu trúng mặt y đến bạch một tiếng, đau đến chảy nước mắt ra. Y nhảy lùi lại ba bước, miệng hô:
– Kẻ nào ẩn ẩn hiện hiện hại ta? Nếu là anh hùng thì hãy xuất...
Tiếng hiện chưa ra khỏi miệng, thì một miếng thịt nữa trúng huyệt Hạ-quan của y, khiến y không khép miệng lại được; rồi vù một tiếng, vật gì đó bay tới, chui tọt vào miệng y. Giữa lúc đó Minh-Ðệ đánh tới một chưởng lại trúng ngực y. Binh một tiếng, người y bay bổng về sau. Nhưng nhờ nội lực thâm hậu, nên y vô sự.
Bấy giờ Lý Hiến mới moi vật ở trong miệng ra, mọi người nhìn rõ, đó là một cái đùi thịt chó luộc, thịt đã cắt hết, chỉ còn xương với cái chân. Người ném đùi chó đã tính toán sao cho cái chân chui tọt vào miệng Lý Hiến.
Dư Tĩnh phóng mình lại chỗ bụi cây, nơi đùi chó bay tới để tìm thủ phạm hại mình, nhưng y lục lọi một lúc vẫn không thấy gì. Y chửi đổng:
– Ðồ hèn hạ!
Chợt y cảm thấy có gì vướng vướng ở sau lưng. Mọi người cùng mở to mắt nhìn y. Y kinh hoàng đưa tay ra sau sờ, thì ra một vật khá lớn đeo trên cổ y. Y giật mạnh một cái, sợi dây đeo cổ đứt. Y nhìn rõ: đó là cái đầu chó luộc chín, đã cắt hết thịt.
Tất cả mọi người đều kinh hãi, vì bản lĩnh Dư Tĩnh đâu có tầm thường? Mà người nào đó lợi dụng lúc y vướng vít trong bụi cây, đã đem cái đầu chó xỏ vào sợi dây, rồi choàng vào cổ y, mà y không biết. Kẻ đó bản lĩnh phải cao thâm đến cùng cực. Cả bọn Triệu-Thự cùng chạy quanh tìm kiếm đối thủ.
Trịnh-quang-Thạch run run nói:
– Vương gia! Thôi đi. Tìm cũng vô ích. Mộc-Tồn Vọng-Thê hoà thượng đi rồi.
Yến-Loan nghĩ thầm:
– Quả là Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng đã ra tay.
Dư Tĩnh kinh ngạc:
– Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng? Tại sao lại có cái tên hoà thượng thịt chó? Bộ có hoà thượng chuyên ăn thịt chó sao?
Triệu Thự cũng hỏi:
– Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng là ai vậy?
– Thần cũng không biết nữa. Từ hơn hai mươi năm nay, trong nước Ðại-Việt xuất hiện hai tăng-nhân võ công cực kỳ cao thâm. Không rõ hai ông thuộc môn phái nào, chùa nào, tuổi tác bao nhiêu? Khi đấu với ai, hai ông chỉ đánh ba chiêu, sau đó dù đối thủ chết hay sống hai ông cùng thôi. Nhưng ít ai chịu được ba chiêu của hai ông.
Dư Tĩnh vốn thông minh, y hỏi:
– Vừa rồi ông ta ném thịt chó, quẳng đùi chó, choàng đầu chó. Như vậy là đủ ba chiêu, rồi bỏ đi chăng?
– Vâng.
– Người nói đó là hai nhà sư. Vậy một ông tên Mộc-Tồn, một ông tên Vọng-Thê hay sao?
– Không! Hai ông không hề xưng tên. Cho đến nay, võ lâm vẫn chưa biết hai ông tên thực là gì. Nguyên hai ông là sư huynh, sư đệ đồng môn. Sư huynh đi đâu cũng mang trong người mấy đùi chó. Khi gặp người nào nói năng không vừa ý là ông nhét chân chó vào miệng, hoặc treo đầu chó vào cổ. Lúc tụng kinh, thì dùng đùi chó làm dùi gõ mõ. Còn sư đệ thì lúc nào trên áo cũng vẽ bông sen, ăn chay. Sư huynh thì hơi tý là đánh người, giết người. Còn sư đệ là một thầy thuốc cực kỳ cao minh, ông chỉ biết cứu người. Ông luôn ngăn cản sư huynh. Hai người ẩn ẩn hiện hiện không chừng. Vì vậy người ta gọi sư huynh là Mộc-Tồn Vọng-Thê hoà thượng và gọi sư đệ là Liên-Hoa Ðại-Từ hòa thượng.
Triệu Thự lại hỏi:
– Cái tên Mộc-Tồn người đã giải thích rồi. Thế còn cái tên Vọng-Thê? Ông ta cũng có vợ hay sao?
– Vâng. Nghe đâu hồi còn trẻ ông ta có một mối tình tuyệt vời. Nhưng không rõ sau vì lý do gì hai vợ chồng cách biệt nhau. Cho nên cứ mỗi ngày, ông ta lại hái hoa, ra chỗ vắng nói chuyện với vợ như vợ ngồi trước mặt. Vì vậy mới có tên Mộc-Tồn Vọng-Thê là thế. Ông ta như một hình quan tư, bất kỳ ai bị quan lại hà khắc, bị cường hào ác bá áp chế, chỉ cần viết một đơn kiện gửi cho ông, rồi dán ở nơi công cộng, lập tức ông cho đệ tử điều tra, rồi xử ngay.
Dư Tĩnh rùng mình:
– Như vậy ông cũng hành sự giống như Ưng-sơn song hiệp hay sao?
– Gần như thế. Khi xử người Hoa thì Ưng-sơn căn cứ vào bộ luật Tống. Khi xử người Việt thì căn cứ vào bộ Ðại-Việt Hình-thư. Lúc kết tội ai, Ưng-sơn gửi bản án cho triều đình Tống, Việt; hoặc hình quan Tống-Việt, rồi hạn trong thời gian nào đó, mà Tống, Việt chưa xử thì Ưng-sơn mới ra tay. Duy các tội sau đây, thì Ưng-sơn xử thẳng: chia rẽ tình Hoa-Việt, làm gian tế cho ngoại bang và khi-quân.
Ðến đây y rùng mình, rồi tiếp:
-– Còn Mộc-Tồn hòa thượng thì khác. Khi thì ông xử theo bộ Hình-thư, khi thì ông xử theo luật võ-lâm, khi thì ông xử theo luật của ông. Ông là người hỉ nộ bất thường. Trên bản án tử hình của ông thường gi chữ: Án sẽ thi hành trong một trăm ngày. Nếu trong hạn ấy, mà tiên-nương Bảo-Hòa, Thiếu-Mai truyền ân xá, thì tội nhân được tha.
Mọi người cùng bật lên tiếng a. Dư Tĩnh kể lý lịch tiên-nương Bảo-Hòa, Thiếu-Mai cho Triệu Thự nghe. Thự đoán:
– Như vậy có thể tiên-nương Bảo-Hòa là sư phụ của Mộc-Tồn chăng?
– Thần không rõ.
Triệu Thự nhăn mặt:
– Quân hầu thử kể cho cô gia nghe một vài vụ án Mộc-Tồn hòa thượng đã xử để cô gia đánh giá ông ta.
– Năm trước đây, lý-trưởng làng Nghi-tàm tằng tịu với thị Hải là vợ của nho-sinh Triệu Bình. Khi có lệnh vua bắt cung ứng hoàng-nam chuyển lương lên Bắc-biên, đúng ra Bình có ba con, nhà lại nghèo thì được miễn. Nhưng lý-trưởng cứ bắt đi. Ức lòng Bình lên cáo với quan huyện. Quan huyện nghe lời lý-trưởng trình rằng Bình là người cứng đầu, rồi hối lộ quan huyện xin bỏ tù Bình. Quan huyện truyền giam Bình lại. Thế là ở nhà lý-trưởng tha hồ tằng tịu với thị Hải. Ức lòng, đêm Bình vượt ngục về nhà lấy ít tiền để trốn đi. Không ngờ gặp đúng lúc lý-trưởng đang ngủ với vợ y. Y vác gậy đánh gian-phu, dâm-phụ. Lý-trưởng hô tuần đinh trói Bình lại giải lên huyện về tội vượt ngục, mưu sát. Quan huyện kết tội Bình bị xử trảm. Ức lòng, Bình la hét kêu gọi Mộc-Tồn hòa thượng. Ðêm đó Mộc-Tồn hòa thượng cùng mười đệ tử xuất hiện, bắt quan huyện, lý-trưởng, thị Hải cùng Bình giải về Nghi-tàm, sai đánh trống, đốt đuốc xem ông xử kiện.
Dư Tĩnh cau mày:
– Thế lý dịch, trương tuần trong làng đâu? Hoàng nam đâu, mà để cho ông ta hoành hành như vậy?
– Thưa, người của ông ta đã bắt tiên chỉ, thứ chỉ, phó lý, trương tuần ra đình điểm huyệt, rồi bắt những người đó đánh trống hội dân làng tới xem ông xử kiện.
Ông ta xử như thế nào?
– Sau khi hỏi cung, ông ta tuyên án: quan phủ ăn hối lộ, như vậy phải cắt lưỡi. Y bênh kẻ gian, hại người ngay, tức bất minh, phải khoét mắt. Lên án oan cho ngoan dân, phải tội cắt một chân một tay. Lý-trưởng gian dâm với vợ người, phải tội thiến. Vì muốn gian dâm, mà hại người thì phải tội cắt lưỡi, chặt hai chân. Còn thị Hải vì có ba con nên chỉ bị rạch trên mặt mười vết, rồi cắt lưỡi. Sau khi lên án, ông cho thi hành liền.
Triệu Thự kinh hãi:
– Mấy người đó có chết không?
– Thưa, sau khi Mộc-Tồn hòa thượng hành hình, thì Liên-Hoa Ðại-từ hòa thượng lại dùng thuốc băng bó cho tội phạm, thành ra họ vẫn sống. Một vụ khác trấn động vùng Cổ-loa. Nguyên trong vùng có một viên quan, nhà giầu. Viên quan này nổi tiếng keo kiệt. Y cho tá điền thuê ruộng với tô cực cao. Năm đó mất mùa, hầu hết tá điền không đủ lúa nộp cho chủ. Viên quan cho nặc nô tới nhà tá điền siết gia súc trừ nợ. Nếu như chưa đủ, y bắt vợ con tá điền làm nô bộc. Có người đàn bà mang thai, bị bắt làm nô bộc, lao lực quá độ đến nỗi trụy thai mà chết. Thị chết rồi, mà chủ điền cũng không cho cỗ quan tài để chôn. Người chồng ôm xác vợ xin chủ điền cho mượn cái móng để đào lỗ chôn vợ. Chủ điền cũng không cho. Anh ta ôm xác vợ ra đồng ngồi khóc. Anh ta gọi lớn: "Ối Mộc-Tồn hòa-thượng ôi. Sao con khổ thế này". Rồi anh ôm vợ ngồi khóc đến khuya. Ðêm Mộc-Tồn hòa thượng xuất hiện. Cũng như mọi lần, đệ tử của ông bắt tiên, thứ chỉ; chánh, phó lý; trương tuần điểm huyệt, rồi kéo đến nhà viên quan. Ông truyền đánh trống mời cả làng đến nghe ông xử kiện. Sau khi hỏi cung, ông tuyên án: "Ruộng đất là của trời. Mày làm quan may mắn được thụ hưởng nhiều, thì phải biết thương kẻ khó chứ? Mày bắt vợ nó làm việc đến trụy thai là quá ác. Ðã vậy mày còn không cho lấy tấm ván đem chôn, không cho mượn lấy cả cái móng thì còn trời đất nào không? Bây giờ tao tuyên hai án, cho mày chọn. Án thứ nhất: mày phải đem hết vàng, bạc, lúa gạo, gia súc, chia đều cho dân trong làng. Từ nay về sau, mỗi vụ mày chỉ được lấy tô mười thùng thóc một mẫu mà thôi".
Lý Hiến hỏi:
– Thông thường điền chủ thu tô bao nhiêu một mẫu mỗi vụ?
– Thưa một trăm thùng nếu là nhất đẳng điền. Còn nhị đẳng điền là bẩy mươi thùng.
Triệu Thự gật đầu:
– Rồi, quân hầu thuật tiếp.
– Thả tất cả nô bộc bị siết nợ về với gia đình. Trả tất cả những gia súc bị nặc nô thu về cho tá điền. Riêng người tá điền có vợ chết, thì tịch thu cỗ hậu-sự của viên quan, khâm liệm cho vợ anh ta. Truyền lấy tiền bạc của viên quan xây cho bà ta một cái mộ thực đẹp.
Dư Tĩnh lắc đầu, rồi hỏi:
– Còn án thứ hai?
– Viên quan cùng vợ, con, mỗi người bị chặt một chân, một tay, khoét một mắt.
Dư Tĩnh than:
– Dĩ nhiên viên quan phải chấp nhận bản án thứ nhất. Nhưng sau khi Mộc-Tồn hòa thượng đi khỏi, viên quan có dám đòi lại của không?
– Không. Bởi khi Mộc-Tồn hòa thượng đã xử rồi, mà bất cứ ai chống, hoặc quan trên xử lại, là ông giết viên quan trên cũng như người chống ngay.
Bọn Triệu Thự mặt nhìn mặt mà rùng mình. Tuy Triệu Thự sợ, nhưng y vẫn tỏ ra cứng cỏi. Y bảo Lý Hiến:
– Dù có sự can thiệp của Mộc-Tồn hòa thượng, nhưng Lý Hiến cũng thua rồi. Người không thể xuất chiêu được nữa.
Y nói với nhà sư:
– Sư phụ, xin sư phụ thu thập nhà sư nhỏ bé kia dùm.
Nhà sư đứng cạnh Triệu Thự phát một chiêu chưởng đánh gió rồi cung tay nói:
– Tiểu sư phụ, bần tăng pháp danh Pháp-Nhẫn, thuộc phái Thiếu-lâm. Bần tăng tuân chỉ của Tần-vương, xin lĩnh mấy cao chiêu của tiểu sư phụ. (5)
Ghi chú,
(5) A-di-đà Phật, xin thượng tọa Pháp-Nhẫn trị sự trưởng chùa Liên-hoa, Dallas, bang Texas, Hoa-kỳ cùng chư vị Phật-tử, từ bi hỷ xả đại xá cho, về sự trùng pháp danh này. Ðại-sư Pháp-Nhẫn chùa Thiếu-lâm (1005-1088) xuất thân tiến sĩ, nhưng ngài giác ngộ, bỏ chốn bụi trần xuất gia. Ngài là một Bồ-tát, vì thương xót sinh linh Hoa-Việt, nên đã hết sức cản cuộc xâm lăng của Tống vào thời vua Anh-Tông. Xin đọc những hồi sau để biết hành trạng của ngài.
Từ lúc bọn Tống xuất hiện đến giờ, lúc nào Minh-Ðệ cũng thấy nhà sư nói năng ôn tồn, gương mặt từ ái. Vừa rồi ông ra một chiêu đẩy nàng lui lại, rõ ràng ông chỉ vận có ba thành công lực, mà nàng đã cảm thấy rung động toàn thân. Biết có đấu cũng vô ích, nàng cung tay:
– A-di-đà Phật, thì ra đại sư là thủ tọa La-Hán đường phái Thiếu-lâm đấy. Tiểu tăng không dám đấu với đại sư, vì không thể địch nổi đại sư.
Pháp-Nhẫn nói với Triệu Thự:
– Tiểu sư phụ đây chịu thua, vây xin Vương gia phát lạc.
Triệu Thự nói:
– Cũng dễ thôi, vì tiểu sư phụ biết hết bí mật của cô gia, thì không thể để tiểu sư phụ đi được. Vậy tiểu sư phụ phải theo cô gia về Trung-nguyên, đến khi nào cô gia tiến quân về phương Nam, bấy giờ cô gia sẽ để tiểu sư phụ trở về.
Bỗng có tiếng cười khúc khích:
– Ðâu phải mình tiểu sư phụ biết, mà bọn ta cũng biết nữa mà!
Triệu Thự quát lên:
– Ai?
Hai bóng người từ trên nóc chùa đáp xuống nhẹ như chiếc lá. Minh-Ðệ nhìn kỹ thì ra Công-chúa Thiên-Thành với Thế-tử Thân Cảnh-Long mà nàng đã gặp ở Khu-mật-viện năm trước. Nàng nhớ rõ hôm đó hai người đã quát quân lính không được gông nàng. Nàng đồ chừng hai người này đã tung thuốc cứu nàng và làm Tiêu Chú tê liệt. Nàng vội vội cung tay:
– Tiểu tăng xin tham kiến Công chúa điện hạ cùng Thế tử. Ða tạ Công-chúa với Thế-tử đã cứu mạng.
Tiêu Chú chỉ mặt công chúa Thiên-Thành với thế tử Thân Cảnh-Long quát lớn:
– Thì ra hai đứa mi đã dùng thịt chó ám toán ta.
Tiêu Chú bị thua nhục nhã quá, run lên lật bật, tay chỉ thế tử Thân Cảnh-Long:
– Mi ẩn thân hại ta! Hãy lĩnh một chưởng.
Nói rồi y phát một chiêu bằng tất cả bình sinh công lực đánh vào người thế tử. Cảnh-Long cười nhạt tung chưởng trả đòn. Bình một tiếng, cả hai người đều lảo đảo lui lại, gật gù nhìn nhau: