tiếp
Hôi 3 : Hồng vận tầm hấc vận
Chân Kim hoán Giảo Kim
ổ nhân có câu: “Đường ở cửa miệng”, nên dù chẳng biết gì, Tử Khuê cũng vẫn có thể tìm về cố quận, mỗi ngày một gần hơn.
Non nửa hạ tuần tháng mười một, Tử Khuê đến nghiệp thành và chỉ còn cách Hứa Xương bảy tám ngày đường.
Lãnh thổ Trung Hoa rộng mênh mông nên việc có những địa phương trùng tên là không thể tránh khỏi. Ngay trong tỉnh Hà Nam đã có hai vùng đất mang tên Nghiệp, một là đây và một ở phía đông nam thành An Dương.
Đất Nghiệp phương Nam sầm uất hơn đứa em cùng tên phương Bắc. Đường trong thành thẳng tắp, cắt nhau như ô bàn cờ, rộng hai chục bước chân, mặt lát đá phẳng phiu, hai bên là hàng cây cao vút hơn trăm tuổi.
Trên phố chính bắc nam, đông tây, lầu quán, thương hiệu rất nhiều nằm xen kẽ với những tranh viện cổ kính và tráng lệ. Du khách khá đông nhưng số thương lái còn đông hơn.
Nghiệp thành là đầu mối buôn bán nông sản và hàng thủ công đi khắp nơi. Nghiệp ở đây có nghĩa là nghề, nên địa phương này đông nhung nhúc phường hội, làng nghề, làm ra đủ thứ trên đời.
Song có một nghề cao quý đến nỗi bậc nghệ nhân cũng chẳng bao giờ tiết lộ ra ngoài. Đấy là nghề làm đồ giả.
Tử Khuê ghé Nghiệp thành để tìm đệ nhất cao thủ của nghề ấy là Ngụy Công Tử Tề Thúc Như, theo lời dạy của sư thúc.
Họ Tề tuy mới bốn mươi hai song tay nghề tinh xảo bậc nhất thiên hạ. Gã đã làm giả vật gì thì ngay chủ của nó cũng không thể phân biệt được.
Ngụy Công Tử Tề Thúc Như tài hoa xuất chúng song tính tình cổ quái, kiêu ngạo, suốt đời chỉ chịu khâm phục có mình Cửu Hoa Thánh Y Cổ Sĩ Hoành là cậu ruột Thúc Như và cũng là người chữa khỏi cái bệnh “liệt dương” quái ác của gã.
Đàn bà là thứ tuyệt vời nhất mà lão trời già vụng về kia đã làm ra được. Cho nên, thân nam nhi mà không có khả năng thưởng thức sự tuyệt diệu ấy quả là đáng tiếc. Tề Thúc Như đã hối tiếc nhiều đến mức định treo cổ tự tử chết cho xong, may mà Cửu Hoa Chân Nhân về thăm chị đúng lúc.
Giờ đây, Cổ Sĩ Hoành sai Tử Khuê đi tìm Tề Thúc Như để nhờ gã làm một viên “Tỵ Lôi Thần Châu” giả. Và Tử Khuê sẽ mang viên ngọc giả ấy bán cho minh chủ võ lâm Âu Dương Mẫn. Chỉ cần hình dáng bên ngoài giống như thực là quá đủ vì công dụng thì chẳng thể kiểm tra. Khi Âu Dương Mẫn biết mình mua lầm thì cũng đã bị sét đánh chết tươi rồi.
Tử Khuê đến nghiệp thành lúc đầu giờ Ngọ, chẳng tiện ghé thẳng Tề gia trang vì đang là thời gian dùng cơm trưa. Do vậy, chàng đi dọc phố chính Bắc Nam, tìm phạn điếm bán đồ chay.
Vào thời nhà Minh, Phật giáo rất hưng thịnh và đạo giáo cũng chưa suy tàn nên số người trì trai trong xã hội khá đông đảo. Vì vậy các phạn điếm thường bán cả mặn lẫn chay.
Tử Khuê tình cờ dừng cương trước Hồng Vận đại phạn điếm, nơi không hề có tiểu nhị đứng ngoài cửa níu kéo, mời chào như những quán khác.
Nhưng khi chàng vừa hạ mã thì có hai gã hầu chạy ra, một đỡ đầu lưng ngựa một khom lưng tươi cười:
- Kính thỉnh thiếu gia.
Bộ áo mũ lông cừu đã che kín đạo bào và làm cho Tử Khuê có dáng dấp của một gã con nhà giàu.
Dù tuyết chỉ rơi nhẹ song cũng bám đầy y phục, Tử Khuê phải dùng chiếc chổi rễ tre dựng cạnh cửa phạm điếm, phủi sạch tuyết rơi rồi mới bước vào.
Khi gã lột mũ lông, búi tóc đạo sĩ lộ ra khiến họ giật mình, mỉm cười bí ẩn. Gã hớn hở đưa khách vào tận giữa quán, nơi có ba chiếc bàn trống, gần lò sưởi ấm áp.
Trong mùa đông rét mướt, vị trí này rất được ưa chuộng mà chẳng có ai ngồi cả. Gã tiểu nhỉ tủm tỉm nói:
- Mời thiếu gia tuỳ chọn bàn nào cũng được.
Tử Khuê gật đầu, bước đến chiếc bàn tương đối xa lò sưởi. Chẳng phải chàng sợ khói than mà là thói quen khiêm tốn, không muốn chiếm tiện nghi hơn những kẻ đến sau.
Tám chiếc ghế xếp quanh bàn với một cư ly lý tưởng để khách có thể ngồi xuống ngay mà chẳng cần xê dịch.
Tử Khuê đặt tay nải và bảo kiếm lên mặt bàn rồi khoan khoái an toạ. Nào ngờ vận đen chẳng buông tha nên chàng lại thêm một lần chọn trúng phóc cái ghế gãy. Hai chân sau của chiếc đôn lập tức đoạn lìa và bầu không khí êm ắng của phạn điếm vỡ toang bởi những tràng cười khoái trá.
Nãy giờ, thực khách ở những bàn chung quang đã nín thở chờ đợi, khi thấy có người rơi vào bẫy của Hồng Vận đại phạm điếm.
Trò xảo quyệt này mới bày ra độ gần tháng và chỉ dành cho khách phương xa độc hành là kẻ tu hành, cả tăng lẫn đạo, nhưng từ ngày mở đến nay chưa có ai xui xẻo đến mức chọn đúng chiếc ghế bị cưa chân trong hai mươi bốn chiếc ghế của ba bàn, nên Tử Khuê trở thành nạn nhân đầu tiên.
Nhưng những tiếng cười khả ố kia bỗng tắt lịm vì thân hình chàng đạo sĩ trẻ kia không bật ngửa rơi xuống nền gạch như họ đã hình dung.
Những chiếc ghế gãy đã ám ảnh Tử Khuê suốt một thời niên thiếu nên trong tiềm thức chàng đã hình thành một bản năng đề phòng, khi ngồi xuống bất cứ chỗ nào. Những bắp thịt đều rắn chắc, mạnh mẽ của chàng đã căng cứng, giữ cho cơ thể treo lơ lửng như người đang ngồi trên một vật bằng pha lê trong suốt vậy.
Tử Khuê đứng lên, quay lại nhìn chiếc đôn gãy, phát hiện dấu cưa rất bằng bặn, hiểu rằng mình bị chơi khăm. Lửa giận tuổi thanh xuân bùng lên khiến ánh mắt chàng sáng như dao và lạnh tựa phủ sương. Trong huyết quản Tử Khuê, dòng máu của Băng Tâm Ma Nữ đang cuồn cuộn chảy. Bà là người cương trực, quyết liệt, khả sát bất khả nhục, nên Tử Khuê cũng thế. chẳng qua số mạng đen đủi đã biến chàng thành người nhút nhát thận trọng đấy thôi. Nhưng dần dà, những tính cách mà chàng thừa hưởng của mẫu thân sẽ lộ ra.
Song may thay, những lời giáo huấn của Vu Mộc Chân Nhân trong bảy năm đã có tác dụng. Tử Khuê bình tâm lại, lay thử chiếc đôn kế bên rồi ngồi xuống.
Chàng hiền hoà nói với tiểu nhị xảo trá, kẻ đã đưa mình vào bẫy:
- Phiền thí chủ sắp cho bần đạo một mâm cơm chay và nửa cân rượu ngon.
Gã đang tái xanh mặt vì ánh mắt uy nghiêm đáng sợ của chàng lúc nãy, vội vàng vái dài rồi tất tả rảo bước.
Chỉ lát sau, từ trong vọng ra tiếng cười sảng khoái, cao hứng là một lão nhân tuổi thất tuần xuất hiện, bước đến bàn Tử Khuê.
Ông ta có thân hình phốn pháp bệ vệ, mặt đỏ hồng đầy nét trưởng giả, râu tóc hoa dâm, mặc trường bào gấm xanh, ngoài khoác áo cừu ngắn.
Đi bên cạnh lão nhân là một hán tử áo cừu đen lực lưỡng, tay bưng thay gỗ son lấp lánh ánh vàng.
Lão nhân mặt đỏ ôm quyền thi lễ và tươi cười nói với Tử Khuê:
- Lão phu là Tống Nhiên, chủ nhân của phạn điếm này và cũng là người bày ra trò thử thách lúc nãy. Lão phu xin thành thật tạ lỗi đạo trưởng và cũng xin chúc mừng đạo trưởng đã đoạt giải thưởng trăm lượng vàng của tệ điếm.
Lão vừa dứt lời thì hán tử áo cửu đen đặt khay gỗ son xuốnh mặt bàn. Trong khay là chục nén vàng mười lượng vô cùng hấp dẫn.
Tử Khuê đã hiểu ra, thản nhiên nhặt vàng bỏ vào tay nải. Trên đường thiên lý, chàng đã chứng kiến biết bao cảnh cơ cực của bách tính, những kẻ bần hàn đang run bần bật vì bụng đói và áo không đủ ấm. Đối với họ, những bông tuyết trinh trắng kia quả là đáng nguyền rủa chứ chẳng hề đẹp đẽ hay thơ mộng như các văn nhân thi sĩ thường ca tụng.
Tử Khuê đã bố thí gần hết số vàng trong người, chỉ còn chừa lại đủ lộ phí về Hứa Xương. Con đường phía trước chắc còn nhìu người cần giúp đỡ và trăm lượng vàng kia sẽ rất hữu ích. Người nghèo chỉ cần vài ba lượng bạc là có thể sống sót qua mùa đông chết tiệt này.
Viễn cảnh ấy làm lòng chàng ấm áp, vui vẻ hỏi lại:
- Này... Tống lão thí chủ. Nếu lúc nãy bần đạo ngã bể đầu thì có được nhiều vàng hơn không?
Tống nhiên cười mát:
- Nếu đạo trưởng ngã ngửa thì chỉ được năm chục lượng và nếu còn nóng nảy chửi bới thì chẳng được xu nào cả.
Chợt lão cau mày hỏi lại:
- Chẳng hay đạo trưởng lai lịch ra sao và đang đi về đâu?
Tử Khuê thận trọng đáp:
- Bần đạo là Vu Diệp Chân Nhân, đệ tử Thiên Sư Giáo, đang có việc cần phải đi đến đạo quán của bổn giáo ở Hứa Xương.
Tống lão lộ sắc mừng:
- Thế thì may quá. Lão phu đang muốn gửi thư cho một bằng hữu ở đấy, phiền đạo trưởng mang giúp hộ, lão phu sẽ hậu tạ hai mươi lượng vàng.
Tử Khuê mau mắn gật đầu:
- Việc nhỏ ấy bần đạo có thể giúp lão thí chủ mà không cần nhận thù lao.
Tống lão ngạc nhiên cười hỏi:
- Lúc nãy chân nhân hoan hỉ nhận trăm lượng vàng sao giờ lại chê vàng?
Tử Khuê bình thản đáp:
- Trăm lượng kia là thí chủ phải trả cho trò tai quái của mình, song việc bần đạo mang thơ thì lại không xứng với số vàng 20 lượng.
Tống Nhiên lắc đầu khâm phục, vái dài:
- Quả là cao luận của bậc Chân Nhân. Lão phu xin bái phục. Lát nữa dùng cơm xong, mời đạo trưởng quá bộ vào trong để bần đạo trao thư, ngoài này đông người e không tiện.
Tử Khuê nghe cũng phải nên gật đầu. Chàng cắm cúi ăn vội mấy bát cơm vì ái ngại ánh mắt tò mò, ganh tỵ của bọn thực khách. Họ còn xầm xì bàn tán, chê chàng là kẻ ngu đần, sĩ diện hão lên mới chê hai chục lượng vàng thù lao đưa thư.
Tử Khuê ăn xong, uống chén trà thơm rồi bảo gã tiểu nhị đang đứng chờ:
- Phiền thí chủ đưa bần đạo vào trong nhận thư.
Gã cười toe toét đưa tay mới chàng rồi rảo bước. Gã dẫn chàng đi xuyên qua khu nhà bếp tấp nập phía sau phạn điếm, ra một vườn hoa lớn.
Giờ đây, những nét đẹp hữu tình của hoa viên đã biến mất dưới màu trắng tiêu điều của tuyết. Cỏ cây sơ xác, non bộ ngậm ngùi, nước khe đóng váng chẳng buồn chảy nữa.
Hai người vượt qua những lối quanh co, vài cây cầu gỗ, đến bức tường cao cuối vườn. Bức tường này chưa phải giới hạn chiều sâu của khuôn viên phạn điếm, nó chỉ che chắn cho một quần thể kiến trúc khác mà thôi.
Khoảng cách giữa hai bức tường ấy là khung cửa rộng với hai cánh gỗ dày sơn đen. Gã tiểu nhị cầm vòng đồng trên cánh cửa đập mạnh và cửa được mở ra.
Người đã mở cửa là một lão già thân thấp to ngang, râu ngắn, nằm cụt ngủn. Trên gương mặt vuông vức, cương nghị của lão ta có hai nét đặc biệt là đôi mắt diều hâu sáng quắc và chiếc mũi lân đỏ ửng.
Lão oai vệ báo gã tiểu nhị:
- Ngươi đã hết nhiệm vụ.
Gã ta vội nở nụ cười cầu tài rồi rút lui ngay. Lão nhân râu ngắn đóng cổng, cài then cẩn thận và lầm lũi đi trước dẫn đường cho khách.
Tử Khuê lơ đãng quan sát cảnh vật qua làn mưa tuyết, nhận ra quanh chiếc sân gạch rộng mênh mông này là ba dãy nhà lợp ngói lưu ly xanh. Trên sân không hề có chậu kiểng, bồn hoa, chỉ có những gốc tùng cổ thụ, cành lá đọng tuyết loang lổ.
Hai người vừa đi đến giữa sân thì lão nhân râu ngắn bất ngờ quay lại, múa quyền tấn công Tử Khuê với nét mặt cực kỳ hung dữ.
Thân thể lão không cao nhưng song thủ khá dài thích hợp với quyền thuật. Quyền phong vù vù chấn động không gian cuốn theo những bông tuyết thổi về phía Tử Khuê như bão tố.
Tử Khuê hốt hoảng đảo bộ tránh đòn thét lên:
- Sao lão thí chủ lại đánh bần đạo?
Lão ta chẳng nói chẳng rằng, lầm lì xông lên tấn công tiếp, cứ như chàng là người cướp vợ của lão vậy.
Tử Khuê vừa sợ vừa kinh ngạc, thi triển Thao Quang Thân Pháp mà chạy quanh. Càng rầu rĩ nghĩ thầm:
- Sao số ta luôn rơi vào những tình cảnh khó khăn, ngang trái thế này chứ nhỉ!
Khinh công của chàng rất linh diệu khiến đối phương không sao tiếp cận được. Lão bực bội quát:
- Con bà nó! Ngươi mà không đứng lại bồi tiếp vài trăm chiêu thì lão phu sẽ lôi tổ tông phụ mẫu của ngươi ra mà thoá mạ đấy.
Tổ tông thì quá xa lạ song Tử Khuê chẳng thể để lão chửi bới cha mẹ mình được. Hào khí tuổi thanh xuân và lòng hiếu thảo đã khiến chàng phẫn nộ trước thái độ ngang ngược của kẻ địch. Tử Khuê lập tức buông tay nải rồi xuống đất rồi trụ tấn chờ đợi.
Lão nhân râu ngắn mừng rỡ lao đến, vươi đôi tay vượn đánh liền mười sáu đòn vừa quyền vừa trảo, uy hiếp tám đại huyệt trên thân trước Tử Khuê. Đường quyền của lão nhanh nhẹn và dũng mãnh phi thường, chứng tỏ một bản lĩnh cao cường, thâm hậu.
Khi đã lâm trận thì Tử Khuê chẳng còn là một chàng trai thận trọng, nhút nhát nữa. Chàng cũng hiểu rõ chẳng khác gì sư phụ, nên giờ đây ánh mắt rực rỡ niềm hứng khởi, khoan khoái giải phá chiêu thức ác liệt của đối phương.
Quyền pháp đạo gia hình thành trên nền tảng tư tưởng Đạo giáo, chủ trương nhu thắng cương. Cho nên về hình thức, pho Thao Quang Thần Thức không có được vẻ đẹp cương mãnh oai phong như Thiếu Lâm Trường Quyền. Song thủ Tử Khuê giờ đây mền mại như hai dải lụa ẻo lả đang cố chịu đựng những đòn công phá hung hãn của kẻ địch.
Nhưng thực ra, lực đạo âm nhu của ở hai bàn tay chàng rất mạnh mẽ, và tốc độ xuất chiêu cũng nhanh hơn đối thủ trong cùng một thời gian.
Mười sáu thế thức sấm sét của lão nhân râu ngắn áo cừu đen lập tức bị ngăn chặn. Không những thế, lão còn phải thoái bộ để tránh một cước như điện của Tử Khuê vào đùi trái.
Gương mặt lão nhân lộ rõ vẻ ngạc nhiên vì phát hiện chàng đạo sĩ trẻ kia có công lực khá cao và quyền thuật thì ảo diệu khôn lường. Lão luyện quyền cước năm chục năm thừa bản lãnh để nhận ra Tử Khuê đã thi triển yếu quyết tá lực đả lực Tứ Lượng Bạt Thiên Cân. Nghĩa là, chàng đã đạt đến trình độ bám theo đường quyền của lão và dùng một lực tương đối nhỏ để xô lệch tay quyền khỏi quỹ đạo.
Tuy ngạc nhiên song lão bội phần cao hứng, hân hoan vì gặp kẻ địch xứng tay. Lão hăm he dồn thêm sức, đánh tiếp chiêu thứ hai.
Lão nhân tấn liền ba mươi tám thế, gồm ba mươi hai quyền và bốn cước.
Không phải ngạc nhiên mà người ta dùng quyền thuật để chỉ phép sử dụng tay chân. Trong võ thuật Trung Hoa, đòn chân rất ít và thường chỉ được sử dụng bất ngờ, mang tính cách ám tập.
Lực đạo của đòn chân mạnh mẽ hơn tay quyền, tầm sát thương chẳng dài hơn. Nhưng ngược lại, khi xuất cước, người võ sĩ để lộ sơ hở rất lớn. Ngay ở chân ra đòn đã có những yếu huyệt để kẻ địch tấn công. Chẳng hạn như các huyệt Phục Thổ, Lương Khâu, Độc Ty, Túc Tam Lý, Giải Khê…. thuộc kinh Túc Dương Minh Vị.
Do vậy các quyền thủ luôn phải rút chân về thật nhanh, dù có đá trúng mục tiêu hay không.
Lão nhân râu ngắn này cũng thế, thỉnh thoảng lão quét nhanh một cước chứ không dám lạm dụng chỉ sợ bàn tay thép của đối phương điểm trúng yếu huỵêt.
Nhưng về những thế quyền thì lão không hề ngán ngại, ung dung va chạm và tự tin sẽ chiếm thượng phong. Lão dồn hết tám thành công lực nên quyền kình ào ạt khí thế tựa sóng dữ Hoàng Hà.
Nếu xét về tương quan lực lượng thì Tử Khuê không tài nào chống nổi. Tay quyền của chàng sẽ bật ra khi chạm vào đối phương và để lộ sơ hở. Hơn nữa, lão nhân râu ngắn lại là cao thủ trong làng quyền cước, đôi tay cứng rắn như thiết mộc. Nhưng may thay, xương cốt, da thịt Tử Khuê cũng chẳng đến nỗi yếu mềm, nhờ linh thủy của mẫu thân và bảy năm mẫn cán đánh vào đám cây du tội nghiệp. Song, điều quan trọng nhất trong quyền pháp của chàng là Tứ Lượng Bạt Thiên Cân và pháp Cương Ty Phất Huyệt .
Tử Khuê nghe quyền phong mà biết đối phương đã nặng tay, chàng liền xuất chiêu Hoa Ảnh Triều Phong, hai bàn tay lúc xòe lúc cụp, quyền ảnh chập chờn tựa như trăm bông hoa lay động trước gió, hóa giải ba mươi tám thức quyền cước hung mãnh và độc địa của đối thủ.
Kẻ tấn công không thành đương nhiên sẽ lộ sơ hở. Đấy là khi dứt chiêu này và chuyển sang chiêu khác. Đối với đại cao thủ thì khoảnh khắc ấy rất ngắn và thường được lấp đầy bằng lối đánh liên hoàn, chiêu nọ nối chiêu kia tựa sóng xô.
Nhưng trong trường hợp của lão nhân râu ngắn hôm nay thì hơi khác. Thức quyền mà lão nhắm vào ngực trái Tử Khuê không bị ngăn chặn. Chàng đạo sĩ trẻ thản nhiên đổi mạng, vươn hữu trảo chụp vào song thất đối phương.
Lão nhân râu ngắn chắc mẩm rằng tay mình sẽ chạm mục tiêu trước. Nào ngờ chợt phát hiện hai huyệt Linh Khư, Bộ Lang ở ngực trái khẽ nhói lên, mặc dù trảo của Vu Diệp Chân Nhân còn ở cách xa hơn gang. Lão ta thất kinh hồn vía, lập tức hoán vị về mé hữu để tránh đòn, trước khi lực đạo vô hình quái dị kia xoáy sâu đến đáy huyệt. May mà lão công lực thâm hậu có lớp cương khí hộ thân, vì mặc áo lông cừu dày nên sự hình chưa đến nỗi tệ hại.
Hiểu rằng đối phương đã luyện thành tuyệt kỹ Tụ Khí Chi Thành, Cách Không Phất Huyệt, lão nhân râu ngắn nản chí anh hùng chẳng còn muốn đấu nữa. Lão vừa chống đỡ chiêu công của Tử Khuê, vừa lùi dần và ngoác họng gọi lớn:
- Nhị ca mau ra tiếp chiêu, tiểu đệ không phải là đối thủ của tiểu tử mũi trâu này.
Thế là trong một phòng nào đó của dãy nhà hướng đông có bốn bóng người lao vút ra. Một trong bọn họ rút kiếm tấn công Tử Khuê.
Lão nhân râu ngắn thấy vậy tung mình rời khỏi đấu trường chứ không liên thủ với người cầm kiếm.
Tử Khuê cũng mặc kệ lão, lo rút gươm để đối phó với tay kiếm thủ mới xuất hiện.
Đó là một lão nhân mặc khinh cừu trắng muốt, râu cằm đen nhánh dài và mượt. Mặt lão xương xương, lưỡng quyền cao nhọn, lông mày lưỡi mác rậm rì. Cộng với chiếc mũi ưng và đôi mắt dài nhỏ, dung mạo lão đầy vẻ khắc nghiệt và hung dữ.
Chiêu kiếm của lão cũng bội phần độc ác, vun vút xé tan màn không gian lạnh lẽo, tĩnh mịch của buổi trưa mùa đông, phát ra những âm thanh lạnh buốt rợn người.
Tử Khuê trẻ người non dạ, cho rằng mình đã rơi vào bẫy của minh chủ võ lâm Âu Dương Mẫn, lòng vô cùng lo sợ, liền tính kế đào tẩu. Hiện tại phe đối phương mới có năm người, nếu để họ kéo ra đông hơn nữa thì nguy to. Do đó quyết định kết thúc cuộc đọ kiếm này thật sớm rồi vượt tường bỏ chạy.
Vì chủ ý ấy mà Tử Khuê xuất chiêu Mạc Mạc Trần Ai một trong những chiêu lợi hại nhất của Thanh Long kiếm pháp.
Chiêu này công thủ vẹn toàn và cực kỳ ảo diệu. Nó gồm đến ba trăm sáu mươi thế thức, tạo nên một màn kiếm ảnh dày đặc khiến đối phương phải hoang mang. Hơn nữa tuyết đang rơi như trời mưa, quyện vào kiếm phong càng phát huy diệu dụng của kiếm chiêu. Kết quả là lão nhân râu ngắn cảm thấy như mình đang đối diện với cơn bão tuyết cuồng nộ, mịt mờ. Thép chạm thép vang rền, song phương xoắn lấy nhau rồi tách ra. Kẻ chịu thiệt thòi là lão nhân râu dài và chính lão đã phải nhảy lùi, rời xa đối thủ để tránh thương vong.
Bốn người đứng ngoài “ồ” lên kinh hãi khi thấy thân trước chiếc áo lông cừu trắng của đồng đảng bị rách toạc. Nghĩa là chỉ xém chút nữa là lão ta toi mạng.
Tử Khuê đang định bỏ chạy thì ngẩn người bởi những tràng vỗ tay tán thưởng của kẻ thù. Riêng lão nhân râu dài thì giơ ngón cái cất lời khen ngợi:
- Hảo thiếu niên! Không ngờ Thiên Sư Giáo lại có thể sản sinh ra một bậc kỳ tài như túc hạ. Lão phu xin khấu đầu bái phục.
Nhưng một trong bốn người đã cải chính:
- Nhị ca sai rồi! Y không phải là đệ tử Thiên Sư Giáo. Võ công y là của Huyền Hư phái, một chi nhánh đạo giáo đã từng tồn tại ở núi Nga Mi trước khi phật giáo truyền vào Trung Hoa.
Tử Khuê vô cùng kinh ngạc, không ngờ kẻ kia lại tỏ tường lai lịch sư môn của mình như thế. Chàng quay sang nhìn thì thấy người ấy là một Hán tử tuổi độ bốn mươi, dung mạo tuấn tú và có một nốt ruồi son trên gò má trái.
Tử Khuê mừng rỡ bước đến chắp tay, cúi đầu thi lễ và hỏi:
- Bần đạo là Vu Diệp. Còn thí chủ phải chăng là Ngụy Công Tử họ Tề? Gã ta cau mày gật đầu:
- Tại hạ chính là Tề Thúc Như. Nhưng tại sao đạo trưởng lại nhận ra?
Tử Khuê hớn hở đáp:
- Bần đạo thừa lệnh sư thúc là Cửu Hoa Thánh Y, đến Nghiệp thành này tìm thí chủ.
Chủ nhân phạn điếm là Tống Nhiên cũng có mặt nơi này, lão cười ha hả bảo:
- Té ra là chỗ quen biết, mời mọi người vào trong đàm đạo cho ấm áp.
Chiều mùng sáu tháng chạp, Tử Khuê bồi hồi lỏng tay cương, chậm rãi qua cầu Bá Lăng. Dẫu cho tuyết rơi mù mịt, từ trên cầu này chàng vẫn nhìn thấy thấp thoáng bong dáng Quách gia trang, nơi có những người thân đang trông ngóng mình. Trong thư gửi về nhà hồi tháng tám, chàng đã nói rằng sang xuân mới có thể hạ sơn. Nay chàng về sớm thế này chắc song thân sẽ vui mừng lắm.
Dường như chính lá thư ấy đã khiến Âu Dương Mẫn không đặt phục binh ở dọc đường. Lão đã có nội gián là Nhâm Đức Tín, anh rể Tử Khuê, nên chẳng sợ bắt hụt con mồi.
Ngoài ra còn một số yếu tố khác khiến cho Tử Khuê được an toàn, đó là việc đối phương không biết dung mạo của chàng, sau bảy năm, một đứa bé trở thành người lớn và đổi khác. Giờ đây chỉ có song thân và hai bào tỷ của chàng mới có thể nhận ra, vì đã gặp vài lần trong mấy năm qua. Nghĩa là Nhâm Đức Tín muốn mô tả hoặc vẽ lại gương mặt vóc dáng của chàng cũng chẳng bắt được. Tất nhiên, gã không thể yêu cầu vợ mình giúp đỡ.
Cầu hẹp, Tử Khuê không thể phi nhanh chứ lòng chàng nôn nao, sôi sục chỉ muốn mau chóng trở lại chốn cũ dấu yêu. Cho nên vừa sang đến bờ bên kia, Tử Khuê lập tức rẽ trái ra, rồi giục ngựa phi nhanh. Nửa dặm chẳng là bao, lát sau chàng đã tới nơi.
Nhưng chàng chẳng dám gõ vào cánh cổng khép kín im lìm nọ, đứng lặng người một lúc rồi quay ngược trở ra, đi vào thành tìm chỗ trọ.
Theo kế hoạch Cửu Hoa Thánh Y Cổ Sĩ Hoành, Tử Khuê phải âm thầm trừng trị Nhâm Đức Tín trước khi công khai quay về Quách gia trang. Có như thế thì Âu Dương Mẫn mới không nghi ngờ chàng là thủ phạm, vô hiệu hóa nội gián là điều kiện tiên quyết để đảm bảo an toàn cho Tử Khuê và gia quyến.
Dĩ nhiên Tử Khuê chẳng thể giết anh rể để bào tỷ phải góa bụa, ba đứa cháu phải mồ côi. Cửu Hoa Chân Nhân đã dạy sư điệt một thủ đoạn phi thường, dầu Diệu Thủ Trần Cơ cũng phải bó tay.
Không những thế, Chân Nhân còn tặng Tử Khuê một quyển Y Cảo, tâm huyết của cả một đời để chàng trở thành người thừa kế trọn vẹn tuyệt học của Huyền Hư phái. Khác với Vu Mộc Chân Nhân và Thanh Long Chân Nhân, Cổ Sĩ Hoành nuôi chí trùng hưng môn phái, không chịu để tông môn mai một. Có lẽ ý tưởng nảy sinh khi ông gặp gỡ Tử Khuê, nhận ra chàng là bậc kỳ tài, đủ sức dương danh Huyền Hư phái trên chốn võ lâm.
Hơn nữa Tử Khuê đã tình cờ vào thế đối đầu với Minh chủ Âu Dương Mẫn, tức Huyết Mai Hội chủ, công địch của Võ Lâm. Chàng không thể rời xa Tỵ Lôi Thần Châu và đối phương thì quyết chiếm cho bằng được. Do đó, Tử Khuê bắt buộc phải chiến đấu để sinh tồn và trở thành vị tướng tiên phong trong sự nghiệp giáng ma.
Nếu chàng thành công, thanh danh sẽ lẫy lừng kim cổ. Lúc ấy, việc thu nhận đệ tử, khôi phục lại phái Huyền Hư dễ như trở bàn tay.
Bản thân Tử Khuê thì vốn không có ý định ấy vì sư phụ chàng, Vu Mộc Chân Nhân chưa hề đề cập đến. Nhưng chàng cho rằng đây là cách tốt nhất để báo công ơn như trời biển của ân sư. Vì thế, chàng nhất nhất nghe theo lời dạy bảo của tam sư thúc Cổ Sĩ Hoành. Hơn nữa, học võ để làm gì nếu không nuôi chí trừ gian diệt bạo. Nhắc lại đầu canh ba hôm ấy, Tử Khuê mặc bộ võ phục màu trắng, rời quán trọ tìm đến Nhâm gia trang trên phố chính bắc nam của thành Hứa Xương. Lúc tối, chàng đã ra ngoài sắm sửa y phục để thực hiện kế hoạch đã định sẵn.
Cơ ngơi này được mua bằng số vàng hồi môn của đại tỷ Tử Khuê là Quách Thu Dung, nhưng gái theo chồng nên trở thành tài sản họ Nhâm. Tử Khuê rất quen thuộc nơi đây vì thuở nhở thường lui tới chơi đùa. Đại tỷ chàng không có con trai nên thường tìm cách lôi kéo đứa em trai kháu khỉnh đến nhà mình bằng những món bánh kẹo ngon ngọt.
Tử Khuê biết rõ khuê phòng của chị mình nằm trong dãy nhà hướng bắc liền vượt tường sau, nhảy xuống vườn hoa rồi áp sát vách hậu, ghé mắt qua khe cửa mà quan sát .
Chàng rất hồi hộp và lo lắng khi lần đầu làm kẻ dạ hành, chỉ sợ bọn gia nhân phát hiện. May thay trong tiết trời lạnh giá này mọi người đều ngủ sớm và bọn gia đinh tuần tra cũng tìm chỗ kín gió mà ngồi chứ không đi qua đi lại. Họ có thể lơi là nhiệm vụ vì những cơ ngơi của nhà họ Quách được quan quân thành Hứa Xương ưu ái trong việc bảo vệ. Tổng binh Hứa Xương là cháu ruột của Quách trang chủ tức em thúc bá với Tử Khuê, gã được làm tổng binh cũng là nhờ vàng bạc và thế lực của Quách Thiên Tường. Vì vậy Quách Tử Xuyên đã bắt bọn quân sĩ dưới trướng đêm đêm đội tuyết dầm sương rảo quanh nhà của hai biểu tỷ Thu Dung, Xuân Hương. Đối với Quách gia trang ở ngoại thành, gầm cầu Bá Lăng, việc tuần tra bảo vệ còn được thực hiện nghiêm ngặt hơn.
Thực ra Tử Xuyên chẳng lỗ lã gì vì vẫn nhận được những khoản ban thưởng của Quách gia trang. Ngay bọn lính tuần cũng có phần vui vẻ hoàn thành nhiệm vụ.
Nhưng sự mẫn cán của họ chỉ dọa được bọn đạo chính cò con, và vô dụng trước những cao thủ võ lâm. Lúc nãy, Tử Khuê dễ dàng qua mặt bọn lính tuần, vượt bức tường cao hon trượng chỉ bằng một động tác nhún chân.
Trở lại với kẻ dạ hành bất đắc dĩ là Tử Khuê, chúng ta sẽ thấy chàng đang rầu rĩ khi chứng kiến cái cảnh gia đình bào tỷ bị xào xáo, bất hoà. Thì ra, Nhậm Đức Tín vừa từ thanh lâu trở về, người nồng nặc mùi rượu và son phấn.
Khi bị Quách Thu Dung cằn nhằn, trách móc thì họ Nhậm hùng hổ nạt:
- Nàng chớ nhiều lời, Nhâm mỗ không có con trai nối dỗi tông đường nên lòng chẳng vui, phải chơi bời để giải khuây thế thôi.
Quách Thu Dung cười nhạt:
- Tướng công là thứ nam, trong khi cháu đích tôn họ Nhâm đã có rồi, thì việc tiện thiếp có sinh con trai hay không nào có quan trọng gì?
Đức Tín đuối lý, trả đũa một cách đểu cáng. Gã nhếch mép mỉa mai:
- Thực ra ta đến thanh lâu vì quá chán cái thân thể nhão nhẹt, béo phệ cũng như gương mặt xấu xí của nàng đấy.
Đối với nữa nhân, chê bai nhan sắc là câu mạt sát nặng nề nhất. Quách Thu Dung tái mặt, dòng lệ tủi hổ trào tuôn, ôm mặt chạy ra khỏi khuê phòng, sang ngủ với các con.
Nhâm Đức Tín cười đắc ý, lảo đảo đi theo, đóng sầm cửa phòng lại rồi trở vào, leo lên giường. Gã đã say mèm nên không nghĩ đến chuyện cài then cửa và chỉ lát sau đã ngáy khò khò. Tử Khuê thương cho hoàn cảnh của chị mình, liền thay đồi chút ít thủ đoạn. Theo kế hoạch của Cửu Hoa Chân Nhân Cổ Sĩ Hoành thì Tử Khuê phải dùng phép tỏa kinh bế mạch biến họ Nhâm thành kẻ bại liệt, giống như người trúng gió vậy.
Tử Khuê mau chóng nhảy lên mái ngói, chuyển ra phía trước, vào bằng cửa chính. Chàng thận trọng điểm Thụy Huyệt của gã say khốn kiếp rồi mới hạ thủ.
Phất huyệt là phần quan trọng nhất của pho Thao Quang thần thức, nên sau bảy năm khổ luyện, Tử Khuê vẫn có thể nhắm mắt mà vẫn điểm huyệt chính xác, chẳng sai một ly. Sáng mai, khi thức dậy, Nhâm Đức Tín sẽ nghe đau ở hai khớp gối, hai cùi chỏ và xương hàm, gã chỉ có thể đi thật chậm như một lão già chín mươi, còn hai tay thì chỉ đủ sức để bưng chén cơm hoặc chùi đít. Gã cũng sẽ thôi chửi bới vợ con vì nói năng khó khăn.
Nhưng có một thứ vẫn nguyên vẹn là khả năng dục tình. Lúc ấy, họ Nhâm sẽ phải lạy lục, van xin người vợ già xấu xí của mình.
Xế trưa mùng chín tháng chạp, Tử Khuê dừng cương trước cổng Quách gia trang. Chàng nôn nao gõ dồn dập vào cánh cửa gỗ khiến gã gia đinh ra mở cửa phải bực bội.
Gã nhăn nhó trách:
- Túc hạ là ai mà sao lại có cái lối gọi cửa vô lễ như vậy?
Tử Khuê nhận ra gã là Tiểu Toàn, con của lão đầu bếp Quách gia trang. Tiểu Toàn bằng tuổi chàng, và thuở nhỏ hai người rất thân nhau. Giờ đây Tiểu Toàn đã trở thành một tráng đinh lực lưỡng, râu mép lún phún, Tử Khuê mừng rỡ nói:
- Tiểu Toàn đấy ư? Ta là Tử Khuê đây!
Gã giật mình nhìn chàng thật kỹ rồi rú lên:
- Ôi,thiếu gia!
Và gã ôm chầm lấy chàng, vỗ lưng bồm bộp theo cách mà bọn nam nhân thường làm.
Tiếng rú của gã đã đánh động một ả nữ tỳ đang quét tuyết ngoài cửa thuỳ hoa, cửa dẫn vào sân trong. Ả này vội quăng chổi chạy vào bẩm báo.
Cả nhà lập tức kéo ra, chủ tớ chẳng sót một ai. Tử Khuê và Tiều Toàn cũng dắt díu nhau vào đến, qua khỏi cửa thuỳ hoa thì gặp người thân.
Chàng vô cùng xúc động khi thấy song thân, liền phục xuống lạy:
- Bất hiếu nhi bái kiến huyên đường.
Quách Thiên Tường cười ha hả, ánh mắt rực rỡ niềm vui sướng. Còn Kỹ nương bước đến đỡ ái tử dậy rồi ôm lấy mà khóc ròng.
Tử Khuê cũng mủi lòng song không dám để lộ vì sợ bọn tỳ nữ chê cười. Họ đang dán những ánh mắt ngưỡng mộ vào gương mặt khôi ngô của cậu chủ trẻ, người sẽ cưu mang họ sau này. Họ không dám mơ trở thành vợ chàng song làm tỳ thiếp thì có thể.
Bữa cơm trưa trở thành tiệc đoàn viên, vài món được nấu thêm dọn lên hơi trễ.
Lúc chuẩn bị tắm gội, Tử Khuê sực nhớ ra hỏi từ mẫu:
- Mẫu thân! Chiêm đệ đâu sao chẳng thấy?
Kỹ nương thở dài, nặng trĩu u buồn:
- Chiêm nhi mắc bệnh lạ đã hai tháng nay, các đại phu trong thành đều bó tay, nếu sống sót thì cũng trở thành phế nhân.
Tử Khuê bàng hoàng chết lặng, lòng dạt dào nỗi xót thương đứa em bé bỏng. Sực nhớ đến quyển Y Cảo mà Cửu Hoa Thánh Y đã tặng, chàng mừng rỡ an ủi mẹ :
- Mẫu thân chớ muộn phiền. Hài nhi đã gặp kỳ Hoàng sư thúc tổ, được người tặng cho quyển y kinh. Mẹ con ta nghiên cứu quyển sách ấy tất sẽ tìm ra cách chữa trị cho Chiêm đệ.
Thực ra trong nghề võ cùng đồng bối với Kỹ nương, nhưng trước mặt từ mẫu vẫn gọi Cửu Hoa Thánh Y là sư thúc tổ.
Kỹ Thanh Lam vui mừng khôn xiết reo lên :
Đa tạ hoàng thiên. Ta đã nghĩ đến Tam sư thúc nhưng chẳng biết ở đâu mà tìm.
Bà hân hoan nhận lấy quyển sách thuốc dày cộm và nhìn con trái với ánh mắt chan chứa yêu thương.
Đến giữa giờ Ngọ thì hai chị và hai anh rể của Tử Khuê đã có mặt. Nhâm Đức Tín được vợ dìu đi, lê lết từng bước rất khổ sở, mặt nhăn như khỉ. Nhưng mắt gã sáng lên khi thấy viên ngọc tròn màu tía trên ngực em vợ.
Lúc Tử Khuê đến chào, gã thều thào bảo:
- Này tam đệ! Phải chăng…. đấy là viên Tỵ Lôi Thần Châu? Ngươi đưa tỷ phu xem thử.
Tử Khuê vui vẻ gật đầu, tháo dây tơ, trao viên ngọc giả cho họ Nhậm, miệng thì nói:
- Công dụng của thần châu cũng không lớn lắm, dù đeo nó mà tiểu đệ cũng mấy lần ngã lăn vì sét đánh, nhưng được cái là chẳng thể chết. May mà giờ tiểu đệ đã qua tuổi mười tám, chẳng còn cần đến Tỵ Lôi Thần Châu nữa.
Nhậm Đức Tín mừng húm, chỉ chực mở miệng ra xin, nhưng Nhị tiểu thư Quách Xuân Hương đã buột miệng:
- Ngu tỷ nghe đồn lão Minh chủ võ lâm Âu Dương Mẫn cũng bị Thần Lôi ám quẻ, đang cần mua Tỵ Lôi Thần Châu với giá vạn lượng vàng.
Nàng quản lý ba bốn tửu lâu nên chẳng thiếu thông tin.
Quách Thu Dung bật cười nói đùa:
- Thế thì hay quá. Chừng nào ngu tỷ thiếu vốn thì Tam đệ bán đi cho ta mượn.
Kỹ nương dịu dàng xen vào:
- Đấy là kỷ vật của sư phụ Tử Khuê, chẳng thể bán được.
Sau bữa tiệc tương phùng đầy ắp tiếng cười, Nhâm Đức Tín nôn nóng đòi về, mượn cớ chân đau chẳng tiện ngồi lâu. Quách Thu Dung liền sai gia nhân đánh xe đưa gã về trước, còn mình ở lại trò chuyện với đứa em trai cách biệt đã lâu.
Họ Nhâm về đến nhà lập tức viết thư sai gã gia đinh thân tín đi trao cho thủ hạ của Âu Dương Mẫn. Ở mỗi địa phương sầm uất, phồn vinh đều có vài tên thủ hạ của Minh chủ võ lâm cắm chốt. Nhiệm vụ của chúng là dò la tình hình giới giang hồ và các bang hội, báo về tổng đàn bằng đường dây dịch trạm.
Do đó, chỉ sáu ngày sau là Âu Dương Mẫn gõ cửa Quách gia trang. Cùng đi với lão có Diệu Thủ Thần Cơ, ba mươi gã vệ sĩ và một lão nhân râu năm chòm.
Lão ta tuổi độ sáu mươi lăm, trán cao, mắt sáng, đầy vẻ thông tuệ, nếu mũi không quá tẹt và miệng không quá nhỏ thì cũng khá đẹp lão. Bác Cổ Tiên Sinh Lương Viễn Phương lừng danh trung thổ vì kiến văn uyên bác tinh thông nghề thiết kế cơ quan ám khí, và là một bậc thầy trong ngành khảo cổ.
Âu Dương Mẫn mời Lương Viễn Phương đi theo để thẩm định viên Tỵ Lôi Thần Châu. Dù đối với lão vạn lượng vàng không lớn nhưng nếu mua nhằm của giả thì mạng già sẽ ra ma.
Theo đúng lễ, khách đưa bái thiếp cho gia nhân rồi đứng đợi. Gã Tiểu Toàn hộc tốc chạy vào báo cho Quách trang chủ.
Lúc này thì vợ chồng Quách Thiên Tường đã được Tử Khuê kể rõ ngọn ngành và có sẵn kế sách đối phó. Trang chủ thản nhiên bảo Tiểu Toàn ra mời khách nhập trang.
Ba mươi gã kiếm sĩ Tổng đàn đứng ngoài giữ ngựa, chỉ có Âu Dương Mẫn và hai lão nhân đi theo Tiểu Toàn.
Quách trang chủ một mình tiếp khách, vui vẻ bảo ả nữ tỳ Tiểu Cầm châm trà.
Sau khi nhấp vài hớp trà Long tỉnh thượng hạng, Âu Dương Mẫn trình bày mục đích của mình. Quách Thiên Tường chau mày ngạc nhiên:
- Tại sao tôn giá lại biết việc Quách gia trang sở hữu thần châu?
Âu Dương Mẫn ỡm ờ đáp:
- Có người tình cờ nhìn thấy lệnh lang đem ngọc đi dạo phố nên đã đến báo với lão phu.
Quách trang chủ gật gù chấp nhận lý do ấy rồi nói:
- Đúng là hiện nay khuyển tử đã khoát tai ương, không cần đến Tỵ Lôi Thần Châu nữa. Nhưng nó lại là di vật của sư phụ nên e rằng Khuê nhi chẳng chịu bán. Nay Âu Dương Huynh đã khẩn khoản như thế, để lão phu cho gọi khuyển tử ra hỏi ý.
Diệu Thủ Thần Cơ cười mát, nói một câu đầy ẩn ý:
- Cứu một mạng người còn hơn xây bảy cấp phù đồ. Nếu trang chủ cố khuyên lệnh lang nhường lại Tỵ Lôi Thần Châu thì công việc kinh doanh của nhà họ Quách sẽ ngày càng thịnh vượng. Lỡ quý hiện có bị ai cạnh tranh hay quấy rối thì Âu Dương Minh chủ sẽ ra oai trấn áp giùm.
Quách Thiên Tương là kẻ lọc lõi chốn thương trường, thừa bãn lãnh để thay đổi, sắc mặt giả vờ sợ hãi, bối rối trước lời nói hăm dọa của đối phương. Ông đứng lặng người một lúc rồi thiểu não nói:
- Lão phu đã hiểu ý tứ Tư Mã lão huynh, sẽ tận lực thương lượng với khuyển tử.
Ông đứng lên lật đật đi vào trong. Nửa khắc sau Quách trang chủ trở ra cùng con trai.
Từ ngày hồi trang, Tử Khuê bị song thân bắt phải trút bỏ cái lốt đạo sĩ, mặc y phục bằng gấm lụa, chàng cũng ăn mặn để từ mẫu được vui lòng. Chàng là người thừa kế hương hỏa dòng họ Quách nên không thể đi tu được Quách lão còn đốc thúc ái tử cưới vợ song chàng đã khất lần.
Hôm nay Tử Khuê mặc trường bào gấm xanh, ngoài khoác áo khinh cừu ngắn, trông như chàng công tử văn nhã chẳng chút gì giống kẻ học võ cả.
Quách trang chủ giới thiệu con trai với khách. Tử Khuê chắp tay thi lễ rồi ấp úng:
- Bẩm Âu Dương Minh chủ. Nếu người thực sự cần đền Tỵ Lôi Thần Châu thì vãn bối chẳng dám tiếc. Có điều là viên ngọc này không thực sự công hiệu như lời đồn đãi. Gia sư bảo rằng nó chỉ giúp người đeo được toàn mạng chứ không tránh khỏi sự khiếp sợ và tổn thương nho nhỏ. Sau này, mong Minh chủ chớ trách vãn bối không nói trước.
Tử Khuê chẳng quen nói dối nên lời lẽ ngập ngừng, ánh mắt đầy vẻ sợ sệt. Nhưng Âu Dương Mẫn và hai đồng đảng lại cho rằng chàng muốn bán đâu mà phải trả. Nhà họ Quách giàu có đã mấy đời, chẳng tham vạn lượng vàng làm gì.
Âu Dương Mẫn nghe vậy lại càng tham tiết muốn mua. Da thịt lão rất bền chắc nhờ Thiết Sa Thần Công, hơn hẳn gã công tử yếu đuối kia, nên sẽ chẳng hề suy suyễn. Lão chỉ cần cái công dụng bảo mạng của Tỵ Lôi Thần Châu là quá đủ rồi.
Nghĩ vậy nên Âu Dương Mẫn đáp lời:
- Công tử thành thật như thế thì sao lão phu dám oán trách. Mong công tử cho bọn lão phu xem qua cái vật kỳ lạ ấy.
Tử Khuê tháo ngọc đặt xuống bàn rồi lui về, đứng sau lưng phụ thân chàng. Chàng là hậu bối, không được phép ngồi chung với khách của cha mẹ, trừ phi họ yêu cầu.
Âu Dương Mẫn cầm lấy, xem qua loa, thấy bề mặt của viên ngọc tía nhỏ cỡ hột nhãn này chi chít những chữ nhỏ như kiến. Không phải Hán tự tức có thể là chữ Phạn.
Lão mù tịt nên đưa sang cho Bác Cổ Tiên Sinh Lương Viễn Phương. Lương lão xem xét bằng một mảnh pha lê trong suốt hình bán cầu, bằng cỡ nửa trái cam. Nó chính là kính phóng đại do người Tây Dương làm ra, đem đến Trung Hoa bán với giá đắt hơn vàng.
Người Trung Hoa phát minh ra nhiều thứ, trước các nước phương Tây cả mấy chục năm nhưng chẳng hiểu sao họ lại thất bại trong ngành thuỷ tinh, làm ra những sản phẩm chỉ đáng gọi là “ve chai”.
Việc chế tạo thuỷ tinh ở Trung Quốc đã có nguốn gốc từ thời nhà Thương. Ngành này có quan hệ chặt chẽ với công việc làm đồ sứ và luyện kim. Thời Trung Hoa đã có những lò nung đạt đến đạt đến tới nhiệt độ một ngàn năm trăm ba mươi độ, đủ điều kiện làm thuỷ tinh.
Có lẽ, loại thuỷ tinh đầu tiên ở Trung Hoa là sản phẩm phụ khi đúc đồng. Lúc thải bỏ xỉ, người ta ngẫu nhiên phát hiện ra thuỷ tinh.
Ngay đến tận thời nhà Minh, Trung Quốc vẫn chưa làm được loại thuỷ tinh trong suốt, chất lượng cao chứ đừng nói đến thuỷ tinh quang học.
Đầu tiên, khoảng thời Nam Tống, có thể kính mắt, tức kính lão được đưa từ các nước Ba Tư vùng Tây Vực vào Trung Hoa, giá đắt ngàn vàng.
Sau này, người Tây phương đã mang kính lão và những sản phẩm thuỷ tinh khác đến Trung Hoa. Kính cận thì tới thời nhà Thanh mới có.
Nghĩa là Bác Cổ Tiên Sinh vì nhu cầu nghề nghiệp mà đã phải cắn răng bỏ ra mấy trăm lượng vàng để mua cái cục thuỷ tinh nặng trịch ấy. Nhưng lão sẽ không bao giờ phải hối tiếc vì giờ đây những chữ Phạn nhỏ li ti kia lớn lên gấp mấy lần rõ ràng từng nét. Và không hổ danh uyên bác, Lương lão đọc được ngay câu thần chú trúc trắc, khó hiểu nọ. Tổng cộng gần ba trăm sáu mươi chữ, đúng như cổ thư đã ghi chép. Hơn nữa, có vài chục chữ đã hơi mờ và mòn đi bởi tay người, đúng là đồ cổ.
Lão không biết rằng Ngụy Công tử Tề Thúc Như thừa thủ đoạn để làm cho một vật già đi vài trăm tuổi. Làm mòn vẹt là dễ nhất, mài vào da trâu ít khắc là xong.
Hơn nữa Bác Cổ Tiên Sinh chưa hề thấy qua vật thực, thì làm sao phân biệt giả chân? Lão chỉ đinh ninh rằng chủ cũ chẳng có động cơ gì để đưa ra của giả, và nhà họ Quách chỉ bán vì bị hăm dọa.
Do đó Lương lão vững dạ tuyên bố với Âu Dương Mẫn:
- Chúc mừng Minh chủ mua được bảo vật.
Âu Dương Mẫn hân hoan móc ra xấp ngân phiếu vạn lượng hoàng kim, đẩy về phía Quách trang chủ rồi cảm ơn rối rít.
Quách Thiên Tường làm ra vẻ miễn cưỡng, sai Tiểu Cầm lấy văn phòng tứ bảo. Lão viết nhanh hai bản văn tự với đầy đủ những ý mà Tử Khuê đã nói, song phương ấn ký rồi chia nhau mỗi người một bản. Vậy là dẫu sau này Âu Dương Mẫn có bị sét đánh thọ thương thì cũng chẳng thể đổ thừa cho Quách gia trang.
Nước cờ này rất tuyệt diệu, đề phòng đối phương bị Lôi Thần thăm viếng lần nữa mà không chết. Còn như lão chết toi thì võ lâm thoát nạn và sẽ chẳng còn ai để kiện cáo.
Hồi 4 : La Sơn phùng Thiết Đảm
Nam Dương ngộ Tiên Hồ
Đến cuối tháng chạp thì cậu bé Quách Tử Chiêm hoàn toan bình phục , khiến niềm vui của Quách gia trang được trọn vẹn
Kỹ nương đã có căn bản về y học, nay được thêm quyển sách thuốc của Cửu Hoa Thánh Y nên đã cứu được con thơ.
Tử Chiêm biết mình thoát chết nhờ ai nên vô cùng yêu mến Tam ca, quấn quýt chẳng rời.
Tử Khuê đã dâng lên song thân hai viên “Trường thọ đan” nhưng chỉ mình Quách trang chủ sử dụng, Kỹ nương nhỏ hơn chồng mười mấy tuổi lại có công lực thâm hậu nên rất trẻ trung tráng kiện. Bà mà uống “Trường thọ đan“ thì e rằng Quách lão chịu không thấu.
Hương xuân của năm Giáp Dần chưa tan thì Tử Khuê đã phải lên đường. Tiếng rằng đi du ngoạn song thực ra là chàng chính thức dấn thân vào chốn giang hồ.
Việc trước tiên Tử Khuê phải thực hiện là đến núi La Sơn, cạnh bờ sông Trúc Can Hà một phụ lưu của sông Hoài.
Sứ mạng ấy xuất phát từ chiếc ghế gãy của Hồng Vận đại phạn điếm đất Nghiệp, chứ chẳng phải do Cửu Hoa Thánh Y giao phó.
Số là thế này, trong hàng ngũ bô lão võ lâm có ba nhân vật cực kỳ lợi hại, tuổi đã gần chín mươi, được người đời xưng tụng là Võ Lâm Tam Tôn. Họ gồm Bắc Thiên Tôn ở phủ Đại Đồng tỉnh Sơn Tây, Nam Thiên Tôn đất Thiệu Dương , tỉnh Hồ Quảng và Trung Thiên Tôn núi La Sơn, tỉnh hà Nam.
Ba vị Kỳ Nhân này võ công cái thế, song từ lâu đã không màng đến sự đời nên Âu Dương Mẫn mới có thể hoành hành được.
Và giờ đây, Tử Khuê đến La Sơn là để bái kiến Trung Thiên Tôn Trần Ninh Tĩnh. Lão ta hiện đang giam giữ ái nữ của chủ nhân Hồng Vận đại phạn điếm Tống Nhiên.
Cô ả này tên gọi Tống Thụy, tuổi đã hai mươi sáu mà vẫn chưa chồng. Không phải vì nàng ta quá xấu nên ế ẩm. Ngược lại, Tống Thụy khá xinh đẹp và lại còn rất thông minh mẫn tiệp nữa.
Chẳng qua, cô con gái út nhà họ Tống có máu giang hồ, thích phiêu bạt đó đây mà hành hiệp chứ không cam tâm làm một ả hoàng hoa khuê nữ.
Năm hai mươi tuổi, Tống Thụy đã học hết nghề của cha và các nghĩa thúc, liền mang gươm xuất đạo ngay. Chỉ sau bốn năm, Tống tiểu thư đã lừng danh với cái xú hiệu Thiết Đảm Hồng Nhan. Tuy là gái nhưng nàng có cái lối đánh nhau cực kỳ liều lĩnh, táo bạo khiến đám nam nhân phải xanh mặt.
Mỗi năm, Tống Thụy chỉ về nhà một tháng tết, nhân dịp giỗ mẹ hiền. Tống lão có rầy la quở mắng thì nàng chỉ mỉm cười ôn nhu chẳng hề biện bạch. Tống lão chịu thua vì chẳng nỡ đánh đập hay xiềng xích đứa con gái mang dung mạo của người mẹ quá cố. Tống Thụy mất mẹ từ nhỏ, lại giống Tống phu nhân như đúc nên được cha cưng chiều nhất nhà.
Tống Nhiên vốn là một cao thủ Hắc đạo hoàn lương. Ông có ba nghĩa đệ, hai người đã so tài quyền kiếm với Tử Khuê, người thứ ba chính là Ngụy Công Tử Tề Thúc Như. Tống Thụy cũng là học trò của ba kẻ ấy.
Đầu năm ngoái, Thiết Đảm Hồng Nhan tình cờ lạc bước đến núi La Sơn mà không biết đấy là chốn ẩn cư của Trung Thiên Tôn Trần Ninh Tĩnh.
Phong cảnh La Sơn lúc Xuân về cực kỳ diễm lệ, hoa tháng hai tưng bừng nở rộ. Tống cô nương say sưa dạo chơi và thò tay định ngắt vào đóa hoa thì bị một con chim ưng tấn công lén, mổ vào đầu đau điếng. Tống Thụy nổi giận thi triển ngay tuyệt kỹ của cha già, phóng một mũi “Yến Vỹ châm“ giết chết con chim xảo quyệt.
Nào ngờ, nó lại là vật nuôi yêu quý của Trung Thiên Tôn và tiếng kêu lìa đời thảm thiết của thần ưng đã đánh động chủ nhân. Trần lão liền chạy ra, tóm cổ Thiết Đảm Hồng Nhan đem vào thạch động giam giữ.
Sau đó, Trung Thiên Tôn gởi thư cho Tống Nhiên kể rõ sự tình, bảo rằng sẽ cầm tù Tống Thụy cho đến khi nào họ Tống tìm được mốt con chim ưng khác để bồi thường.
Chim ưng thì chẳng thiếu, song khổ nỗi Trần Ninh Tĩnh lại đòi một con biế nhậu và tửu lượng không dưới 1 thăng ( lít).
Tống điếm chủ thương con vô hạn, liền tìm mua mấy chục chú chim ưng rồi tập cho chúng uống rượu. Kết quả là chẳng con nào chịu uống cả và nếu miễn cưỡng đổ vào họng chưa đến nửa thăng thì chúng lăn ra chết toi.
Tống Nhiên cùng ba vị bài đệ đành bó tay cứ nghĩ đến Tống Thụy là lòng đau như xé. Mỗi ngày phải uống hơn thăng rượu thì hai năm sau Thiết Đảm Hồng Nhan sẽ biến thành bạch cốt dạ xoa, dung nhan tàn tạ va sức lực mỏi mòn. Thể chất của nữ nhân hoàn toàn không thích hợp với rượu. Họ uống chơi vài chung thì được chứ cứ nốc tràn thường xuyên thì yểu mạng.
May thay, hồi đầu tháng mười một năm ngoái, sứ giả của Trung Thiên Tôn đến Nghiệp thành để trao thư. Trong thư ấy, Trung Thiên Tôn yêu cầu Tống Nhiên xếp đặt cái bẫy mà Tử Khuê đã sa vào. Và nếu cái kẻ xui tận mạng ấy chịu đến La Sơn hội kiếm với Thiên Tôn thì Tống Thụy sẽ được thả ra ngay.
Bởi thế cho nên, Tống điếm chủ cùng ba người đệ tử khẩn khoản van nài Tử Khuê giúp đỡ. Ngụy Công Tử Tề Thúc Như còn dùng việc làm giả Viên “Tỵ Lôi thần châu“ để uy hiếp Tử Khuê. Nếu chàng không chịu nhận lời đi La Sơn thì gã cũng sẽ chẳng thèm trổ tài xảo thủ. Thế là Tử Khuê đành phải gật đầu.
Người Trung Hoa rất coi trọng chữ tín nên vợ chồng Quách trang chủ đành phải gạt lệ tiễn con, dù lòng chẳng hề muốn xa. Cậu bé Tử Chiêm thì sụt sùi khóc lóc khi tống biệt Tam ca, khiến Tử Khuê phải hết lòng an ủi.
Chỉ mình Băng Tâm Ma Nữ Kỹ Thanh Lam biết rằng lần ra đi này sẽ đưa đến những lần xa nhà khác. Ân oán giang hồ vốn dây dưa không dứt, người hiệp khách có thể chẳng cần hư danh song lòng nhiệt huyết của tuổi thanh xuân đã khiến vó câu bôn ba chẳng mỏi. Ngày xưa bà cũng đã từng là một người như thế. Nhưng nữ nhân dễ rút chân khỏi chốn giang hồ khi xuất giá, còn nam nhi thì khác hẳn. Khi đã thành danh, bọn đàn ông sống chết vì nó, mặc cho thê tử lo lắng, nhớ thương.
Do tin tưởng rằng con mình là thần tiên giáng phàm tất chẳng thể sống một cuộc sống tầm thường, Kỹ nương cắn răng chấp thuận cho Tử Khuê xuất đạo.
Nhưng nếu Âu Dương Mẫn chính là Huyết Mai Hội chủ thì việc đối đầu với lão ta sẽ nguy hiểm khôn lường cho cả Tử Khuê lẫn người thân. Do đó, bà đã luôn nhắc nhở con trai mình phải thận trọng, không được sính cường hay sơ xuất. Và chàng phải tuyệt đối giữ kín lai lịch, không làm liên lụy đến Quách gia trang.
Kỹ nương đã khóc khi dặn dò khiến Tử Khuê mủi lòng, vội nặng lời thề thốt để trấn an. Chàng hứa vời mẹ rằng sẽ sống sót trở về bằng mọi giá.
oOo
Đầu tháng ba, dưới chân núi La Sơn xuất hiện một kỵ sĩ. Người này mặc đạo bào xanh, đầu đội nón tre rộng vành, thân hình khá lực lưỡng và mặt thì đầy râu nên người ngoài sẽ phỏng đoán rằng gã độ hăm lăm, hăm sáu tuổi.
Chàng đạo sĩ ấy dừng cương trước một nhà tiều phu, xuống ngựa hỏi thăm chủ nhà:
- Bẩm lão thí chủ! Dám hỏi đường nào lên Trung Thiên động?
Người tiều phu đã già, tuổi quá sáu mươi nên khi hỏi đường, gã đạo sĩ phải lột nón xuống. Nhờ vậy mà chúng ta nhận ra chàng trai số mạng xui xẻo đất Hứa Xương, dù dung mạo kia đã khác đi nhiều?
Lý do là vì Tử Khuê đã nặng hơn xưa đến ba chục cân. Món mặn luôn hơn món chay, nếu không thì thiên hạ đã đi tu cả. Suốt mấy tháng qua, ngày nào Tử Khuê cũng ăn toàn sơn hào hải vị, vừa thơm ngon vừa bổ dưỡng nên tăng trọng rất nhanh. Chàng ăn vì khoái khẩu và cũng vì muốn làm vui lòng từ mẫu. Kỹ nương đã đích thân xuống bếp trổ tài thánh thủ nên Tử Khuê phải ăn cho hết. Quách lão cũng luôn miệng ép con trai ăn thật nhiều để bủ đắp cho ba năm chay tịnh, kiêng khem. Ông quan niệm rằng với chiều cao hiện nay thì Tử Khuê quá gầy.
Riêng Kỹ nương thì còn một lý do khác. Sau lần bán “Tỵ Lôi thần châu“ cho Minh chủ Võ lâm Âu Dương Mẫn, bà càng chú trọng đến việc ăn uống của ái tử. Bà hiểu rằng khi Tử Khuê mập lên mấy chục cân và có một gương mặt đầy râu thì Âu Dương Mẫn sẽ khó nhận ra vì chỉ gặp gỡ một lần. Trong quyển y lão Cửu Hoa Thánh Y có sẵn toa thuốc mọc râu vô cùng thần hiệu.
Bởi thế cho nên giờ đây gương mặt Tử Khuê đầy đặn, phương phi và râu thì phủ kín nửa mặt, bó cằm trông rất oai võ.
Do yêu cầu của Trung Thiên Tôn nên hôm nay Tử Khuê mới mặc lại đạo bào. Còn sau này, khi cần chàng có thể dùng võ phục và mang cái lai lịch Hàn Thiếu Lăng, hai mươi bảy tuổi, quê quán Tuần Châu, một huyện thuộc phủ Hứa Xương.
Hàn Thiếu Lăng thực là một gã lính lệ trong dinh Tổng binh Quách Tử Xuyên, biểu đệ của Tử Khuê. Nguồn cơn là vậy , giờ chúng ta quay lại La Sơn để xem Quách Tử Khuê rơi vào cảnh ngộ như thế nào.
Chàng nghe lời chỉ dẫn của lão tiều phu , theo đường sơn đạo cách đấy vài chục trượng mà lên núi. Trung Thiên động nằm trên một bình đài cao gần trăm trượng, lưng chừng núi La Sơn. Ngựa vốn có bốn chân song không thể leo núi được, Tử Khuê đành phải gởi lại nhà lão tiều phu.
Lên đến nơi, Tử Khuê chỉ thấy một vùng toàn hoa cỏ ngào ngạt sắc hương và chẳng hề có bóng dáng nhà cửa, mút tầm mắt cũng chỉ có một màu xanh mơn mởn của loài Mộc cẩn. Có lẽ Trung Thiên động nằm ở chân vách đá, phía sau hàng rào Mộc cẩn nọ?
Mộc cẩn còn có tên là cây vông vang, chị em ruột với hai loài dâm bụt và phù dung, loài cây bụi nhỏ hoặc thân gỗ nhỏ thuộc họ cẩm quỳ.
Mộc cẩn là loài thân gỗ cao từ hai đến sáu thước, cánh nhỏ màu xám nâu, vỏ dai, khó gãy. Lá hình trứng hoặc hình trứng xẻ thùy, hoa đơn
có màu tím, trắng, đỏ, tím nhạt. Kỳ hoa rất dài, năm đến mười tháng hoa nở liên miên, sáng nở tối tàn nên còn có tên “Hoa sáng nở chiều tàn “từ đầu Hạ đến tận tiết Sương giáng, ngày nào hoa cũng nở .
Bởi vậy, người ta gọi nó là loài cây hoa “Nở không dứt, bứt không hết”. Trong lúc các loài hoa khác đã thưa thớt thì Mộc cẩn lại nở rộ, sắc màu rực rỡ. Hoa Mộc cẩn dạng như cái bát, giống hoa phù dung, vỏ lại giống cây đay, vì thế còn gọi là “đay hoa bát“ hoặc “đay phù dung“!
“Đoạn mô tả lê thê trên dành cho những độ giả có vợ mê phim Hàn Quốc, người Triều Tiên trồng loài cây hoa này ở khắp nơi, xem nó là tượng trưng của sự xinh đẹp và hạnh phúc vĩnh hằng, ca tụng nó như quốc hoa của Triều Tiên”.
Còn trong bộ truyện này, Mộc cẩn chính là chiêu bài của Trung Thiên Tôn Trần Ninh Tĩnh lúc vừa xuất đạo giang hồ. Hơn sáu mươi năm trước, họ Trần tự xưng là Mộc Cẩn Tú Sĩ. Nhờ võ công tuyệt thế, danh hiệu ấy mau chóng lẫy lừng Trung Thổ. Song người đời lại lén gièm pha rằng Trần Ninh Tĩnh hơi thiếu chất đàn ông. Họ Trần chuộng những bộ y phục có màu tím hoặc tím nhạt, tính tình lại bất thường, sáng nắng chiều mưa.
Trần Ninh Tĩnh nghe được lời đàm tiếu ấy liền chứng minh phẩm chất đại trượng phu bằng cách lấy lúc hai người vợ. Và trong ba năm có liền sáu đứa con.
Nhưng sau đó, thê tử của lão bị bọn ác ma giết sạch. Báo thù xong thì đầu họ Trần đã bạc và được đời xếp vào hàng ngũ “Võ lâm tam tôn“.
Thanh danh chẳng thể khiến Trần Ninh Tĩnh bớt chán đời, lão trở thành đạo sĩ, chọn La Sơn làm chốn tu tiên.
Gốc gác, lai lịch của Trung Thiên Tôn thì Tử Khuê chẳng lạ, chàng đã từng được nghe ân sư kể lại. Chàng chỉ tự hỏi rằng sau mấy chục năm tu hành liệu tính nết lão ta có còn cổ quái, nóng nảy như xưa hay không? Và chàng sẽ phải làm gì để đổi lấy tự do cho Thiết Đảm Hồng Nhan Tống Thụy?
Rút kinh nghiệm của cô ả liều mạng họ Tống, Tử Khuê chẳng dám hái hoa bắt bướm từng bước thận trọng tiến vào. Đến trước hàng Mộc cẩn rậm rạp, chàng dừng chân vận công gọi lớn:
-Đệ tử là Vu Diệp, từ Nghiệp thành đến xin cầu kiến Trần tiền bối.
Từ trong vọng ra tiếng người già nua:
-Mời vào!
Tử Khuê mừng rỡ tiến lên. Nhưng khi vừa vượt qua hàng cây đầu tiên, chàng lập tức rơi vào một biển sương mù dày đặc, chẳng còn thấy được gì nữa. Tử Khuê thất kinh hồn vía, hiểu rằng đã lọt vào một trận kỳ môn.
Chàng hoang mang thét lên:
-Mong tiền bối chỉ giáo cách qua trận.
Trung Thiên Tôn cười nhạt đáp:
-Đúng là đồ bị thịt. Chỉ một trận thế “Điên đảo ngũ hành“ mà cũng không biết. Tiến ngũ, tả tam, tiến tam, hữu ngũ!
Tử Khuê nói lời cảm tạ rồi bước theo thứ tự ấy, lát sau vào đến khoảng đất trống trước cửa một thạch động ở chân vách đá.
Trung Thiên Tôn đứng chắn cửa động, tay xách bầu rượu, tay cầm vật gì đấy đưa lên miệng gặm. Tử Khuê chưa kịp thi lễ thì phát hiện ngực áo đạo bào trắng của Trần lão bê bết máu tươi và cái khúc dài dài mà lão đang cắn chính là mốt đoạn cẳng tay người đủ năm ngón dài, trắng trẻo. Chàng rùng mình, rợn tóc gáy, sợ đến mức tứ chi bủn rủn, chẳng nói nên lời và không tin vào mắt mình.
Trong lúc ấy, Trung Thiên Tôn lộ nét hân hoan, quẳng khúc xương cẳng tay đi và cười khanh khách:
- Ái chà! Thằng bé này to béo thực. Chắc ta phải xẻ thịt ướp muối mà ăn từ từ chứ không thể chén sạch ngay trong một ngày được.
Cái miệng rộng và hàm răng trắng nhỡn của lão cũng đầy máu tươi, trông rất đáng sợ.
Tử Khuê thôi dụi mắt, hiểu rằng Trung Thiên Tôn đã hóa thành quái vật ăn thịt đồng loại. Và có lẽ nạn nhân đầu tiên của lão chính là Thiết Đảm Hồng Nhan Tống Thụy. Trong tiềm thức người đàn ông, mỹ nhân luôn là một cái gì yếu đuối, mỏng manh cần được bảo vệ. Từ cổ chí kim, nữ nhân và bọn nhi đồng là hai đối tượng mà người hiệp sĩ phải bênh vực giúp đỡ.
Nay nghĩ đến cảnh Tống Thụy bị ăn tươi nuốt sống, Tử Khuê vô cùng thương xót và bất giác nổi cơn thịnh nộ. Chàng chẳng còn màng đến sinh tử, quyết liều thân giết lão ác ma.
Tử Khuê trợn mắt rống vang trời, rút kiếm xông đến, dồn hết lòng căm hận vào chiêu “Kiếm quải thu phong“.
Cái tên đầy thi vị ấy không biểu hiện được hết nội dung chiêu thức. Kiếm kình chẳng hề nhu hòa, hây hây như gió thu mà rít lên rợn người, xé nát không gian. Còn kiếm quang thì chớp loang loáng dưới nắng xuân, sát khí bức người.
Trung Thiên Tôn biến sắc trước chiêu kiếm tuyệt luân, định thần múa tít bầu rượu trên tay để chống đỡ. Quả là danh bất hư truyền, chiếc bầu rượu dài hơn gang kia lập tức tạo nên một bức tường kiên cố và kín đáo, đón lấy đạo kiếm quang vũ bão của đối phương.
Khi hai loại vũ khí chạm nhau, tiếng thép ngân lên oang oang, chứng tỏ bầu rượu được Trung Thiên Tôn làm bằng kim loại và khá dày.
Bảo kiếm của Tử Khuê bị chấn động mãnh liệt vì công lực của lão quái thai họ Trần thâm hậu hơn chàng gấp bội.
Cảm giác đau rát ở hộ khẩu đã làm cho Tử Khuê tỉnh táo lại. Chàng thức ngộ rằng chẳng thể dùng sức mà thắng đối phương.
Tử Khuê liền cố tĩnh tâm thi triển yếu quyết “Nhược liễu tùy phong“, đường kiếm mềm mại, nhu hòa song cực kỳ nhanh và hiểm ác. Mũi kiếm của chàng bám chặt lấy cổ tay cầm bầu rượu của Trung Thiên Tôn chẳng chịu rời, khiến lão nhất thời lúng túng như gà mắc tóc. Và thỉnh thoảng, Tử Khuê điểm những nhát thần tốc làm cho lão ta phải rụng rời, mau mau thoái hậu hoặc nghiêng mình né tránh.
Trung Thiên Tôn bực bội tăng thêm lực đạo, đánh những đòn nặng như núi đổ, bầu rượu bay vun vút tựa dải lụa đen mờ. Lúc ấy, Tử Khuê khôn ngoan hoán vị tránh chiêu và lựa thế mà phản kích.
“Tránh voi chẳng xấu mặt nào“ và trường kiếm vốn dĩ mỏng manh, nhẹ nhàng, không phải loại vũ khí chủ về lực đạo. Trong trường hợp này, Tử Khuê có ưu thế về chiều dài binh khí nên những đòn phản công của chàng rất đáng sợ. Tất nhiên phải kể đến tài nghệ cũng như bản chất của pho “Thanh Long kiếm pháp“.
Tử Khuê có đến mười hai năm khổ luyện võ nghệ, lần lượt do Kỹ nương rồi Vu Mộng chân nhân dạy dỗ thành tựu, kiếm thuật của chàng cao hơn quyền chưởng vì được sự hỗ trợ của “Thao Quang thần thức“. Với khả năng phát xạ tia chân khí để điểm huyệt và nhũng chiêu thức chuyên biệt dành cho tay tả, chàng đã trở thành một trong những kiếm thủ hiếm hoi sữ dụng cả hai tay.
Hôm nay trong hoàn cảnh thập tử nhất sinh này, Tử Khuê phải dốc hết vốn liếng ra mà chiến đấu. Ít phút sau, Tử Khuê phiên thân tránh một đòn cuồng nộ của Trung Thiên Tôn rồi phản công bằng chiêu “Nguyệt phùng thiên lý“ (Bóng trăng dập dờn ngàn dặm). Từ khoảng cách hơn trượng, Tử Khuê ẩn mình trong kiếm quang, thân ảnh chập chờn trôi nổi, ập vào đối thủ.
Khi chạm mặt nhau, trường kiếm của Tử Khuê thọc nhanh hàng trăm thế, dồn dập tựa mưa sa, phong tỏa đường chùy của kẻ địch. Chiếc bầu rượu bằng thép ròng của Trung Thiên Tôn được sử dụng như một loại chùy cán ngắn. Và chàng bất ngờ vươn tả thủ xạ liền hai tia chân khí vào song nhãn Trần lão quái.
Tử Khuê chọn mắt làm mục tiêu vì biết Trung Thiên Tôn có hơn hoa giáp công lực, lớp cưong khí hộ thân rất dày, chỉ có đôi mắt là yếu nhất.
Nhưng Trần Ninh Tĩnh là bậc kỳ nhân quán thế, chẳng dễ thất cơ trước một kẻ hậu sinh. Lão hoàn toàn bị bất ngờ trước đòn ám tập song vẫn kịp lách người né tránh nên chỉ có vầng tráng rộng đầy nếp nhăn trúng đòn và hơi đau đớn.
Tuy nhiên, việc này cũng khiến cho Trung Thiên Tôn hoảng vía. Lão không ngờ một chàng trai trẻ măng lại sở đắc thủ pháp “Cương ty phất huyệt“ thất truyền.
Trần lão quỷ vừa chống đỡ những chiêu kế tiếp của Tử Khuê vừa thét lên, gọi ơi ới:
-Cha chả! Tiểu tử này lợi hại thực! Đồ đệ mau mang kiếm ra cho sư phụ thì mới mong có thịt mà ăn.
Tử Khuê giật mình lo ngại vì hiểu rằng nếu có thêm học trò của Trung Thiên Tôn nữa thì chàng khó mà thoát chết, đừng nói đến việc giết lão ta.
Nhưng may thay, tên đồ đệ của Thiên Tôn không xuất hiện mà chỉ từ trong hang đá tối tăm kia ném kiếm ra ngoài cho sư phụ.
Trần Ninh Tĩnh quét mạnh một đường chùy, đẩy lùi Tử Khuê rồi vươn tay tả chụp lấy bảo kiếm.
Lão ném bầu rượu xuống bãi cỏ, vung kiếm thị uy và cười khà khà:
-Này con trâu nước rậm lông kia! Lúc nãy lão phu không có kiếm trong tay nên ngươi mới được dịp sính cường. Giờ thì ngươi đừng hòng ra oai nữa.
Dứt lời,Trung Thiên Tôn lướt tới tấn công ngay. Lạ thay, kiếm pháp của lão hiền hòa quảng đại chứ chẳng hề hung hãn.
Tử Khuê đã nghe tôn sư kể lại rằng sở trường của Trần lão là kiếm thuật nên càng ngao ngán, thận trọng đón chiêu và chỉ sau gần khắc, chàng biết ngay mình chẳng phải là đối thủ, khi mất ưu thế về vũ khí.
Đường kiếm của Trung Thiên Tôn nhẹ nhàng, lưu loát tựa nước chảy mây trôi nhưng biến ảo vô song và cực kỳ hùng hậu. Nghĩa là lão đã đạt đến cảnh giới thượng thừa tùy tâm nhi phát, thuận tay mà đánh.
Nhìn nụ cười ngạo nghễ và ánh mắt giễu cợt của đối phương, lòng Tử Khuê rực cháy niềm bi phẫn. Chàng quên cả lời giáo huấn của ân sư và từ mẫu, nghiến răng xuất chiêu “Hoàng thiên bất tiếu “, chiêu đầu tiên trong pho “Oán Thiên kiếm pháp“. Trong mấy tháng ở nhà, Tử Khuê đã ráo riết luyện tập và đạt đến mức tinh túy của hai chiêu đầu.
“Oán Thiên kiếm pháp“ độc ác phi thường vì nó đem máu của người thi triển đổi lấy máu hoặc mạng kẻ thù. Và nó xảo quyệt ở chỗ dùng hàng trăm thế thức đẩy đưa xếp đặt, từng bước, cuối cùng bắt buộc đối phương phải tấn công vào chỗ sơ hở đã lộ ra. Nạn nhân sẽ mắc bẫy, hân hoan hạ thủ và trúng đòn ở một vị trí ác nghiệt hơn.
Giờ đây, Trung Thiên Tôn cũng bị chiêu thức quái dị kia lường gạt . Đang chạm kiếm, lão chợt nhận ra rằng mình chỉ cần vươn tay là dễ dàng đâm thủng huyệt Thái Ất trên bụng trái đối phương. Nhưng chẳng hiểu sao lão quái vật ăn thịt người ấy lại bỏ qua và lập tức thoái hậu. Nhờ vậy, lão tránh được việc thủng yết hầu bởi một nhát gươm kín đáo của Tử Khuê.
Da cổ mát lạnh vì hơi thép quá gần, Trung Thiên Tôn rợn da gà quát lớn:
-Thì ra là “Oán Thiên kiếm pháp“. May mà bần đạo chẳng có ác ý với ngươi, nếu không thì đã toi mạng rồi.
Tử Khuê đang say máu, chẳng để ý đến câu nói ấy, tiếp tục xông đến xuất chiêu thứ hai là “Tặc Thiên Manh Nhãn “
Kiếm thuật ảnh hưởng rất lớn đến tính cách của người kiếm sĩ nên lúc này ánh mắt của Tử Khuê tràn ngập sát khí, đôi môi mím chặt khiến nét mặt trở nên tàn nhẫn, ác độc.
Trung Thiên Tôn hoảng vía bỏ chạy la bải hải:
-Thụy nhi mau ra đây! Tiểu tử này nổi điên rối!
Từ trong hang, một nữ nhân áo hồng lao vút ra chặn đường Tử Khuê, mỉm cười :
- Xin đạo huynh bớt cơn thịnh nộ. Tiểu muội là Tống Thụy đây. Việc gia sư ăn thịt người chỉ là trò đùa thôi.
Trong lúc Tử Khuê còn bàng hoàng, ngơ ngác thì Trung Thiên Tôn quay lại, đưa cho chàng xem cái cẳng tay người mà lão quăng đi lúc nãy. Trấn Ninh Tĩnh cười khanh khách bảo:
- Nó bằng gỗ ngô đồng đấy, đồ ngốc ạ. Còn máu trên miệng và áo bần đạo là mực son.
Tử Khuê hiểu ra, ngượng ngùng ấp úng:
-Nhưng sao tiền bối lại bày trò chọc ghẹo vãn bối làm gì?
Thiên Tôn vỗ vai chàng, nheo mắt tinh quái:
- Phải khích cho ngươi bừng lửa giận thì bần đạo mới có thể biết được chân bản lĩnh chứ.
oOo
Cuối thượng tuần tháng tư, Tử Khuê và Thiết Đảm Hồng Nhan TốngThụy rời La Sơn. Trong hơn tháng qua, Trung Thiên Tôn ra sức tài bồi kiếm thuật cho Tử Khuê.
Khác với Vu Mộc Chân Nhân, sở trường của Trần Ninh Tĩnh là nghề đánh kiếm. Ông luyện kiếm đã gần tám mươi năm, tiến đến cảnh giới thượng thừa của kiếm đạo. Có thể nói rằng Vu Mộc Chân Nhân là ma quyền thuật còn Trung Thiên Tôn chính thị bậc kiếm vương.
Ông không dạy Tử Khuê kiếm chiêu mà chỉ giảng giải về cái thần khí của kiếm thuật, tức là lẽ biến hóa. Yếu quyết này cực kỳ vi diệu, cao siêu, chỉ những bậc đại trí tuệ, bẩm sinh ngộ tính thượng đẳng mới có thể hiểu được.
Trung Thiên Tôn đã sớm thu Tống Thụy làm đệ tử và truyền thụ yếu quyết này. Nhưng tiếc thay, nàng chỉ thuộc hàng tiểu thông minh nên không thể tiếp thu được. Nay thấy Tử Khuê dễ dàng hiểu thấu những điều mà mình mù tịt thì Tống Thụy vô cùng thán phục. Và vì nàng là một nữ nhân mang bản chất nam nhi nên không hề ganh ghét, đố kỵ.
Được thụ giáo bậc kỳ nhân, Tử Khuê vô cùng phấn khởi, vui vẻ gánh vác sứ mạng mà Trung Thiên Tôn giao cho. Chàng sẽ phải so tài với hai truyền nhân của Bắc Thiên Tôn và Nam Thiên Tôn vào ngày rằm tháng mười sang năm. Tử Khuê đã có sư phụ nên không thể gọi Trung Thiên Tôn là thầy. Chàng bèn lạy chín lạy, xưng nghĩa tử. Với danh phận ấy, chàng mới được quyền đại diện Trần Ninh Tĩnh.
Mối duyên phụ tử này do Tử Khuê tự nguyện đề xuất vì Trung Thiên Tôn đã có ý định bỏ cuộc phó ước giữa tam tôn. Ông là bậc Chân Nhân đạt đạo, chẳng còn xem trọng hư danh nữa. Ông dạy kiếm đạo thượng thừa cho Tử Khuê là vì không muốn tâm huyết một đời bị mai một, thất truyền.
Nhưng khi tình cờ nghe Tống Thụy kể lại cái hẹn rằm tháng mười, Tử Khuê cho rằng mình có nghĩa vụ phải thành toàn ý nguyện nhỏ nhoi ấy để đáp đền ơn truyền tuyệt học.
Trung Thiên Tôn rất ngạc nhiên và vô cùng cao hứng khi cuối đời có được đứa con nuôi thông tuệ, khôi ngô, cốt cách anh hùng cái thế.
Lúc này, Tử Khuê mới khai rõ lai lịch, tính danh, tuổi tác thực. Thời gian qua, Thiên Tôn không hỏi nên chàng không có dịp nói ra. Và khi Tử Khuê định gọi Tống Thụy là sư tỷ thì Trần lão không cho. Ông cười mát bảo:
- Ngươi đúng là một ngốc tử. Ta lớn hơn lão Tống Nhiên mấy chục tuổi thì ngươi phải ở vai anh mới hợp đạo lý. Hai là, nữ nhân chẳng bao giờ muốn được gọi bằng chị, nghe già nua lằm. Hãy cứ để Thụy nhi xưng tuổi muội như cũ hay hơn.
Rồi lão nheo mắt hỏi Thiết Đảm Hồng Nhan:
- Sư phụ quyết định như thế có đúng ý con không hở?
Tống Thụy cố tỏ vẻ thản nhiên song ánh mắt không giấu được nỗi thẹn thùng. Nàng giả vờ hờ hững đáp xuôi:
- Đồ nhi đã quen phận làm em, chẳng cần phải thay đổi nữa.
Và nàng ôm quyền vái:
- Tiểu muội vui mừng có được một sư huynh như Quách công tử.
Tử Khuê lúng túng đáp lễ:
- Ngu huynh trẻ người non dạ,quả không xứng làm anh. Nhưng oan gia đã dạy thế thì mong rằng sư muội đừng buồn. Sau này, ngu huynh còn phải học hỏi sư muội rất nhiều.
Tống Thụy chưa kịp nói vài lời khiêm tốn thì Trung Thiên Tôn đã cười ha hả, cao hứng bảo:
Đúng thế! Đúng thế! Sau này Thụy nhi phải luôn sát cánh với Khuê nhi mà hành hiệp. Giang hồ hung hiểm tuyệt luân, xảo quyệt khôn lường, nếu để một mình gã vừa ngây thơ vừa xui xẻo đi một mình thì lòng già này chẳng yên tâm.
Nói xong, ông nháy mắt với Tông Thụy, hàm ý tác thành duyên nợ cho đôi trẻ.
Thiết Đảm Hồng Nhan hiểu ý ân sư, lòng ngập tràn nỗi xuyến xao và bối rối. Dẫu biết rằng phận nữ nhi là phải xuất giá, nhưng bao năm qua trái tim này vẫn chưa hề rung động mãnh liệt trước một nam nhân nào. Ngay cả đối với Tử Khuê cũng vậy, sau gần tháng tiếp cận, nàng chỉ thấy mến mà thôi. Phải chăng tình yêu cần có thời gian để đơm hoa kết trái? Nàng mến Tử Khuê hơn bất cứ nam nhân nào đã từng gặp nên hy vọng rằng sẽ yêu được chàng.
Ý nguyện này xem ra có cơ hội thành tựu, lúc hai người xuống núi thì tình cảm của Tống Thụy dành cho Tử Khuê đã thắm đượm hơn môt bậc. Nhưng nếu gọi là yêu thì chưa hẳn.
Giờ đây, đôi trai gái đồng hành trên đường thiên lý, lòng ngổn ngang những cảm giác mơ hồ, chẳn thể xác định được.
Trong tình yêu, nam nhân không tinh tế, nhạy cảm bằng nữ nhân. Họ thường hồ đồ, thiếu sáng suốt, chẳng hiểu rõ lòng mình cũng như lòng bạn gái. Có nhiều chàng trai ngốc đến nỗi khi mất nhau rồi mới biết mình đã yêu tha thiết.
Nhưng tục ngữ có câu: “Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén“. Chúng ta cứ để thời gian và hoàn cảnh làm cônng việc của mình. Giờ chúng ta sẽ bám theo đôi nam thanh nữ tú ấy, trên con đường ngàn dặm từ La Sơn đến Nghiệp thành.
Trước tiên, họ phải qua Tín Dương ở phía tây La Sơn. Sau đó đi chếch hướng tây bắc để đến Nam Dương và từ Nam Dương họ sẽ thẳng đường về đất Nghiệp.
Cuối tháng tư, Tử Khuê và Tống Thụy có mặt trong thành Nam Dương ghé vào Bạch Hà đại tửu lâu dùng bữa trưa. Sông Bạch Hà chảy qua mạn hướng Đông Thành, là một bộ phận gắn liền vời đất Nam Dương, nên tên của nó được nhiểu lâu quán ưa chuộng. Đối diện Bạch Hà đại tửu lâu còn có Bạch Hà đại lữ điếm, Bạch Hà lạp vị gia.
Ở vùng Hoa Trung, bốn mùa rõ rệt, Hạ về đúng hẹn nên nắng vàng chói chang và hoa lựu nở khắp nơi, rực rỡ ánh hồng.
Tầng trệt của Bạch Hà đại tửu lâu đông nghẹt thực khách vì dưới này mát mẻ hơn lầu trên, và người ta có thể vừa ăn nhậu vừa ngắm cảnh vườn hoa xung quanh qua những khung cửa sổ rộng.
Trưa nay, trong tầng dưới tửu lâu có khá đông khách võ lâm, chứng tỏ rằng Nam Dương đã xảy ra một biến cố lớn hoặc một đám gì đó. Người Trung Hoa rất hào sảng, rộng rãi và thích ồn ào. Dẫu đám ma, đám cưới, đám giỗ, đám thượng thọ, họ cũng cố tổ chức ăn nhậu và mời mọc khắp nơi, tuy chỉ có một chút dây mơ rễ má hoặc sơ giao.
Người được mời không thể không đi và sau này có dịp thì mời lại. Kết quả là mỗi năm họ phải đi dự hàng chục, hàng trăm đám tiệc vừa tốn kém ngân lượng vừa mất thời giờ. Giàu thì không sao, chỉ tội cho những người nghèo mà có chút thanh danh ở địa phương, văn võ gì cũng vậy. Nhiều khi vợ con đói meo mà một vị tú tài hay ngài đại hiệp nào đó phải cầm cố, vay mượn để có tiền đi đám.
Tử Khuê và Tống Thụy vào đến một bàn trống, cạnh tường Đông, lột nón rộng vành và an tọa. Lúc này, bọn hào khách trong quán mới nhận ra Thiết Đảm Hồng Nhan Tống Thụy. Có nhiếu người quen biết nàng, khấp khởi mừng, song không vội hô hoán. Họ khá bỡ ngỡ khi thấy nàng nữ liều mạng kia đồng hành với một Hán tử râu ria, oai võ, thân thể cao to. Tống Thụy tính tình cởi mở, quảng giao nhưng ít khi đi chung với nam nhân.
Nhưng có một kẻ hoặc đã hơi say hoặc vì quá ái mộ Thiết Đảm Hồng Nhan nên không thể nén lòng, lập tức đứng lên bước đến chào hỏi.
Đấy là một nam nhân tuổi độ hai mươi bảy, hai mươi tám, người mảnh khảnh, tầm vóc trung bình, mặc trường bào gấm màu nâu, hông mang kiếm, tay cầm quạt lụa…
Trông ra dáng một kẻ xuất thân kim ốc. Dung mạo khá anh tuấn dù cằm hơi lém và mắt hơi lớn, điểm chút nữ tính.
Gã là kẻ có thanh danh chốn võ lâm nên phong thái không khỏi có phần tự mãn. Lư Công Đán là ái tử duy nhất của Lư Tài Thần đất Dụ Châu, nằm giữa Nam Dương và Nghiệp thành. Gã còn là đệ tử tục gia ưu tú của phái Hoa Sơn, võ nghệ cao cường hai mươi tuổi đã nổi danh Tây Nhạc Kiếm Khách.
Giới cao thủ lớp trẻ đương đại có năm người xuất sắc, được giang hồ võ lâm gọi là “Võ lâm Ngũ Tú“. Tây Nhạc Kiếm Khách Lư Công Đán ở trong số ấy.
Ngũ Tú gồm: Võ Đương Thần Kiếm Mộ Duy Lộ, Nga Mi Nhất Kiếm Lạc Y Thường, Tây Nhạc Kiếm Khách Lư Công Đán, Đông Nhạc Tiên Hồ Dịch Tái Vân, Thiếu Lâm Thần Côn Lã Hoa Dương.
Cách xếp đặt thứ tự trên chẳng phải dựa vào bản lĩnh võ công, những người này chưa hề tỷ thí với nhau.
Trở lại với Lư Công Đán, ta sẽ thấy gã hớn hở ôm quyền thi lễ và ngọt ngào nói với Thiết Đảm Hồng Nhan:
- Tống cô nương! Đã hơn năm trời cách biệt, lòng tại hạ xiết bao nhung nhớ. Nay tình cờ được tái ngộ cố nhân, Lư mỗ cao hứng phi thường. Các huynh đệ Hà Nam cũng nóng lòng muốn được cùng Thiết Đảm Hồng Nhan uống chén tương phùng, nên cử tại hạ qua đây mời Tống cô nương và vị đại huynh này sang bàn bên ấy.
Rồi gã vái Tử Khuê, tươi cười bảo:
- Tiểu đệ là Lư Công Đán, bằng hữu của Tống nữ hiệp, xin đại huynh chớ ngại.
Tử Khuê bị bộ râu rậm rì làm cho già đi nên dung mạo trông như đã gần ba mươi. Do đó, Lư Công Đán mới gọi chàng là anh và xưng tiểu đệ. Việc này khiến Tử Khuê rất ngượng ngùng, lúng túng đáp:
- Tại hạ họ Hàn, tên Thiếu Lăng. Xinh cảm tạ Lư thiếu hiệp đã có lời mời mọc nhưng việc này…
Chàng chưa dứt lời thì Tống Thụy xem vào, nàng ôn tồn bảo họ Lư:
- Lư huynh cứ về bàn trước đi. Tiểu muội ăn vài chén với Hàn sư huynh xong sẽ sang cùng chư vị đối ẩm. Đói bụng thì uống rượu sẽ mau say.
Lư Công Đán lộ vẻ kinh ngạc:
- Té ra Hàn đại huynh đây là sư ca của cô nương đấy sao? Lư mỗ thật là thất lễ.
Gã đi rồi, Tử Khuê dịu giọng bảo Tống Thụy:
- Sư muội không cần phải ăn chung với ta, cứ sang với họ đi!
Và chàng mỉm cười:
- Sư muội chớ nên phụ lòng ưu ái của Lư công tử. Ta đoán rằng gã đã say mê muội từ lâu rồi.
Tuy làm ra vẻ thản nhiên song trong thâm tâm Tử Khuê lại rối bời một cảm giác khó gọi tên. Chàn thầm mong Thiết Đảm Hồng Nhan sẽ không sang với Tây Nhạc Kiếm Khách mà ở lại với mình.
Tống Thụy nhìn sâu vào mắt chàng, điềm đạm đáp:
- Cố tri tái hội tất phải uống vài chén tương ngộ. Hơn nữa, bọn họ hầu hết đều quen biết với tiểu muội chứ chẳng phải mình Lư Công Đán. Nhưng nếu sư huynh không muốn dồn bàn với họ thì tiểu muội cũng đành chờ dịp khác vậy.
Tử Khuê nghe câu nói tế nhị hợp tình hợp lý ấy thì đâm ra hổ thẹn. Chàng tự trách mình:
- Bậc trương phu sao lại có thể hẹp hòi như thế được? Dẫu ta và Tống tiểu thư đã là một đôi tình lữ thì cũng không thể cấm nàng vui với bạn bè, huống hồ song phương chẳng có một mối dây luyến ái.
Nghĩ thế nên lòng chàng thanh thản lại, cười rất tươi:
- Ta cũng muốn cùng sư muội sang đấy cho vui song chỉ sợ làm họ mất tự nhiên.
Tống Thụy rất hài lòng, dịu dàng nói:
- Bọn họ đều hào sảng, khoáng đạt, hảo tửu, tất sẽ rất vui khi có mặt sư huynh. Chúng ta đi thôi.
Hai người thu nhặt tay nải và nón tre, bước về phía khu vực trung tâm tửu quán, nơi bọn Lư Công Đán đã bày tiệc mới.
Bàn bát tiên thường có mặt hình vuông, chân hơi cong. Nhưng ở các lâu quán, bốn chân bàn được làm rất thẳng để khi cần có thể ghép nhiều bàn lại với nhau.
Giờ đây sáu chiếc bàn kề vai sát cánh, thừa chỗ cho hai chục người ngồi quanh. Chén đũa, thức ăn đều mới dọn lên, nghi ngút khói và thơm ngậy. Bọn Lư Công Đán hân hoan đứng cả dậy đón chào cố hữu.
Thiết Đảm Hồng Nhan là bậc anh hùng trong giới quần thoa, tính tình cương nghị, sảng khoái như đàn ông, nhưng ngôn từ, cử chỉ lại chẳng kém phần thùy mị, tinh tế.
Về nhan sắc thì Tống Thụy xứng danh mỹ nữ, mắt bồ câu đen lay láy, mũi dọc dừa thẳng tắp môi anh đào mong mỏng có đường viền gọn ghẽ. Bình thường, gương mặt trái xoan kiều diễm ấy hơi phảng phất nét buồn. Nhưng khi nàng cười thì dung nhan rực rỡ khách thường và làm say đắm lòng người. Răng nàng không đều, có một hai chiếc răng khểnh, song chẳng hiểu sao những nụ cười hồn nhiên kia lại có nội lực mê hồn đến thế?
Cho nên không chỉ Lư Công Đán mà khá nhiều nam nhân hiện diện ái mộ Tống Thụy. Sau một thời gian tiếp cận họ đều thất vọng, bỏ cuộc vì hiểu rằng trái tim nàng xa lạ với tình yêu nam nữ. Nàng chỉ xem họ như những hảo bằng hữu trên chốn giang hồ, có thể cùng nhau hàn huyên và uống rượu giải khuây, hoặc sánh vai đối phó với kẻ thù nào đó.
Tuy từ bỏ ước mơ giai ngẫu song những người ấy rất vui khi gặp Tống Thụy. Họ hân hoan cười nói, đón chào và bắt cố nhân phải cạn chén trùng phùng.
Tử lượng của Tống Thụy khá cao, dẫu uống nhiều mặt hoa cũng chỉ phớt hồng chứ không đỏ rực. Nhưng dầu sao nàng cũng là nữ nhân được bọn đàn ông khoan nhượng không ép uổng.
Riêng đối với Tử Khuê thì khác, chàng phải cạn liên mười tám chung với những kẻ mới quen. Uống xong, sắc diện Tử Khuê chỉ hơi tái đi và vẫn hoàn toàn tỉnh táo, khiến bọn hào khác Hà Nam phục lăn.
Trong bàn ăn nhậu, kẻ có tửu lượng cao cường, phong thái trầm tĩnh thư thái vui vẻ rất dễ tạo được hảo cảm. Vì vậy, dẫu Tử Khuê chỉ mỉm cười và nốc rược mà vẫn được mếm mộ.
Chàng thực lòng cao hứng khi tham gia bữa tiệc này chứ không hề gượng ép. Điều ấy đã khiến cho Tống Thụy rất vui, nhìn chàng với ánh mắt cảm kích. Nếu chàng khách sáo hoặc ngượng ngùng thì nàng sẽ mất mặt với bạn bè cũ.
Sau vài tuần rượu, Thiết Đảm Hồng Nhan dò hỏi:
- Lư huynh! Vì sao chu vị lại tề tựu ở đây đông đủ như vậy?
Lư Công Đán nhướng mày, làm ra vẻ quan trọng:
- Thụy muội không biết gì sao? Tại phủ Nam Dương sắp xảy ra cuộc chiến khốc liệt để tranh giành vật chi bảo của võ lâm là cây “Diêm Vương Quỷ Kỳ“. Vật ấy hiện ở trong tay một thổ hào đất Bảo Bình, cách Nam Dương hai chục dặm về phía Tây.
Thiết Đảm Hồng Nhan cau đôi mày liễu chẳng hề được tỉa tót, tô vẽ mà vẫn xanh đen, hỏi lại:
- Lư huynh! Cây “Diêm Vương Quỷ Kỳ“ ấy quý giá ở chỗ nào?
Lư Công Đán đắc ý kể lể:
- Theo truyền thuyết của võ lâm thì vào thời đầu Nam Tống, cách nay hơn ba trăm năm, giang hồ xuất hiện một đại ác ma là Quỷ Chân Nhân Đơn Ngạn Hòa. Lão ta chỉ có mười đệ tử nhưng đã trở thành tai họa khủng khiếp nhất cho võ lâm và bách tính. Quỷ Chân Nhân đã đánh cướp hàng trăm nhà đại phú ở cả hai vùng lãnh thổ Nam Tống và nước Kim. Số nạn nhân của lão lên đến hàng ngàn, cả dân thường lẫn khách giang hồ và quan quân.
Quỷ Chân Nhân có thể hoành hành bá đạo như vậy là nhờ có cây “Diêm Vương Quỷ Kỳ“. Cây cờ này ban đêm sai khiến được âm binh, tạo ra những luồng quái phong làm tê liệt bất cứ ai chạm phải. Ban ngày thì tác dụng kém đi, quái phong chỉ công hiệu trong bán kính hơn trượng. Song như thế cũng quá đủ để Quỷ Chân Nhân Đơn Ngạn Hòa thành kẻ bất bại.
Cuối cùng, tổ sư phái Toàn Chân là Vương Trùng Dương đã lan tin khắp giang hồ, khiêu chiến với Quỷ Chân Nhân. Vương Tổ sư chấp nhận so tài cả vào ban đêm, lúc “Diêm Vương Quỷ Kỳ“ có uy lực cao nhất.
Quỷ Chân Nhân đã nhận lời vì cho rằng Vương Trùng Dương chẳng thể nào hơn được Phật Như Lai. Lão đã từng đánh cướp Tàng kinh các của chùa Thiếu Lâm mà Phật Tổ vẫn lặng thinh, chẳng làm được gì.
Nhưng để chắc ăn, Quỷ Chân Nhân chọn giờ Hợi đêm rằm tháng bảy đêm của vong hồn. Còn địa điểm là bãi đất hoang cạnh bờ sông Bạch Hà cách thành Nam Dương này hơn chục dặm về hướng bắc.
Đêm ấy, trước sự chứng kiến của mấy người, Quỷ Chân Nhân vũ lộng Quỷ kỳ, tạo nên luồng quái phong mãnh liệt, chập chờn ngàn bóng u linh ghê rợn, làm cho cát bụi mịt mù. Nào ngờ , Vương Tổ sư thản nhiên xông thẳng qua trận bão ma ấy, chỉ một chiêu kiếm đã đâm thủng tâm thất họ Đơn.
Tuy trúng đòn trí mạng như thế mà Quỷ Chân Nhân vẫn còn đủ sức tung mình xuống sông Bạch Hà mất dạng, mang theo “Diêm Vương Quỷ Kỳ“. Nhưng sau đó lão không hề xuất hiện nữa nên mọi người đoán rằng Đơn Ngạn Hòa đã chết.
Nghe xong Thiết Đảm Hồng Nhan mỉn cười khen ngợi:
- Lư huynh quả là người uyên bác và có tài kể chuyện!
Được mỹ nhân tán dương, Tây Nhạc Kiếm Khách cực kỳ khoan khoái hai cánh mũi phập phồng và nở lớn. Gã hắng giọng nói tiếp:
- Tống hiền muội biết không, ngay cả việc tái xuất của “Diêm Vương Quỷ Kỳ“ cũng rất éo le, lý thú. Số là thổ hào đất Bảo Bình kia tên gọi Kỹ Tòng Thư, tuổi độ sáu mươi bẩy. Lão ta quê quán Tứ Xuyên, mười hai năm trước đến Bảo Bình sang lại hơn ngàn mẫu cây ăn quả, sống đời nhàn hạ, sung túc.
Kỹ lão sính văn chương, thường đến Trích Tiên lâu ở cửa Tây thành Nam Dương này ngâm vịnh. Gia phụ cũng có thú ấy nên hai người đã trở thành bằng hữu.
Ngu huynh thường theo phụ thân đến chơi Kỹ gia trang nên mới biết Kỹ Tòng Thư rất giỏi võ. Ông ta vốn là đệ tử tục gia của phái Thanh Thành. Kỹ đại thúc đã dạy dỗ, huấn luyện ba trăm tráng đinh trong trang thành những tay kiêu dũng, giỏi cả kiếm lẫn cung. Ông cũng truyền cho ngu huynh vài trăm chiêu kiếm rất tuyệt diệu.
Kỹ đại thúc không có con trai nên hai năm trước nạp một người tiểu thiếp tuổi mới hăm lăm, tên gọi Lâm Cổ Hoàn. Nào ngờ Lâm thị là người phóng đãng, lẳng lơ, âm thầm thông dâm với một đệ tử của Kỹ đại thúc.
Đầu xuân năm nay, Lâm Cổ Hoàn đã cùng với tên đốn mạt ấy lấy trộm ba ngàn lượng vàng rồi trốn đi. Biết rằng Kỹ đại thúc sẽ không bỏ qua, truy đuổi đến cùng, nên Lâm Cổ Hoàn và gã Đinh Văn Kiệt đã rêu rao suốt đường đi rằng “Diêm Vương Quỷ Kỳ“ đang ở Kỹ gia trang. Họ muốn Kỹ Tòng Thư phải chết.
Thế là cả võ lâm chấn động, ùn ùn kéo nhau về Bảo Bình. May thay, tổng binh thành Nam Dương Từ Hậu lại là bạn thi văn với Kỹ đại thúc và gia phụ, nên đã mang ngàn quân đến bảo vệ Kỹ gia trang, khi nhận được lời cầu cứu của bạn già. Do đó, suốt nửa tháng nay, Kỹ gia trang vẫn bình yên.
Nhưng thiên hạ lại đồn rằng Minh chủ Võ lâm Âu Dương Mẫn đang trên đường đến Bảo Bình. Với cương vị của mình, lão có quyền thu hồi cái vật có thể gieo tai họa cho giang hồ và bách tính.
Tống Thụy ngắt lời gã:
- Nếu thế thì sự việc sẽ diễn ra suôn sẻ, làm gì có đánh nhau mà Lư huynh bảo rằng khốc liệt.
Lư Công Đán khoan đáp, nâng chén mời cả bàn uống cạn rồi mới lên giọng:
- Ngu huynh chẳng hề dám phóng đại, hiện nay, uy quyền của Âu Dương Mẫn đã giảm sút rất nhiều. Từ cuối năm ngoái, giới giang hồ đã rỉ tai nhau một chuyện động trời, rằng Âu Dương Mẫ chính là tên ác ma Huyết Mai Hội chủ năm xưa. Tin này lan nhanh như gió, tới cả tai Đô Sát viện ở Bắc Kinh. Thế là triều đình ra lệnh cho Tam Ty Hà Nam điều tra sự việc và tước bớt quyền hành của Âu Dương Mẫn. Lão ta vẫn là Minh chủ Võ lâm nhưng không còn được quyền huy động nhân thủ hoặc can thiệp vào nội bộ các phái.
Tất nhiên là cũng chẳng ai thèm đóng góp cho ngân quỹ tổng đàn như trước nữa. Không những thế, có hai bang hội mới thành lập mà chẳng cần xin phép Minh chủ, và cái tên của họ cũng hàm ý khiêu khích Âu Dương Mẫn.
Phái thứ nhất là Chiết Mai Bang ở núi Lĩnh Sơn vùng đất cực tây Hà Nam, giáp với Thiểm Tây. Phái thứ hai là Bích Huyết Bang ở huyện Tân Thái cách đây chừng hai trăm dặm về phía đông.
Với vị trí như thế, vô hình trung hai bang ấy muốn cùng Âu Dương Mẫn tạo thành thế ba chân vạc trên đất Hà Nam, tâm điểm của võ lâm.
Âu Dương Mẫn rất cay cú song phải lờ đi vì e ngại những đại nhân vật đang đỡ đầu cho hai bang hội ngạo mạn kia. Hậu thuẫn của Chiết Mai Bang là Bắc Thiên Tôn Phùng Thịnh Đoan, của Bích Huyết Bang là Nam Thiên Tôn Từ Tôn Chiến.
Hiện nay, Chiết Mai Bang cùng Bích Huyết Bang đều đã kéo lực lượng đến Bảo Bình, tất sẽ không để Âu Dương Mẫn đoạt cây “Diêm Vương Quỷ Kỳ“. Và ngược lại, Âu Dương Mẫn cũng quyết lấy cho được bảo vật để thực sự trở thành bá chủ. Bởi thế, cuộc chiến trước mắt sẽ rất ác liệt, máu xương chồng chất.
Kể xong, Lư Công Đán lộ sắc lo âu hạ giọng:
- Ngu huynh nhận lệnh gia phụ đến Quách gia trang khuyên nhủ Kỹ đại thúc đừng vì bảo vật mà lụy đến thân. Tốt nhất là trao cho Từ tổng binh hủy hoại Quỷ kỳ trước mặt mọi người, giải trừ tai họa.
Bỗng có tiếng cười trong như ngọc vỡ, đầy vẻ quyến rũ cất lên và ai đó nhẹ nhàng mỉa mai:
- Lư Công Tử quả là kẻ ngây thơ. Sẽ chẳng ai chịu tin cây cờ bị hủy là thực cả. Và khi quan quân rút đi rồi thì Kỹ gia trang sẽ thành bình địa.
Người nói ra câu chí lý ấy là một nữ lang võ phục vàng nhạt, áo choàng lưng màu tía, đầu đội nón rộng vành có rèm che mặt. Khi nàng lột nón ra, bọn nam nhân hoảng hốt ré lên:
- Đông Nhạc Tiên Hồ!
Lư Công Đán đứng lên, ngượng ngùng nói:
- Té ra là Dịch cô nương. Mời cô nương an tọa rồi chỉ giáo cho tại hạ cách giải cứu Kỹ gia trang.
Đông Nhạc Tiên Hồ mỉn cười, chậm rãi bước đi trong một khoảng không gian hoàn toàn tĩnh lặng. Mọi thực khách đều đã nín thở, trố mắt chiêm ngưỡng ả hồ ly núi Thái Sơn.
Dịch Tái Vân xinh đẹp phi thường, đẹp đến mức chẳng bút nào tả xiết, một cái đẹp rất đàn bà chứ không pha chút nam tính như Thiết Đảm Hồng Nhan.
Ở nàng, mọi bộ phận đều đạt đến mức tuyệt mỹ, chỉ có thể hình dung bằng những ẩn dụ như:
Làn Thu thủy nét Xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh .
Nhìn nàng, bọn đàn ông lập tức bị quyến rũ mê muội và khao khát . Có thể vì gương mặt tiên nga và cũng có thể vì thân hình thon thả, khiêu gợi của nàng. Dịch Tái Vân ăn mặc kín đáo, chẳng chút hở hang song tất cả dường như đã lộ ra dưới lớp lụa óng ả, bó sát cơ thể. Chiếc áo ấy được may một cách chính xác đến từng ly, tôn vinh vòng eo thon thả, bờ môn tròn trịa và đôi ò bồng đảo kiêu sa thấp thoáng nhấp nhô hai múm vú nho nhỏ.
Lối phục trang ấy không che được gì cả mà chỉ khiến cho đàn ông rờn rợn thịt da, mặt nóng bừng vì động tình.
Đâu đây bỗng khẽ có những tiếng thở dài, những âm thanh của động tác nuốt nước bọt đầy thèm khát. Nhưng có một người mỉm cười đó là Quách Tử Khuê. Chàng cũng ngất ngây trước nhan sắc khuynh thành của Đông Nhạc Tiên Hồ song chẳng hề mê muội. Lý do là vì Tử Khuê biết rõ rằng xác thân nóng bỏng kia được tạc bằng băng tuyết, rằng Dịch Tái Vân chẳng phải đàn bà.
Cũng như sư phụ là Thái Sơn Tiên Nương, Tái Vân đã luyện công phu “Thái Âm Tố Nữ tâm pháp“. Tuyệt học này giúp người luyện trẻ trung rất lâu, nhan sắc như tồn tại mãi với thời gian. Nhưng đổi lại, người ấy sẽ đánh mất hoàn toàn những cảm xúc tình dục.
Bí mật ấy Tử Khuê biết được là do sự tiết lộ của Cửu Hoa Thánh Y Cổ Sĩ Hoành trong lần gặp nhau ở Quang Hóa. Cổ lão đã từng yêu thương Thái Sơn Tiên Nương, cố đem tài Hoa Đà, Biển Thước ra khắc phục khuyết điểm chết người của “Thái Âm Tố Nữ thần công“, nhưng đã thất bại.
Ngày ấy, trước lễ thọ của Chưởng môn phái Võ Đương, Cổ Sĩ Hoành tình cờ biết được việc Âu Dương Mẫn sai Đông Nhạc Tiên Hồ quyến rũ Võ Đương Thần Kiếm Mộ Duy Lộ để đánh cắp thanh “Trạm Lư thần kiếm", nên đã bảo Tử Khuê dùng phép “Phất huyệt tỏa kinh“ phá vỡ âm mưu kia.
Mộ Duy Lộ mất đi khả năng tình dục tất sẽ chẳng còn say mê Dịch Tái Vân được nữa.
Tử Khuê nhớ lại thủ đoạn quái ác của sư thúc mà không nén nổi cười. Và chính nụ cười lạ lùng ấy đã khiến Đông Nhạc Tiên Hồn ngạc nhiên, thắc mắc.
Tại sao Hán tử râu rậm kia lại nhìn mình rồi mỉn cười, cứ như phát hiện ra một vết lọ nồi khôi hài trên mặt vậy? Là ánh mắt chàng ta cũng biểu hiện rõ vẻ giễu cợt, thích thú.
Nàng chẳng có khả năng cảm nhận khoái lạc xác thịt với nam nhân nhưng vẫn là một người đàn bà say mê tôn thờ nhan sắc của chính mình. Do đó, Dịch Tái Vân không chịu nổi thái độ kỳ quặc, khó hiểu của Tử Khuê, liền rảo bước đến, hậm hực hỏi chàng:
- Dám hỏi vì sao các hạ lại cười cợt bổn cô nương?
Tử Khuê đang lung túng, chưa biết trả lời thế nào thì Thiết Đảm Hồng Nhan đứng phắt dậy, lạnh lung bảo:
- Cười thì đã sao? Chẳng lẽ gặp nàng bọn ta phải khóc?
Cái câu: “Rừng không hai cọp“ cũng có nghĩa là ở cùng một chỗ chẳng nên có hai người đàn bà đẹp. Sự đố kỵ về nhan sắc đã ăn sâu vào máu huyết nữ nhân, được giấu kín nhờ trí tuệ và nhân phẩm mỗi người. Những khi có cơ hội thì cái bản năng ấy bùng nổ rất dữ dội.
Rõ ràng là vẻ đẹp lồ lộ, đầy ma lực của Đông Nhạc Tiên Hồ đã lấn áp nét hấp dẫn kín đáo của Thiết Đảm Hồng Nhan, khiến Tống Thụy hơi buồn trong dạ. Nàng thầm chán ngán đám nam nhân háo sắc chung quanh. Nay Tử Khuê không giống họ, lại còn chọc giận con chồn cái lẳng lơ kia, làm cho nàng thấy lòng được an ủi và khi nghe Dịch Tái Vân dám hạch sách kẻ tri âm, tri kỷ duy nhất của mình thì Tống Thụy liền nổi tam bành.
Đông Nhạc Tiên Hồ giật mình nhìn Tống Thụy rồi cười yêu mị:
- Phải chăng nàng là Thiết Đảm Hồng Nhan, nữ nhân đất Nam Dương? Ngoài Tống nữ hiệp ra chẳng có nữ nhân nào vừa đẹp vừa nóng nảy như thế?
Câu khen ngợi khéo léo này đã dập bớt lửa giận trong lòng Tống Thụy. Nàng hờ hũng đáp:
- Không dám! Không dám! Bổn cô nương làm sao sánh được vời Đông Nhạc Tiên Hồ.
Tây Nhạc Kiếm Khách Lư Công Đán nhăn nhó giảng hòa:
- Xin nhị vị nể mặt Lư mổ mà dĩ hòa vi quý. Song phương đều là chỗ thâm giao, nếu xảy ra hiềm khích thì Lư mỗ sẽ rất khó xử.
Dịch Tái Vân cười tươi như hoa, trấn an họ Lư:
- Lư huynh cứ yên tâm. Tiểu muội chẳng dại gì chọc giận Thiết Đảm Hồng Nhan.
Nàng vui vẻ ngồi xuống chiếc ghế trống bên cạnh Lư Công Đán, đối diện với Tử Khuê và Tống Thụy.
Sau màn giới thiệu tính danh, Tái Vân cạn chén với cả bàn rồi tủm tỉm hỏi Tử Khuê:
- Hàn đại ca tướng mạo oai phong song chẳng thiếu phần văn nhã, chắc cũng là bậc tao nhân mặc khách, liệu đại ca có thể trổ tài phun châu nhả ngọc, bình phẩm chút nhan sắc hèn mọn này của tiểu muội hay không.
Rõ ràng là ả hồ ly vẫn còn ấm ức nên tìm cách chơi trác Tử Khuê. Tái Vân cho rằng một gã to con thô kệch, mặt đầy râu kia chẳng thể nào làm nổi một câu thơ. Và giả như chàng có làm được thì ả cũng thừa sức bắt bẻ, chê bai khiến chàng phải bẽ mặt.
Lư Công Đán quá rõ thâm ý của Đông Nhạc Tiên Hồ liền bác ngay:
- Dịch cô nương chớ bày trò làm khó người ta. Hàn đại huynh đây là bậc anh hùng cái thế, chỉ quen với kiếm cung, đâu phải là một gã mọt sách.
Nào ngờ, Tử Khuê lại ứng tiếng:
- Không sao đâu Lư công tử. Tại hạ tuy dốt song cũng tập tễnh làm thơ. Nay có dịp để khoe tài với mỹ nhân, tại hạ chẳng thể bỏ lỡ được.
Họ Lư thở dài, thầm lo lắng rằng lát nữa đây con cọp cái Thiết Đảm Hồng Nhan sẽ chẳng tha cho Đông Nhạc Tiên Hồ. Dù Tống Thụy không có tên trong hàng ngũ sao sáng võ lâm nhưng võ công chẳng kém gì gã. Và với đấu pháp liều lĩnh, đáng sợ của nàng thì Dịch Tái Vân thua là cái chắc. Tiên Hồ qua xem trọng nhan sắc nên sợ thương tích, dũng khí đâu mà chống chọi với một đối thủ không sợ chết?
Lúc này, Tử Khuê đã hắng giọng ngâm nga, mắt nhìn thẳng vào mặt Tái Vân:
Hiềm huy vạn diễm vô năng noãn
Mỹ nữ thiên hương bất khả xan!
(tạm dịch )
Ánh trăng dẫu sáng không làm ấm
Gái đẹp dù xinh chẳng thể ăn !
Bọn nam nhân vỗ tay tán thưởng hai câu thơ dí dỏm ngộ nghĩnh. Họ không để ý rằng gương mặt đẹp của Đông Nhạc Tiên Hồ giờ đây tái xanh như tàu lá và ánh mắt nàng tràn ngập vẻ hoang mang, sợ hãi. Nàng không ngờ gã râu rậm chết toi kia lại biết rõ bí mật của mình. Hiềm huy tức thị Thái Âm, còn mỹ nữ cũng chính là Tố Nữ.
Lời thơ còn hàm ý rằng gã biết nàng lãnh cảm, không thể sưởi ấm và làm thỏa lòng người đàn ông được.
Nhưng đồng thời, Tái Vân lại nhận thấy sắc diện cùng nhãn thần đối phương rất hiền hòa, chẳng chút gì gọi là cay độc, mỉa mai. Vậy phải chăng Hàn Thiếu Lăng chỉ tình cờ sáng tác hai câu thơ ấy chứ không hề biết nàng luyện Thái Âm Tố Nữ thần công?
Trong tâm trạng rối bời, nửa tin nửa ngờ, Tái Vân chẳng còn lòng dạ nào mà bắt bẻ nữa, gượng gạo vỗ tay khen hay và cảm ơn Tử Khuê.
Lư Công Đán mừng hết lớn dõng dạc mời cạn chén và nói lảng sang chuyện khác. Gã thực sự đã yêu thương Thiết Đảm Hồng Nhan song cũng chẳng hờ hững với Đông Nhạc Tiên Hồ. Gã có quyền mơ mộng đến cả hai vì họ đều ở ngoài tầm tay, chưa ai chịu ban bố chút ân tình nào.
Qua ngọ, Tây Nhạc Kiếm Khác đưa cả đám rời Nam Dương, đi đến Kỹ gia trang ở đất Bảo Bình.
Dọc đường, Lư Công Đán gióng ngựa sánh đôi Tống Thụy vì Dịch Tái Vân đã cặp kè Tử Khuê. Đông Nhạch Tiên Hồ chẳng yên tâm, quyết tiếp cận gã râu rậm họ Hàn để điều tra hư thực. Nếu đúng là Hàn Thiếu Lăng nắm được nhược điểm của nàng thì gã phải chết.
Tái Vân không hề nghĩ đến Cửu Hoa Chân Nhân Cổ Sĩ Hoành vì Thái Sơn Tiên Nương, sư phụ nàng chưa bao giờ nhắc lại cuộc tình vô vọng cũ.
Muốn cho một nam nhân cung cấp tin tức, bộc lộ tâm can thì chẳng có cách nào tốt hơn là dùng mỹ nhân kế. Phương pháp này đã được sử dụng nhiều năm mà vẫn luôn luôn công hiệu. Và Đông Nhạc Tiên Hồ lại là thiên hạ đệ nhất mỹ nhân, dẫu Hằng Nga, Tây Thi tái sinh cũng không thể qua nổi. Do đó, Dịch Tái Vân rất tự tin, đem hết bản lãnh quyến rũ đàn ông ra chinh phục Tử Khuê. Đầu mày, cuối mắt, giọng nói, tiếng cười tất cả đều hấp dẫn phi thường có thể lung lạc ngay một bậc cao tăng đắc đạo.
Nhưng khổ nỗi Tử Khuê lại hiểu quá rõ bản chất thực của mỹ nhân nên nhận ra những biểu hiện bên ngoài ngọt ngào, kiều mị kia toàn là giả dối. Nhờ vậy, chàng không bị mê muội, thản nhiên và tỉnh táo đối đáp.
Thực ra, Tử Khuê cũng có đôi chút xuyến xao, rạo rực trước nhan sắc khuynh thành và thân hình bốc lửa của Tái Vân. Mấy tháng qua, chàng ngã mặn, lại ăn toàn cao lương mỹ vị đầy chất bổ nên dục tính rất vượng. Vả lại, ấn tượng của giấc mơ ái ân với Nữ Hầu tước Trình Thiên Kim luôn ám ảnh, khiến chàng hổ thẹn và tử nhủ rằng đến lúc phải lấy vợ. Tuy nhiên, khác với Trình Thiên Kim, Tử Khuê không thức ngộ được rằng giấc mơ kia là thực. Việc nam nhân thỉnh thoảng mộng tinh là rất thường tình. Nghĩa là, Tử Khuê chỉ xem bang chủ Phong Bang giống như Thiết Đảm Hồng Nhan, một trong những đối tượng có thể thành vợ mình.
Riêng đối với Dịch Tái Vân, Tử Khuê không mơ tưởng đến, chỉ có cảm giác như người đang thưởng lãm một pho tượng đẹp vô tri, vô giác.
Rời cửa tây thành Nam Dương được sáu bảy dặm, đoàn người đi xuyên qua một cánh rừng sơn, loại cây nguyên liệu chính cho ngành sản xuất sơn màu của Trung Hoa cổ.
Thình lình, khung cảnh tĩnh lặng bị xé toang bời một tràng cười ghê rợn, chói tai. Và từ trong rừng, hàng trăm gã võ sĩ áo xanh thẫm ùa ra, chặn kín hai đầu quan đạo, vây chặt bọn Tử Khuê lại. Vũ khí của chúng là những cây đao lớn, nước thép xanh rờn.
Đây là loại đao làm phỏng theo kiểu đao Nhật Bản, dài tổng cộng non nửa trượng, chuôi một xích rưỡi. Thứ vũ khí này rất thịnh hành trong quân binh, từ sau thời nhà Nguyên. Do chuôi đao dài nên người ta có thể cầm bằng hai tay, chém người, ngựa trong những trận chiến trên bộ rất tiện lợi, lực đạo mạnh mẽ và tầm sát thương khá rộng. Tuy nhiên, nó vẫn được xếp vào hàng ngũ đoản binh vì trường đao dài đến hai phần ba trượng và nặng tới hai mươi lăm cân.
Thủ lĩnh của đội quân áo xanh nọ là một lão nhân thân hình khôi vĩ, mặt đỏ như son, tóc xõa ngang lưng, râu hùm hàm én rất oai phong. Tuổi lão chắc khoảng thất thập vì râu tóc đều đã hoa râm.
Với tướng mạo anh hùng ấy, lão ta chẳng thể là kẻ vô danh, nên bọn Tây Nhạc Kiếm Khách nhận ra ngay. Gã vội hạ mã, kính cẩn ôm quyền thi lễ:
- Tần đại thúc chặn đường bọn tiểu điệt có điều chi dạy bảo?
Gã chẳng dám thất lễ vì biết lão mặt đỏ là bảo chủ Thần Đao Bảo Tần Minh Viên, hùng cứ đất Thâm Dương, cách Nam Dương gần trăm dặm về hướng đông.
Tần lão có sức khỏe phi thường, đao pháp tinh thông, được xem là cao thủ số hai của võ lâm. Thần Đao bảo chủ chính là người đã cùng Lư Châu Đại Hiệp Âu Dương Mẫn đấu trận chung kết tranh ngôi Minh chủ. Sau gần ngàn chiêu, Âu Dương Mẫn mới thắng nổi Tần Minh Viên.
Tổ phụ họ Tần còn là công thần triều Minh, con cháu đời đời Tập Tước Thần Đao Bá, nên thế lực Thần Đao Bảo cực kỳ hùng mạnh. Ngay Âu Dương Mẫn cũng nể mặt, chẳng dám đụng chạm đến.
Nhắc lại Tần Minh Viên nghe Lư Công Đán hỏi như thế thì cười nhạt đáp:
- Lão phu đến đây là vì con nha đầu Dịch Tái Vân. Các ngươi hãy chuẩn bị lễ vật để mừng đám cưới của Đông Nhạc Tiên Hồ với khuyển tử Tần Trọng Vỹ.
Trừ Tử Khuê ra, bọn Lư Công Đán gần hai mươi người đều giật bắn mình thầm thương xót cho Dịch Tái Vân.
Thiếu Bảo chủ Thần Đao Bảo Tần Trọng Vỹ vốn được thiên hạ gọi bằng cái xú danh Đà Bối Ngốc Đao. Tuy vừa gù vừa ngu song nhờ gia thế giàu sang nên cũng lấy được vợ. Nhưng chỉ hai tháng sau là vợ gã chịu đựng hết nổi ôm gói bỏ trốn. Kể từ lúc ấy, chẳng nhà nào dám gả con gái cho Trọng Vỹ nữa. Người ta đồn rằng Đà Bối Ngốc Đao mắc bện bạo dâm, phải đánh đập, hành hạ người phối ngẫu thì mới thỏa lòng.
Vì vậy, người ngoài chỉ giật mình nhưng Đông Nhạc Tiên Hồ Dịch Tái Vân thì sợ đến chết khiếp. Nàng cố trấn tĩnh lên tiếng:
- Sao Tần Bảo chủ lại có thể hoành hành ngang ngược như vậy được? Bổn cô nương gặp lệnh lang chỉ có một lần và chẳng hề muốn làm dâu họ Tần.
Bảo Chủ Thần Đao Bảo thản nhiên đáp:
- Hồi đầu xuân, Vỹ nhi đến Y Xuyên ngoạn cảnh Long môn Phật động. Lúc trở về, y phát bệnh tương tư, nằng nặc đòi cưới cho được ngươi. Trọng Vỹ không ăn, không ngủ suốt mấy tháng qua nên giờ đây tính mạng như đèn trước gió. Lão phu chỉ có y là kẻ nối dõi tông đường nên chẳng thể khoanh tay nhìn con mình chết thảm và họ Tần tuyệt tự. Do vậy, lão phu bất chấp thủ đoạn, bằng bất cứ giá nào cũng phải đưa ngươi về Thần Đao Bảo để cứu mạng Vỹ nhi.
Nghe giọng lưỡi bá đạo ấy, Đông Nhạc Tiên Hồ càng bội phần lo lắng, đành phải thổ lộ chút bí mật để giải vây, nàng nghiêm nghị nói:
- Tôn giá đã chọn sai đối tượng để hà hiếp rồi. Bổn cô nương chính thực là nghĩa nữ của đương kim Minh chủ võ lâm, ông mà mạo phạm đến thì mang họa đấy.
Nào ngờ Tần Minh Viên không hề sợ hãi, lại ngửa cổ cười dài:
- Dịch nha đầu! Ngươi đã dám công nhận mối quan hệ ấy thì lão phu càng dễ hành động. Thú thực là lão phu đã mang sính lễ đến Tổng đàn võ lâm cầu hôn và được lệnh nghĩa phụ chấp thuận rồi. Nếu không thì sao lão phu biết được ngươi sẽ đi đến Bảo Bình mà mai phục.
Đông Nhạc Tiên Hồ chết điếng người không ngờ Âu Dương Mẫn lại bán đứng mình để đổi lấy sự hỗ trợ của Thần Đao Bảo. Sau khi bị triều đình tước bớt quyền hành để điều tra, Âu Dương Mẫn cảm thấy mình cô thế trước sự uy hiếp của hai bang hội mới là Chiết Mai Bang và Bích Huyết Bang, nên rất cần đến thế lực hùng mạnh của Thần Đao Bảo.
Dịch Tái Vân xảo quyệt như chồn nên mới có danh hiệu Tiên Hồ. Nàng chẳng cam tâm thúc thủ ngay mà cố nghĩ cách thoát thân. Tái Vân làm ra vẻ ung dung nói:
- Dẫu cho tôn giá có sự hậu thuẫn của gia nghĩa phụ thì cũng muộn rồi. Bổn cô nương đã lỡ có vị hôn phu, chẳng thể làm dâu họ Tần được. Người ấy cũng đang hiện diện ở đây.
Kế sách này của Đông Nhạc Tiên Hồ rất lợi hại vì dẫu sao thì Tần Minh Viên cũng là kẻ có thanh danh cao cả trong võ lâm, đồng thời còn là một bá tước, chẳng thể giết người đoạt vợ được. Nếu nàng chưa chồng thì lão có thể mược Âu Dương Mẫn làm bình phong, tàm tạm muối mặt với thiên hạ. Lúc này, số người hiếu kỳ tụ tập ở chung quanh đã khá đông, họ cũng đang trên đường đến Bảo Bình, thấy việc lạ thì mừng rỡ xúm lại xem.
Thần Đao Bảo Chủ bối rối suy nghĩ :
- Chết thực! Nếu ả hồ ly này đã thề nguyền trăng sao với tiểu tử Lư Công Đán thì ta chẳng thể làm được gì. Lư Tài Thần thế lực vươn đến tận kinh sư, không dễ đụng vào.
Nhưng vì thương con, Tần Minh Viên bấm bụng chơi trò tháu cáy, quắc mắt hăm dọa:
- Lão phu chưa hề nghe Âu Dương minh chủ nhắc đến chàng rể nào nên xem như không có. Và kẻ nào đã ăn gan hùm mật gấu dám đứng ra nhận càn thì lão phu sẽ giết ngay.
Rồi lão bất ngờ chỉ mặt Tây Nhạc Kiếm Khách Lư Công Đán mà nạt lớn:
- Có phải ngươi không ?
Họ Lư hồn vía lên mây, thảng thốt đáp liền:
- Không! Không phải vãn bối!
Phần vì sợ hãi cái oai của đối phương, phần vì trong lòng vốn nặng tình với Thiết Đảm Hồng Nhan hơn nữa gã đã buột miệng trả lời như vậy. Nói xong, Công Đán liếc nhìn Tống Thụy như gởi gắm tâm tình. Nào ngờ, Thiết Đảm Hồng Nhan chẳng chút cảm động mà còn cau mày biểu lộ vẻ không hài lòng.
Tuy Tống Thụy chẳng ưa gì Đông Nhạc Tiên Hồ song rất chán ghét hành vi bá đạo của Thần Đao Bảo. Hơn nữa, cùng là phận gái, nàng không muốn Tái Vân ngọc nát châu trầm trong tay một gã quái vật như Tần Trọng Vỹ.
Thiết Đảm Hồng Nhan thừa cơ trí để hiểu kế sách của Tái Vân. Ngờ đâu, Lư Công Đán vì khiếp nhược mà làm hỏng diệu kế ấu. Vả lại, Công Đán đã có lòng ái mộ Tái Vân sao giờ có thể vì sợ chết mà bỏ nàng ta?
Phần Đông Nhạc Tiên Hồ cũng rất bẽ bàng trước sự phủ nhận mau mắn của gã chết tiệt họ Lư. Song nàng thầm hy vọng rằng Tần Minh Viên vì thanh danh mà không dám giết càn dẫu người nàng chọn lựa là ai cũng thế. Do đó, Tái Vân giả vờ bình thản, cười khanh khách:
- Tần Bảo chủ nhìn lầm người rồi. Vị hôn phu của bổn cô nương nào phải kẻ tầm thường như Tây Nhạc Kiếm Khách. Để ta giới thiệu người ấy cho lão biết.
Nói xong nàng quay lại nhìn đám nam nhân đồng hành, cố tìm nhanh một đối tượng. Khổ thay hầu hết bọn họ đều ngoảnh đi hoặc cúi mặt, chẳng muốn dính vào, mặc dù trước đây vài khắc họ luôn nhìn nàng bằng cặp mắt đắm say, tôn thờ.
Chỉ có chàng rậm râu Hàn Thiếu Lăng là đang thì thầm to nhỏ gì đó với Thiết Đảm Hồng Nhan. Và chàng còn mỉm cười nữa.
Thực ra, lúc ấy Tử Khuê nói với Tống Thụy thế này:
- Tống sư muội! Số mạng của ta vốn cực kỳ xui xẻo, thế nào cũng bị Dịch Tái Vân gọi ra làm “thế tử quy“. Lúc ấy theo ý sư muội thì ta phải làm sao.
Quả y như rằng , Đông Nhạc Tiên Hồ cất giọng ngọt ngào gọi:
- Hàn đại ca! Mời chàng bước ra cùng tiểu muội bái kiến Tần Bảo chủ.
Giọng nàng hơi run vì sợ rằng gã họ Hàn cũng chết nhát như Lư Công Đán thì nguy to. Nhưng may thay Hàn Thiếu Lăng đã xuống ngựa bước đến cạnh nàng, ôm quyền ngượng nghịu nói với Tần Minh Viên:
- Vãn bối là Hàn Thiếu Lăng, đã cùng Dịch cô nương đây đính ước trăm năm. Tần Bảo chủ là bậc đại nhân chắc chẳng nỡ rẽ thúy chia loan bọn hậu sinh.
Thấy dáng vẻ ngượng ngùng, gượng gạo của Tử Khuê, Tần Minh Viên đoán ngay ra ngụy kế của Dịch Tái Vân, lão thầm suy nghĩ:
- Gã chết bằm này không sợ chết nên dám bước ra, ta có hù dọa thêm cũng vô ích, phải tìm cách khác mới xong.
Tần Minh Viên nghiêm nghị bảo:
- Này Hàn thiếu hiệp! Đông Nhạc Tiên Hồ là một nữ nhân gian hoạt, xảo trá bậc nhất thế gian, ngươi chớ vì nhan sắc của ả mà tiêu tan một đời hảo hán. Dẫu ngươi có đúng là vị hôn phu của Tái Vân thì trước sau gì cũng bị ả bỏ rơi. Nay lão phu thương ngươi cốt cách anh hùng nên mới cảnh tỉnh như thế. Và nếu ngươi chịu nghe lời giáo huấn ấy, từ bỏ Dịch Tái Vân thì lão phu sẽ thưởng cho ba ngàn lượng vàng.
Bọn Lư Công Đán bàng hoàng tiếc rẻ, không ngờ chỉ với chút can đảm mà Hàn Thiếu Lăng lại vớ được món hời. Té ra, Tần Minh Viên chỉ lới tiếng hù dọa chứ không dám giết người, và còn sẵn sàng ném vàng ra để giải quyết êm xuôi.
Đông Nhạc Tiên Hồ cũng không nghĩ đến thủ đoạn phi thường này của Tần lão, lòng rất lo sợ Hàn Thiếu Lăng tham vàng mà chối bỏ mình. Trong cơn bối rối, Tái Vân buột miệng thề độc:
- Tướng công chớ tin lời lão ta! Thiếp xin thề có Lôi Thần chứng giám rằng sẽ suốt đời chung thủy với tướng công. Ngoài chàng ra, thiếp sẽ không nhìn đến nam nhân nào khác trong thiên hạ.
Tình cờ, khi nàng vừa nói xong từ xa xa vọng lại tiếng sấm ì ầm cứ như là lão Thiên Lôi mỏ nhọ biểu hiện sự chứng thực của mình vậy.
Tái Vân ghê sợ gã quái thai Tần Trọng Vỹ đến mức mất cả hồn vía, sẵn sàng lấy bất cứ ai, trừ gã ta. Tử Khuê nghe lời thề thốt ấy mà hoảng vía than thầm:
- Chết ta rồi! Ả này tuy đẹp nhưng chỉ là tượng đá, chẳng biết yêu đương và cũng không thể sinh con, chắc chắn sẽ khiến song thân ta phiền muộn. Ta phải lo phần mình trước đã .
Chàng gượng cười trả lời Tái Vân:
- Dịch hiền muội! Nàng đã lập thệ như thế thì ta cũng yên lòng. Có điều rằng tính ta vốn ưa trăng hoa, dự định sẽ lấy đến ba bốn vợ, liện nàng có rộng lượng thứ tha hay không?
Đang cơn nguy cấp, Đông Nhạc Tiên Hồ chẳng còn tâm trí đâu mà cò kè, mặc cả. Nàng gật đầy ngay:
- Trai anh hùng năm thê bảy thiếp là chuyện thường tình, thiếp quyết chẳng dám ghen tuông.
Người chung quanh dở khóc dở cười, chẳng hiểu Hàn Thiếu Lăng điên hay tỉnh? Đã lấy được thiên hạ đệ nhất mỹ nhân mà gã chưa thỏa lòng, còn đòi thêm vài cô vợ nữa.
Tử Khuê an bài xong gia sự, yên lòng phúc đáp Trần Minh Viên:
- Nay Dịch cô nương đã lập trọng thệ như thế nên vãn bối rất an tâm cùng nàng kết duyên Tần - Tấn. Xin cảm tạ hảo ý của bậc trưởng thượng!
Tần Bảo chủ biết mình đã thua, đứng ngẩn ngơ một lúc lâu. Hình dáng gầy gò, thảm hại của đứa con yêu hiện ra khiến lão đau lòng khôn xiết. Nghĩ đến cảnh mất con và tuyệt tự, Tần lão phát điên lên, cơ hồ chẳng còn màng đến thanh danh nữa. Nhưng Tần Minh Viên là kẻ cơ trí, thức ngộ rằng phe đối phương đang đi đến Kỹ gia trang, nơi sẽ là đấu trường đẫm máu và lão còn nhiều cơ hội để ám sát Hàn Thiếu Lăng giành lại con dâu.
Do chủ ý này mà Tần lão cố nhẫn nại, ra hiệu rút quân. Mai phục không còn, bọn Tử Khuê tiếp tục lên đường nhưng ai nấy lặng lẽ như đưa đám, chẳng nói tiếng nào.
Lư Công Đán và bọn hào khách Nam Dương thì hổ thẹn, Dịch Tái Vân thì bối rối và hối hận. Nàng thầm đào mồ cuốc mả Tần Minh Viên ra mà nguyền rủa. Lão ta và đứa con chết tiệt đã xô đẩy nàng vào bước đường cùng, phải chịu lấy họ Hàn. Nhưng nàng là thạch nữ, lấy chồng làm gì cơ chứ?
Được hơn dặm, đoàn người dừng chân ở quán nước bên đường để giải khát. Nhân dịp này, Dịch Tái Vân ấp úng nói với Tử Khuê:
- Hàn đại ca! Tiểu muội là một nữ nhân nhiều tai tiếng, chẳn đáng làm kẻ nâng khăn sửa túi cho đại ca. Lúc nãy, vì ngộ biến tùng quyền mà tiểu muội đã phải mạo muội xưng là vị hôn thê của đại ca. Nay tai họa đã qua, tiểu muội khấu đầu mong đại ca giải trừ lời thề nguyền ấy. Tiểu muội quyết chẳng để Hàn đại ca thiết thòi, xing dâng ngàn lượng vàng gọi là tạ ân cứu mạng.
Bọn Thiết Đảm Hồng Nhan hồi hộp dán mắt vào Tử Khuê, chờ xem chàng phúc đáp thế nào. Trong thâm tâm, họ đoán rằng chàng sẽ không chịu bỏ lỡ cơ hội làm chồng người đàn bà đẹp nhất võ lâm.
Ngờ đâu gã họ Hàn tốt phúc kia lại trầm ngâm đáp:
- Hôn nhân chẳng thể miễn cưỡng mà có. Do đó, ta sẵn sàng từ hôn. Tuy nhiên, ta sẽ chẳng lấy nàng mà chỉ yêu cầu nàng thề rằng từ nay không tiếp tay cho Âu Dương Mẫn nữa. Và tốt nhất là nàng nên xa lánh lão ta để khỏi mang họa sau này.
Đông Nhạc Tiên Hồ cũng chẳng giàu có gì nên mới khuất thân làm nghĩa nữ của Âu Dương Mẫn. Nay không phải mất ngàn lượng vàng thì nàng mừng húm, hớn hở hứa ngay:
- Tiểu muội xin hứa rằng sẽ nghe theo lời dạy bảo của Hàn đại ca.
Tử Khuê hài lòng gật đầu tuyên bố:
- Ta là Hàn Thiếu Lăng, nay tự nguyện bãi bỏ hôn ước với Dịch Tái Vân cô nương, mong trời xanh và chư vị huynh đệ hiện diện chốn này làm chứng cho.
Đông Nhạc Tiên Hồ cảm động trước tấm lòng rộng rãi, cao cả của đối phương liền vái dài, thành thực đáp:
- Ơn đức của đại ca, kiếp sau tiểu muội sẽ đáp đền.
Đúng lúc này mặt đất rung rinh vó ngựa ầm ầm, dồn dập của một đoàn kỵ sĩ đông đến mấy trăm đang trẩy quân qua. Mọi người nhìn ra thì thấy thấp thoáng lá đại kỳ võ lâm đang phần phật tung bay trong gió hạ. Dịch Tái Vân mừng rỡ nói mau:
Gia nghĩa phụ và đại quân đã đến. Tiểu muội xin cáo biệt chư vị.
Thế là nàng chụp lấy tay nải, lao vút ra ngoài, nhảy lên lưng ngựa đuổi theo Âu Dương Mẫn. Thì ra, Tái Vân chỉ hứa suông với Tử Khuê mà thôi.
Thiết Đảm Hồng Nhan bật cười, chế giễu Tử Khuê:
Sư huynh đã mắc lừa ả rồi. Sao lúc nãy sư huynh không nhận ngàn lượng vàng cho xong.
Tử Khuê cười khà khà chống chế:
Tống sư muội không biết đấy thôi. Lão lôi công kia vừa hẹp hòi vừa thù dai, chẳng để Tái Vân qua mặt đâu.
Hết hồi 4 ( mệt quá rồi! nghỉ 1 lát đã, chiều post típ )
|