Đêm hôm đó, Sa-lem rất khó ngủ. Trong giấc mơ có lúc biến thành ác mộng, một lần nữa em lại phải đương đầu với tai họa cách đây năm năm đã cướp mất cha em. Lúc đó Sa-lem mới sáu tuổi. Sa-lem trăn trở trên giường. Những kỷ niệm đau đớn quay về với em. Chúng lẫn lộn cả với những điều mà em được nghe về bệnh dịch gần đây đã giết chết nhiều người trong làng. Em nhớ bố em đột ngột từ doanh trại trở về như thế nào. Bố em có vẻ rất ốm yếu và mệt mỏi. Chẳng bao lâu, bác sĩ bảo bố em sắp chết. Tất cả mọi cố gắng để cứu bố em đều thất bại. Mấy ngày sau thì bố em chết. Mặc dầu nhiều năm đã trôi qua, em vẫn không thể quên được cái đêm kinh khủng ấy. Đêm đã khuya lắm rồi, em vẫn ở bên giường của bố. Khi em đã buồn ngủ díp mắt, mẹ bảo em đi ngủ. Em chỉ nhớ lại lờ mờ những gì xảy ra. Đêm đó tối và lạnh. Bầu trời đầy mây và gió đập vào các cửa sổ. Em đang ngủ say thì có tiếng nói làm em tỉnh dậy. Bố em nói thều thào:
- Đừng khóc mình ạ. Tôi biết là tôi sắp chết. Nhưng tôi không buồn vì điều đó. Tôi chỉ lo cho tương lai của Sa-lem. Nó còn nhỏ quá. Tôi muốn nó được học hành và sau đó vào quân đội. Tôi muốn nó lớn lên thành một thanh niên can đảm và có học. Tai-e-ba, em đừng bao giờ để con làm bất cứ một công việc thấp hèn nào.
Rồi bố em ngừng nói và thở hổn hển.
Sa-lem không thể nghe câu trả lời của mẹ vì mẹ em khóc thổn thức. Trước khi em nhảy được xuống khỏi giường và chạy lại với bố em thì đã nghe tiếng thét thất thanh của mẹ. Em vội chạy lại và thấy bố em đã chết một cách thanh thản, để lại mẹ con em cho đức A-la chăm sóc. Sa-lem sống ở một thành phố nhỏ miền bắc Păn-giáp. ở đó có một trường tiểu học có đến năm lớp, một bệnh viện nhà nước và mấy trạm xá tư để coi sóc sức khỏe của nhân dân. Sa-lem đang học lớp năm. Em nổi tiếng trong trường là ngoan và học giỏi. Phần lớn người trong thành phố làm nghề nông và buôn bán. Họ bình dị và sống với nhau như một gia đình lớn. Khi nào có vấn đề gì đó, họ họp nhau lại ở một nơi trong thành phố và cố gắng tìm cách giải quyết cho ổn thỏa. Một hôm, trên đường từ trường về nhà, Sa-lem nhìn thấy một nhóm người tụ tập dưới một gốc cây to. Họ có vẻ rất buồn rầu và lo lắng.
- Thánh A-la hãy rủ lòng thương chúng con.
Đây là cái chết thứ tư trong ngày. Tất cả đều chết do một bệnh bí hiểm.
- Chắc là sự trừng phạt của A-la. Một người lắc đầu nói buồn bã.
- Này người anh em ạ, đức A-la thương người và nhân đức. Ngài không bao giờ trừng phạt bất công. Chúng ta sở dĩ bị như thế này là do tội lỗi của chúng ta.
Một ông già ngồi gần đó đáp lại và gãi đầu có vẻ nghĩ ngợi. Sa-lem dừng chân lại một lúc nghe họ bàn bạc về bệnh dịch đang hoành hành ở một khu vực trong thành phố khiến nhiều người chết. Cám ơn Chúa đã cho em sống ở một khu phố cách xa vùng có dịch.
Cảm giác lạ lùng như có bóng ma bao trùm thành phố làm em rùng mình. Em nghĩ đến mẹ đã khóc không biết bao nhiêu khi bố chết, đến nỗi trong vòng một năm mẹ đã bị mù. Từ đó mẹ luôn cần sự chăm sóc và che chở một cách đặc biệt cẩn thận. Mẹ con em phải có tiền, gạo và các phương tiện khác để sống. Những thứ này chỉ có được nhờ một mảnh ruộng của gia đình. Và cũng cần phải làm việc cật lực và chăm sóc ruộng đồng. Mặc dù cha của Sa-lem làm nghề nông, song em còn bé quá và cũng ít kinh nghiệm làm ruộng. Hơn thế nữa em có nỗi khát vọng là theo bước cha nhập ngũ để phục vụ đất nước. Vì vậy, hai mẹ con quyết định cho một bác nông dân trung thực là Ram-dan Ba-ba thuê ruộng nhà mình. Bác ta trồng trọt cho mẹ con em và sau mỗi vụ thì họ chia nhau hoa lợi. Như vậy, em nhờ cậy bác Ram-dan Ba-ba đảm bảo cuộc sống cho hai mẹ con sau khi bố chết. Đêm hôm ấy, nửa tỉnh nửa mê, em nghĩ đến lòng tốt của bác nông dân và nhớ lại hồi năm ngoái, lần đầu tiên em đến nhà bác Ram-dan. Bác Ram-dan Ba-ba sống tại một căn nhà nhỏ ở ngoại ô thành phố. Phần lớn mọi người ở đó đều làm ruộng hoặc lao động chân tay. Xa hơn khu nhà ở là những cánh đồng rộng, thửa nọ tiếp thửa kia. Trên những cánh đồng này, những người nông dân lao động rất vất vả để làm ra một bao gạo ngon nhất Pakistan. Đến nhà bác Ram-dan Ba-ba phải đi bộ rất xa, qua nhiều nơi trong thành phố, rồi qua những cánh đồng cỏ đẹp. Tường nhà bác trát bùn và mái lợp rạ. Gần cổng có một cây to tỏa bóng mát. Phía bên phải cây là một cái chuồng có hai con bò mộng nâu và một con trâu đang lặng lẽ nhai cỏ. Quanh đấy có mấy con dê đang chạy nhảy. Bác Ram-dan Ba-ba tiếp đón Sa-lem rất thân tình. Bác dẫn em vào trong nhà và giới thiệu với ba đứa con gái bác. Đứa bé nhất - A-su, cùng tuổi với Sa-lem. Mẹ của chúng chết đã lâu và bố chúng nuôi chúng lớn lên. Sau khi làm quen, Sa-lem được mời ngồi vào một chiếc giường trên đó bác Ram-dan Ba-ba đã phủ một tấm khăn trải giường sạch sẽ. Còn bác thì tự ngồi ở một chiếc giường khác. Bác Ram-dan Ba-ba nói chuyện với em về thời tiết và vụ mùa sắp tới. Sau đó một lúc thì A- su mang vào hai cốc váng sữa to. Nó thẹn thò đưa một cốc cho Sa- lem và cốc kia cho bố. A-su mặc quần áo dân tộc và có một khuôn mặt ngây thơ đáng yêu.
- Đừng quá bận tâm về tôi như vậy, chị A-su, - Sa-lem nói. A- su rất thích vì được gọi là chị và trìu mến mỉm cười với em.
- Sao lại gọi nó là chị? Đừng có khách sáo vậy! Cháu uống váng sữa đi. Váng sữa này làm từ sữa của con Ra-ni đấy. Ngon nhất thành phố nhá!
Bác Ram-dan tự hào tuyên bố. Ra-ni là tên con trâu nhà bác. Hôm ấy, sau khi ở nhà bác một lúc, hai bác cháu đi đến ruộng nhà Sa-lem. Sa-lem thấy ruộng rất tốt. Trong khi nói cho Sa-lem ý định gieo trồng vụ sau, bác Ram-dan Ba-ba nói cho em biết về nạn thiếu nước nghiêm trọng. Hai năm vừa qua mưa ít và các nông dân phải phụ thuộc vào nước kênh. Kênh ở cách xa ruộng tới mấy trăm dặm nên mỗi người nông dân phải đào một con mương riêng dẫn nước vào ruộng nhà mình.
- Thế sao chúng ta không làm như vậy? Sa-lem hỏi.
- Công việc đó một người không thể làm được đâu, Sa-lem ạ. Làm một mình thì bác lại già quá rồi.
Bác Ram-dan Ba-ba đáp lại.
- Ai bảo bác làm một mình? Cháu sẽ làm với bác. Sa-lem quả quyết nói.
- Không được đâu Sa-lem. Công việc này rất khó. Hơn nữa, khi nằm trên giường bệnh, bố cháu đã bắt mẹ cháu hứa không bao giờ để cháu làm những công việc thấp kém.
- Ôi bác Ram-dan Ba-ba ạ, làm việc trên ruộng nhà mình đâu phải là việc thấp kém? Mà cháu lại là con nhà nông. Hiện nay cháu có nhiều thì giờ. Bác đừng cản cháu. Bác cháu ta sẽ cùng đào mương. Ngày mai chúng ta bắt đầu!
Sa-lem tuyên bố một cách kiên quyết. Đêm đó, khi thời gian trôi qua và ánh trăng bắt đầu nhạt, Sa-lem mới hết thao thức. Giấc mơ của em vui hơn; em mơ thấy nước chảy vào các cánh đồng lúa trĩu bông của nhà mình. Rồi em ngủ thiếp ngay đi. Hôm sau, Sa-lem về nhà ngay sau khi tan học. Em ăn trưa thật nhanh và chạy thẳng ra đồng. Ngày thật là đẹp. Mặt trời thoáng biến mất sau một đám mây rắng to giống như đầu con sư tử khổng lồ. Bác Ram-dan Ba-ba vẫn chưa đến nên Sa-lem ngồi dưới bóng cây. ở đó hoàn toàn yên tĩnh. Bỗng nhiên em nghe thấy tiếng động, quay lại thì ra A-su đang chạy về phía em. Em ngạc nhiên đứng lên đón A- su.
- Chị làm gì ở đây vậy? Em hỏi đột ngột.
- Tôi đến giúp anh và bố tôi. A-su đáp và mỉm cười.
- Con gái không thể giúp nhiều được. Sa-lem cười to.
- Đừng cười, Sa-lem. Tôi không thể đào được, song, ít nhất tôi cũng dọn được cỏ dại đã cắt. Anh cho tôi làm chứ?
Nó nài. Sa-lem chưa kịp trả lời thì bác Ram-dan Ba-ba đã xuất hiện ở đằng sau hàng cây. Bác mang cuốc và xẻng đến.
- Sáng kiến của con hoàn toàn phải đấy, A-su ạ. Bác Ram-dan nói.
- Chúng ta cần một người dọn sạch cỏ dại ở đây. Nào lại đây
Sa-lem, chúng ta bắt đầu đi! Sa-lem không thể cãi lại được, song em không thích ý định của A-su đòi cùng làm việc. Em miễn cưỡng nhặt một cái xẻng xúc và bắt đầu phạt các bụi rậm. Suốt mấy giờ liền họ làm việc lặng lẽ. Đến giờ cầu nguyện buổi chiều thì một đám đất rộng đã được phát quang. Từ hôm đó, làm việc sau bữa ăn trưa đã thành nếp của mấy bác cháu. Đến ngày thứ bảy, tất cả các bụi rậm đã được cắt cho đến bờ kênh. Chỉ còn sót lại một đám cỏ. Trước khi cắt nốt đám cỏ, Sa-lem dừng lại để lau mồ hôi mặt. Em quay lại nhìn xem A-su đang làm gì thì bỗng rún người vì kinh sợ. Một con rắn đen to đang bò trong đám cỏ sau lưng A-su. Con vật đã bò đến sát nó mà nó chẳng hay biết. Không còn thì giờ để cáo cho A-su vì có thể sẽ làm con rắn giật mình và cắn nó. Trong chớp nhoáng, Sa-lem chạy bổ về phía A-su và đẩy nó ra khỏi con rắn đang phun phì phì. A-su ngã, còn Sa-lem mất thăng bằng, trượt chân ngã vào con rắn. Không biết chuyện gì đã xảy ra, bác Ram- dan Ba-ba nhìn chúng ngạc nhiên. Đúng lúc, bác nhìn thấy con rắn đen ở dưới mình Sa-lem. Bác kêu lên một tiếng thất vọng, lao đến lấy xẻng chặt con rắn làm đôi. Bác đẩy Sa-lem ra nhưng đã muộn rồi. Rắn đã cắn vào bắp vế em và em rên rỉ vì đau đớn. Mọi người vội đưa em vào bệnh viện. Người ta làm tất cả mọi thứ có thể làm được để cấp cứu em. Nhưng lúc A-su đi gọi bác Tai-e-ba, mẹ của Sa-lem đến bệnh viện thì người anh hùng nhỏ tuổi đã chết. A-su và bác Ram-dan Ba-ba biết rằng đối với họ, Sa-lem không bao giờ chết, em sẽ sống mãi trong lòng họ. ThaiLand Cá voi của bé Noi Wiriáa Sirisingh Bé Noi sẽ về Băng Cốc ngày hôm sau. Em chỉ ở với chúng tôi còn có một ngày, nên chúng tôi định đi biển lần nữa, lần này chúng tôi đi câu cá.
- Em rất thích câu cá, Lếch ạ. Bé Noi hăm hở bảo tôi.
- Em sẽ câu được một con cá to nhất thế giới.
- Ồ, thì câu đi! Tôi bảo.
- Em tưởng có thể bắt được con cá nó nuốt mồi đấy chắc? Sao em lại cho rằng em sẽ câu được một con cá to như vậy?
- Sao lại không? Chúng mình sẽ câu ở chỗ biển xanh sâu, mà tất cả cá ở đấy thì phải to, đúng không nào? Tôi cho câu trả lời đó là có lý, nên tôi im. Chuyến đi biển của chúng tôi có bốn người, ngoài bé Noi, Xquýt, tôi còn có chị Tu-ơ người trông nom bé Noi.
Lúc đầu chúng tôi định nhờ một người giúp việc ở nhà tôi đi lái xuồng, nhưng ai cũng bận cả, và cuối cùng tôi tự mình lái lấy. Xquýt thì được giao việc chuẩn bị dây, lưỡi câu, mồi câu và những việc tương tự. Chị Tu-ơ thì lo làm đủ thức ăn cho chuyến đi. Xquýt dùng kìm cắt dây thép ở một cuộn to thành những mẩu dài khoảng bảy inh. Xong nó buộc lưỡi câu vào hai đầu của mẩu dây thép đã cắt. Nó buộc cái dây nhựa vào giữa mẩu dây thép.
- Không dùng cần câu à? Hơi ngạc nhiên, bé Noi hỏi.
- Chúng mình không cần. Chúng mình có thể dùng tay giữ dây. Khi cá cắn mồi, chúng mình kéo thẳng dây lên. Thế là xong.
- Em không thích thế. Bé Noi phàn nàn.
- Thậm chí chúng mình chẳng có cả đến chì nữa?
- Mẩu dây thép này đủ nặng rồi, bé Noi ạ. Xquýt giải thích.
- Lúc chúng mình ném mẩu dây thép xuống, nó sẽ chìm xuống đáy biển cùng với lưỡi câu. Em biết đấy, câu bằng cách này rất tốt. Có thể một lúc câu được hai con cá.
- Thật thế à?
Nó hỏi. Có thể nó chưa tin lắm.
- Chắc chắn vậy. Em xem, lưỡi câu ở cả hai đầu dây thép này.
Chuẩn bị cho mỗi chúng tôi một bộ đồ câu tự làm lấy. Khi mọi việc đã xong, chúng tôi xuống xuồng, mang theo tất cả đồ đạc định dùng trong chuyến đi.
Xuồng của chúng tôi thuộc loại trung bình, có mái che ở giữa. Loại xuồng này thường dùng chở đường, dầu, gạo và những thứ tương tự cho khách hàng ở hai bên bờ kênh. Tôi cho xuồng chạy chậm dọc theo kênh và ra biển. Cuối cùng chúng tôi đã ở xa bờ đến nỗi chúng tôi không thể nhìn thấy được nhà cửa ở dọc kênh nữa. Bây giờ chúng tôi chỉ thấy có biển và trời. Một bầy chim biển trắng đang bay lượn trên mặt nước tìm cá. Một vài con đang đậu trên những chiếc cọc buộc dây câu. Trông chúng trắng toát. Khi xuồng chúng tôi đến gần chúng bay cả lên trời.
- Đừng liều lĩnh làm cho xuồng mình mắc cạn đấy, Lếch ạ! Chị Tu-ơ thích thú trêu tôi. Tôi cam đoan với chị là tôi không làm thế.
- Thế cậu làm thế nào mà biết eo biển ở đâu, hả Lếch? Chị vẫn tiếp tục.
- Có thể biết theo những con sóng to này, chị Tu-ơ ạ. Xquýt ngồi cạnh chị, giảng giải.
- Nếu xuồng chạy trong chỗ sâu của eo biển, sóng sẽ ngang với xuồng. Nhưng nếu xuồng không ở trong eo hoặc ở chỗ cạn của eo thì sóng sẽ đánh vào mũi xuồng.
- Thế biển chỗ này có sâu không? Bé Noi muốn biết.
- Không, về chiều thì chỗ này cạn hẳn. Tôi cho xuồng chạy đến một nơi câu cá thích hợp. Xong tôi tắt máy và đi lên mũi xuồng. Tôi và Xquýt thò một cái sào xuống biển đo chiều sâu. Chiếc sào nhanh chóng chạm đáy biển và chúng tôi biết rằng chỗ này biển không sâu lắm. Độ sâu của biển chỉ bằng chiều cao hai chúng tôi cộng lại. Sau khi đã cắm chặt sào xuống đáy biển, tôi buộc xuồng vào sào để nó khỏi trôi xa.
- Ở dưới có cá không? Bé Noi hỏi.
- Ồ, nhiều lắm! Tôi bảo.
- Em có thể chọn bất cứ chỗ nào trên xuồng để câu đấy! Chúng tôi lấy tôm làm mồi câu. Chúng tôi cẩn thận gài tôm vào lưỡi câu rao cho cá không nhìn thấy. Xong chúng tôi thả dây xuống đáy biển chỗ nước cạn ấy. Bé Noi đứng đằng mũi, chị Tu-ơ ở đuôi, còn tôi và Xquýt ở hai bên thành xuồng.
- Chúng mình cuộc nhau đi! Bé Noi bảo.
- Ai câu nhiều cá nhất sẽ thắng. ạ, dây của em động đậy kìa! Em phấn khởi hét lên.
- Cá ở đây tham ăn thế!
- Nào, xem ai câu được cá to nhất, người ấy sẽ thắng. Xquýt nêu vấn đề mới và chúng tôi đồng ý.
- Tôi câu được một con!
- Chị Tu-ơ kêu to và vội giật dây lên. Một con cá nhỏ xíu vùng vẫy ở lưỡi câu một cách tuyệt vọng.
- Ồ, chú mày bé quá!
Chị cằn nhằn và ném con cá xuống biển.
- Hãy đợi đã! ồ, đừng! Sao lại làm thế hả chị Tu-ơ? Xquýt phản đối.
- Đi câu sao lại thế?
- Nhưng nó nhỏ quá, chú bé ạ! Chị sẽ câu con to hơn, đừng lo. Chị Tu-ơ vừa nói vừa chuẩn bị. Chị lại ném cái lưỡi câu đã gài tôm cẩn thận xuống nước.
- Dây của em động đậy rồi. Em kéo dây lên được chưa? Bé Noi nói.
- Cô bạn ngốc nghếch ạ. Tớ cuộc là chỉ còn trơ lại lưỡi câu thôi.
- Tôi kêu to không chút hi vọng.
- Kéo ngay lên! Lúc chúng tôi kéo được dây của bé Noi lên thuyền thì mồi đã hết sạch.
- Lần sau, thấy động thì em kéo mạnh lên. Tôi bảo nó.
- Lưỡi câu sẽ cắm vào mồm cá.
- Thế à?
Bé Noi hình như học câu cá lần đầu tiên trong đời.
- Lần sau em sẽ câu liền một lúc hai con cho mà xem. Lúc đó biển có nhiều cá.
Chẳng bao lâu, tôi và Xquýt, mỗi đứa câu được ba, bốn con. Nhưng chúng tôi chỉ câu được loại cá bé xíu như con cá của chị Tu- ơ câu được trước đó. Loại cá đó bé hơn cá thu con một tí và có nhiều vảy. Đầu nhỏ, mồm rộng, trông ngồ ngộ. Thịt ăn ngon, ít xương. Một số dân chài sống bằng cách đánh bắt loại cá này. Họ bắt được ít nhất mỗi ngày một trăm con, nó là loại hàng bán chạy nhất chợ.
- Em câu được một con to này!
- Đột nhiên bé Noi hét lên. Cả ba chúng tôi bỏ cả dây của mình và quây quanh em. Dây của em bị kéo căng. Cái gì đó kéo mạnh lắm.
- Em sẽ thắng cuộc. Bé Noi nói.
- Bây giờ em phải làm gì nhỉ?
- Cô bé không quyết định được là sẽ phải làm gì đây. Nếu em kéo mạnh quá, cái dây nhựa mỏng mảnh sẽ đứt. Nhưng nếu em không kéo dây lên, cá sẽ kéo dây xuống cho đến khi thoát và dây rồi cũng sẽ đứt thôi.
- Đưa cho anh, bé Noi! Xquýt thốt lên.
- Đây, hộ em với!
- Em nói và đưa ngay dây cho bạn.
Xquýt cẩn thận kéo đầu dây lên thành xuồng khi cá kéo mạnh quá. Xquýt ngừng một lúc. Rồi nó lại tiếp tục kéo. Nó lại dừng rồi lại kéo. Chúng tôi sốt ruột đợi. Chúng tôi muốn biết con cá ngu ngốc nào lại nuốt lưỡi câu của bé Noi.
- Em chắc là một con cá voi.
Bé Noi còn hồi hộp hơn cả chúng tôi. Em đi đi lại lại vẻ sốt ruột, tay khoanh chặt, rất xúc động.
- Em điên à? Làm sao em có thể câu được cá voi ở đây? Chị Tu-ơ nói.
- Cá voi sống ở đại dương. ở đây làm gì có cá voi?
- Chị thật là chả biết gì.
Bé Noi nói, tỏ ra là biết nhiều hơn chị nuôi của nó.
- Cách đây không lâu cáo chả đăng là đã tìm thấy xác một con cá voi ở bãi biển gần đây hay sao. Chị đã đọc tin ấy, phải không nào?
- Nếu con cá ấy đã chết, thì con nào ăn được đúng mồi của em?
Chị Tu-ơ không đồng ý với bé Noi, nhưng giọng của chị đã kém tự tin hơn ban đầu. Và rồi thời điểm kết thúc hồi hộp nhất đã đến. Xquýt đã thành công, kéo lên nào là dây, nào là lưỡi câu, đủ cả các thứ. Nhưng cái vừa bị dây của bé Noi kéo lên chẳng phải cá voi mà cũng chẳng phải con cá ranh nào. Nó chỉ là một chiếc giỏ cũ to tướng.
- Này, cá voi của bé Noi đây này! Tất cả chúng tôi reo lên.