25
Tất thảy đã bắt đầu với ảo thuật. Một ngày mùa đông của năm 18... lúc từ chiến trường trở về, Soseki đã luỵ tình với một phụ nữ mà ông chưa từng được gặp gỡ trong đời.
Vào thuở ấy, ông chủ của tôi là một chàng hiệp sĩ phục vụ hoàng đế.
Soseki đã tham gia một trận chiến hung bạo nơi mà đội ngũ của chàng đã đạt một chiến thắng vẻ vang, một chiến thắng đẹp đẽ bất ngờ. Chàng đã trở về trong tư thế của kẻ chiến thắng. Thắng trận nhưng chịu nhiều thương tích. Một chiến sĩ sắp chết đã dùng kiếm đâm xuyên vai chàng trước khi cái đầu của hắn bị một quả đại bác mang đi. Hình ảnh đó vẫn còn ở trước mắt Soseki: mùi vị của bùn và của máu đầy miệng, binh sĩ địch tràn tới phía trước chàng, một khuôn mặt kẻ địch nhăn nhó vì hận thù. Người đàn ông nhảy xổ về phía chàng, sẵn sàng đâm xuyên qua chàng. Rồi đến lưỡi kiếm lạnh lướt nhanh trên trán chàng, một tiếng nổ vang rền như sấm sét, rồi chẳng còn gì nữa cả ngoại trừ cái xác chết không đầu, một cái xác chết còn cử động và bước đi trước khi ngã quỵ trên mình chàng và tông luỡi kiếm sắc vào vai chàng bằng cả sức nặng của một xác chết, như để giúp chàng hiểu rõ hơn sự ghê rợn của một bãi chiến trường mà hắn cũng như chàng lẽ ra không nên biết. Thế đấy. Đó là thời kỳ của danh dự. Đó là những nỗi vui sướng của chiến tranh. Hoặc là phải chết hay là được trở về, mang đầy thương tích.
Chàng hiệp sĩ không bao giờ quên hình ảnh người đàn ông cụt đầu. Đó là điều khủng khiếp nhất mà cả đời chàng chưa từng trông thấy.
Sau lúc ấy, Soseki đã ngã lăn ra bất tỉnh. Người ta bỏ chàng ở lại chiến trường như một xác chết. Chàng nằm cả đêm dưới cái thây ma cụt đầu. Khi trời sáng, cuối cùng đã có người nghe những tiếng rên rỉ của Soseki. Người ta nhấc cái xác lên và bắt gặp cái khuôn mặt đầy hãi hùng của Soseki. Người ta băng bó chăm sóc chàng, nhưng chàng đã hôn mê trong nhiều ngày. Một tuần lễ sau, chàng vẫn còn mang sự hãi hùng trong ánh mắt.
Hoàng đế đích thân tới khen ngợi Soseki và chàng rút tỉa được một chút vinh dự tuy niềm hãnh diện có bị hoen ố bởi sự ân hận về những gì chàng đã phải trải qua.
Khi đã bình phục hẳn, Soseki lên đường trở về cố hương. Chẳng phải vì vết thương đó đã ngăn cản chàng tiếp tục chiến đấu — chàng đã bị thương đến sáu lần từ lúc khởi hành cuộc viễn chinh — mà đơn giản chỉ vì chàng đã ghê tởm chiến tranh. Soseki, kẻ đã dâng hiến đời mình cho quân đội, vừa nhận thấy rằng mình không còn thích đâm chém nữa.
Chàng rời quân ngũ và đi bộ trở về quê quán. Và chính trên đường về, phép lạ đã xảy ra.
Mệt lả, toàn thân buốt giá, nỗi ghê sợ chiến tranh trong ánh mắt, đơn độc trong bóng tối và trong thảm kịch chàng vừa nếm trải, lẻ loi trong nỗi cô đơn choáng váng, một mình trong niềm im lặng của chính mình, trong khi lẽ ra chàng đã phải chết vì lạnh, vì đói, vì mệt, vì giận, chết vì chán nản đến trăm lần, thế nhưng chàng đã sống sót.
Soseki đã sống sót nhờ cái mà chàng đã trông thấy trong ngày hôm đó, cái vật đó, cái vật tuyệt vời đã đến với chàng từ mé bên kia của thực tại, có thể là để cân bằng hoá sự khủng khiếp đến từ kẻ đã bay đầu, cái vật cao nhã và đẹp đẽ đó là hình ảnh đẹp đẽ và cao nhã nhất mà chàng đã được nhìn thấy trong suốt cuộc đời chàng. Hình ảnh đó, chàng hiệp sĩ Soseki chẳng bao giờ quên được.
26
Hình ảnh đó là hình ảnh của người phụ nữ giữ thăng bằng trên một sợi dây, một người phụ nữ nhẹ như chim, một nghệ sĩ đi dây di chuyển với dáng điệu thướt tha của một con sóc trên dòng nước bạc.
Nàng đã ở chỗ cách xa mặt đất sáu mươi bàn chân. Nàng không bước đi trên một sợi dây, nàng giữ thăng bằng trên không trung bằng ảo thuật. Ở chỗ xa nhất mà người ta còn có thể trông thấy nàng, đứng trên sợi dây vô hình của mình, một chiếc gậy giữ thăng bằng trên đôi tay, lướt nhẹ trên nền xanh ngắt của bầu trời, nàng trông như một thiên thần.
Soseki chậm rãi tiến đến gần con sông, và bị mê hoặc bởi vẻ đẹp của người thiếu phụ. Đó là lần đầu tiên chàng được trông thấy một phụ nữ Âu châu. Nàng có vẻ như đang bay bổng trong không khí.
Bị cuốn hút, chàng tiến lại gần hơn. Giờ đây nàng đã ở ngay trên đầu chàng.
Trên bờ sông, một đám đông đã tụ họp để nhìn sự xuất hiện lạ thường đó.
Soseki tới gần một ông lão, và, vẫn ngước nhìn, chàng hỏi:
"Nàng là ai vậy?"
Ông lão, không buồn nhìn Soseki, đáp với giọng run run:
"Một nghệ sĩ đi dây. Nếu chẳng phải là một con hoàng yến lạc lõng trên tầng không."
27
Nàng là một nghệ sĩ đi dây và cuộc đời nàng thu gọn vào một đường nét. Thẳng.
28
Nàng đã từ Paris tới đây, từ nước Pháp. Tên nàng là Tuyết. Người ta đã gọi nàng như thế vì nàng có làn da trắng muốt, cặp mắt trong như nước đá và mái tóc vàng óng ả. Mà cũng vì khi di chuyển trên tầng cao, nàng có dáng vẻ nhẹ nhàng của một bông tuyết.
Điều ấy đã xảy ra như thế này. Một hôm nọ, khi nàng còn bé, nàng đã gặp một gánh xiệc lưu động. Nàng đã thán phục vì nó có thể khiến nàng chiêm bao với đôi mắt vẫn mở.
Bất kể hiểm nguy, nàng chọn nó như nghề nghiệp. Sau vài lần do dự, trước tiên nàng chọn đi dây kẽm. Rồi, dần dần, cứ tăng lên mãi trong độ cao cũng như trong nghệ thuật của nàng. Và như thế đấy, nàng đã trở thành một trong những nữ nghệ sĩ đi dây tài năng hàng đầu.
Nàng đã bước lên một sợi dây và từ đấy nàng không để chân xuống đất nữa.
29
Tuyết đã trở thành một nghệ sĩ đi dây vì nỗi bâng khuâng về sự thăng bằng. Nàng, mà cuộc đời trải ra như một khúc dây quanh co, lấm tấm những gút thắt do sự ngẫu nhiên uốn lượn và sự phẳng lặng của kiếp sống thắt buộc hay cởi mở, nàng xuất sắc trong nghệ thuật tế nhị và nguy hiểm của trò cất bước trên một sợi kẽm căng thẳng.
Nàng chỉ thực sự cảm thấy thoải mái những lúc bước đi khi ở cách xa mặt đất cả ngàn bàn chân. Thẳng tiến về phía trước. Không một lần rời bước khỏi con đường của nàng dù chỉ một phân thôi.
Đó là định mệnh của nàng.
Tiến tới từng bước một.
Từ đầu này tới đầu kia của cuộc đời.
30
Nàng đã chinh phục mọi nơi ở châu Âu với kỳ công của nàng. Năm lên mười chín, Tuyết đã đi băng qua hơn một trăm cây số trên sợi dây căng thẳng của nàng, đôi khi với sự hiểm nguy đến tính mệnh.
Nàng đã căng dây giữa hai tháp chuông của Đền Thánh Mẫu ở Paris và đã giữ được thăng bằng cả mấy tiếng đồng hồ trên ngôi thánh đường, tựa như một nàng Esmeralda của gió, của tuyết, và của im lặng.
Rồi nàng lập lại cuộc trình diễn ấy ở mọi thủ đô của châu Âu, thách đố các quy luật của sự thăng bằng.
Nàng không đơn giản là một nghệ sĩ đi dây. Nàng tiến bước trong không khí bằng ảo thuật.
Từ một chỗ xa mà người ta còn có thể nhìn thấy nàng, thân hình nàng hiện ra thẳng đứng như một ngọn lửa, mái tóc vàng của nàng được bàn tay gió vuốt ve, khán giả nghĩ rằng nàng là một nữ thần của tuyết.
Bởi vì, thực ra, cái khó đối với nàng chẳng phải là sự giữ thăng bằng hay chế ngự nỗi sợ hãi, lại càng không phải là cất bước trên sợi dây liên tục đó, sợi dây của âm nhạc bị gián đoạn bởi những cơn choáng váng choá loà, mà cái khó khăn nhất, khi nàng tiến bước trong ánh sáng của thế giới, là ráng giữ cho mình không hoá thành một bông tuyết.
31
Một hôm, người ta đã yêu cầu nàng biểu diễn khắp nơi trên thế giới. Và như thế, nàng đã đi băng qua thác Niagara và sông Colorado.
Và, chẳng rõ tại sao, nàng đã đáp xuống đất Phù Tang, góp phần vào niềm hạnh phúc lớn của Soseki.
Đó là lần đầu tiên một nghệ sĩ nước ngoài đến biểu diễn trên xứ sở của những chàng hiệp sĩ.
Và một chàng hiệp sĩ đã ngắm nghía nàng và đã si mê nàng.
Trong mắt Soseki, nàng là một bài thơ, một bức hoạ, một hoa tự, một vũ điệu và một khúc nhạc gộp chung lại. Nàng là Tuyết và nàng là biểu trưng của nghệ thuật.
Khi màn trình diễn của nàng kết thúc, nàng đặt chân xuống đất, Soseki không thể cưỡng được tìm đến bên người đẹp quốc ngoại để chào hỏi. Anh tiến sát đến gần nàng, phát hiện nét mặt trang nhã, vòng miệng, nét mày và hiểu ngay rằng chẳng bao giờ anh có thể quên được gương mặt ấy. Anh nhìn thẳng vào mắt nàng và nàng cũng nhìn anh tận mặt. Không cần phải nói thêm. Nàng nở một nụ hoa và nụ cười ấy đã chiếm đoạt tâm hồn Soseki.
Anh quỳ xuống, đặt thanh kiếm dưới chân nàng và nói:
"Cô chính là người tôi mong đợi."
32
Tuyết không tìm kiếm ai. Tuy nhiên nàng cũng nhìn thấy một nét đẹp tuyệt vời trong cử chỉ của Soseki nên nàng đón nhận. Và nàng kết nghĩa vợ chồng với anh.
Những năm đầu rất hạnh phúc. Một đứa con chào đời để thắt chặt tình lứa đôi. Một bé gái. Nó có vẻ đẹp huyền ảo của mẹ và mái tóc đen mun của cha. Nó được đặt tên là Tuyết Xuân.
Cuộc đời của họ xây bằng yên bình và im lặng. Tuyết dần dà quen với khí hậu của Nhật Bản. Thỉnh thoảng nàng cảm thấy nhớ nhà nhưng không hề than thở. Điều thiếu thốn đối với nàng là một cái khác: ấy là nghề đi dây.
Một đêm kia, nàng chiêm bao thấy mình đang bay lượn trên không trung. Sáng hôm sau, lúc tỉnh giấc, nàng càng nghĩ ngợi sâu sắc hơn về việc đó. Rồi nàng thôi nghĩ tới nó.
Đông đến. Rồi xuân về. Đứa bé lớn lên trong niềm hân hoan của ánh sáng. Tuyết cảm thấy mình hạnh phúc. Trên một bàn tay nàng cầm tình yêu của Soseki, trên bàn tay kia là trái tim của nàng dâng cho đứa bé. Và chiếc gậy giữ thăng bằng dễ gãy đó cũng đủ cho nàng giữ thăng bằng trên sợi tơ vàng của hạnh phúc.
33
Tuy nhiên, một hôm, vì sự thăng bằng đó quá mỏng manh, chiếc gậy đã bị gãy.
Một hôm, tình thương đến từ hai kẻ thân yêu nhất cũng chưa đủ cho nàng được hạnh phúc. Nàng nhớ cuộc đời trên không trung. Nàng lại thèm những giây phút choáng váng, rợn người, chinh phục. Nàng chỉ muốn trở lại với cuộc đời nghệ sĩ đi dây.
Nàng xin phép Soseki cho nàng được tổ chức một buổi diễn cuối cùng. Nàng muốn căng dây qua hai đỉnh của dãy trường sơn.
Có thể chồng nàng đã cho việc ấy là điên rồ, coi việc đó là quá nguy hiểm đối với tính mệnh của nàng, thế nhưng, vì muốn hành sự theo đúng tinh thần hiệp sĩ nên chàng chiều ý nàng và tuân lệnh.
Chàng gởi mua từ châu Âu hai sợi dây cáp thép, một ngắn một dài. Sợi cáp ngắn có bề dày nhỏ, sợi kia thì có đường kính lớn hơn, dài năm trăm mét. Rồi chàng sai hai người giúp việc đem sợi cáp dài cột vào sườn một ngọn núi cao ở giữa dãy trường sơn của vùng núi Honshu.
Tuyết lấy chiếc gậy giữ thăng bằng ra khỏi túi đựng, mang vào chân đôi hài vũ ba-lê và tập dượt đi qua đi lại nhiều giờ trong căn vườn trên sợi cáp ngắn, những đỉnh núi hoa nhỏ và một đại dương nhỏ lênh đênh những hoa súng.
Soseki cứ mải mê nhìn nàng chẳng hề thấy mệt. Vợ chàng là một vũ công ngoại hạng trên dây. Trên sợi dây đó, Tuyết quá hạnh phúc, quá đẹp, quá thướt tha khiến mỗi ngày Soseki tri ân trời phật đã ban tặng nàng cho chàng.
Tóc nàng vàng hoe. Mắt nàng trong sáng.
Và nàng bước trong không gian.
34
Buổi trình diễn được ấn định vào những ngày hè đầu tiên. Khán giả từ khắp nơi trong nước kéo tới xem các trò khéo léo của cô gái Pháp. Người ta kể lại rằng hoàng đế đã đích thân tới xem cảnh thần tiên, ngồi bên cạnh một chàng hiệp sĩ.
Khi Tuyết đặt chân lên sợi dây, quần chúng rì rào. Vì ở nơi quá cao, quá chóng mặt, nàng chỉ là một điểm trắng trong không gian, một bông tuyết trong bao la của đất trời.
Tay cầm chiếc gậy để giữ thăng bằng, Tuyết bước đi trên không trung hơn một giờ rưỡi, dần dần tiến về phía sườn núi bên kia. ở dưới, khán giả nín thở trố mắt nhìn. Sẩy một bước là lãnh lấy cái chết ngay tức thì.
Nhưng cô gái, làm chủ nghệ thuật của mình, cứ bước đi. Từng bước một. Từng hơi thở một. Từng im lặng một. Từ giây phút choáng váng này sang giây phút choáng váng kia.
Nàng chưa một lần sẩy chân.
35
Nhưng chính sợi dây đã đứt. Có thể vì gắn không chặt, sợi dây cáp tách rời tảng đá, cuốn theo người thiếu phụ và cây sào trong một sự đổ nhào từ một chỗ cao hơn mười ngàn bàn chân. Từ xa, người ta thấy nàng khuất dạng, giữa dãy trường sơn Nhật Bản, người ta tưởng chừng như thấy một con chim từ trên trời sa xuống đất.
Người ta không tìm thấy xác nàng, có thể đã rơi vào một khe núi. Tuyết đã trở thành tuyết và an giấc trên chiếc giường của sự trắng xoá.
36
Soseki không bao giờ nguôi ngoai về cái chết của người vợ. Hai người giúp việc phạm tội bị sa thải nhưng được miễn truy tố. Vài hôm sau người ta hay tin họ đã tự tử bằng cách lao mình xuống núi. Nhà hiệp sĩ không bày tỏ một cảm xúc nào vì chuyện đó. Chàng chỉ thấy mỗi một điều: nỗi buồn của chính mình. Chàng chỉ biết mỗi một điều: chàng sẽ không bao giờ tìm lại được người mình yêu. Chàng sẽ không bao giờ được thấy lại Tuyết. Chàng sẽ không bao giờ được nhìn thấy lại nhan sắc của nàng.
Trở về tư thất nay đã vắng mọi niềm vui, chàng trút bỏ chiến bào. Chàng sẽ thôi là hiệp sĩ. Chàng sẽ không là viên võ tướng của hoàng đế.
Chàng dành trọn thời giờ vào việc dạy con và cho nghệ thuật. Nghệ thuật tuyệt đối. Trên gương mặt đứa con là bóng dáng của cuộc tình đã mất, chàng lấy nguồn cảm hứng ở đó, và trong nghệ thuật chàng sẽ tìm thấy lại sự thăng bằng đã mất vì sự khuất bóng của nàng nghệ sĩ đi dây.
Và như vậy, nhờ tình yêu dành cho một người phụ nữ, chàng đã trở thành nhà thơ, nhạc sĩ, nhà thư pháp, vũ công. Và hoạ sĩ.
Vì hội hoạ tất nhiên là mối liên hệ chung thủy nhất giữa khuôn mặt đã mất và nghệ thuật tuyệt đối, nó là phương tiện chắc chắn nhất để tìm lại Tuyết. Và chính là ở trong nghệ thuật đó mà bậc thầy trở nên xuất chúng.
Soseki mua sắm nhiều thứ trong một tiệm buôn bán dụng cụ - một giá vẽ, nhiều bút lông, một bản màu, vô số bột màu - , xây cất cho mình một túp lều trong mảnh vườn nhà và tự giam mình trong ấy. Chàng sống nhiều năm như vậy để hoạ hình một phụ nữ đã qua đời một cách lạ lùng mà mãi mãi chàng chỉ có thể thấy lại trong giấc mơ.
Tuy thế, Soseki không bao giờ thoả mãn với công việc của chàng. Các bức hoạ của chàng dù tuyệt sắc vẫn có vẻ quá loè loẹt, chưa thật giống người mẫu. Nếu muốn hoạ hình Tuyết thật chính xác thì phải là một bức hoạ toàn trắng, trinh bạch, lọc gạn.
Làm thế nào để hoạ màu trắng? Mỗi bức tranh vẽ người phụ nữ đều đẹp nhưng chẳng giống tuyết chút nào cả.
Vì thế, Soseki tiếp tục trau dồi nghệ thuật của mình, ngày này qua ngày kia, đêm này qua đêm nọ, không bao giờ biết mỏi mệt.
Rồi chàng trở thành già yếu. Đứa con gái, đã lớn và đẹp, được đưa lên Đông Kinh để hoàn tất việc học hành. Người đàn ông già một mình đối diện với khung lụa, mỏi mắt ngắm nhìn hình ảnh người vợ quá cố. Rồi một hôm, dưới áp lực của công việc không ngừng nghỉ, ông đã bị mù mắt.
Và chính vào hôm ấy mà Soseki, trong tận cùng của sự mù loà, đã hoạ được bức chân dung trắng nhất và đẹp nhất.