Hồi 10
Tuyệt xứ phùng sinh vân mộng giản
Vu hồ hào kiệt hội cố nhân
Chính Lan thọ thương quá trầm trọng, mê man bất tỉnh suốt nửa tháng trời chẳng hề mở mắt, cơ thể chàng ngày càng hư nhược, hơi thở mong manh.
Biết chàng khó thoát chết, bọn Thi Mạn gạt nước mắt đưa chàng trở lại Nam Kinh, may ra còn kịp gặp vợ con.
Sùng Trinh hoàng đế rộng rãi cấp cho chiếc xe tốt nhất của hoàng cung, ban thưởng rất nhiều ngọc ngà, châu báu, và cho năm mươi giáp sĩ hộ tống.
Vô Nhân Kiếm Khách và Hán Trung Tam Ngốc thay nhau làm xà ích. Thi Mạn, Tố Bình túc trực trong xe chăm sóc bệnh nhân. Hai nàng khóc đến nỗi mắt sưng húp, hoa dung thiểu não, hốc hác hẳn đi.
Trời đã vào đông, tuyết rơi mù mịt và lạnh thấu xương. Cũng may đây là xe của vua nên thùng xe rộng rãi, tiện nghi, có cả lồng than hồng để sưởi ấm và nấu nướng.
Chính Lan chỉ uống toàn nước cháu nấu với sâm già. Thi Mạn cố cứu trượng phu, cho chàng dùng rất nhiều linh đan. Nhờ vậy, bệnh tình không nặng nề thêm, hy vọng Chính Lan cầm cự được cho đến lúc về nhà.
Giữa tháng mười một, đoàn người vượt Từ Châu, đi vào đoạn đèo Vân Mộng. Nơi đây cách xa Từ Châu hơn hai trăm dặm nên không sợ Đào Hoa cung tập kích. Hơn nữa, việc Chính Lan thọ thương được giữ kín, chắc họ Thang không dám chặn đường.
Sắp đến ngọ mà bầu trời xám xịt, gió bấc lồng lộng gào thét, thổi trận mưa tuyết vào lưng lữ khách xuôi nam. Bọn Thi Mạn lầm lũi tiến lên đèo. Mé tả là sườn núi Vân Mộng sơn, mé hữu là vực thẳm Vô Để Uyên nổi tiếng.
Chưa có ai xuống được đáy vực mà sống sót để trở lên. Nếu ném một tảng đá thì phải rất lâu sau mới nghe tiếng động vang lên.
Gần đến đình đèo, bất ngờ từ đám loạn thạch mé tả, hàng ngàn mũi trường tiễn xé gió bay vút đến, cắm vào cơ thể bọn cấm quân. Hán Trung Tam Ngốc múa tít bảo đao hộ thân và che chở cho xe ngựa. Tố Bình vội tung trái Đảo Thiên thần đạn cuối cùng vào bọn mai phục. Đồng thời, Hách Thiết Xuyên quất đôi ngựa phi nước đại.
Ba gã ngốc lao theo, còn đám cấm quân chết không sót một tên. Nhưng lên đến đỉnh đèo, Thiết Xuyên nhận ra đường quan đạo đã bị chặn ngang bởi một thân cây lớn, chẳng thể nào vượt qua được. Gã thở dài tuyệt vọng, khi thấy hàng trăm tên cao thủ áo trắng dương cung chĩa vào xe.
Có tiếng cười ghê rợn vang lên:
- Để xem bọn ngươi làm cách nào thoát khỏi tuyệt lộ này?
Người nói chính là Đào Hoa cung chủ Thang Chí Quân. Tố Bình đứng trên càng xe mắng liền:
- Lão có giỏi thì đơn đấu với tướng công của ta, sao lại bày trò mai phục đê tiện như vậy?
Nhưng nàng không dọa được lão vì cạnh họ Thang còn có một lão già mũi két, mắt diều, trên vai, có con chim ưng lông đỏ. Lão ta chính là Miêu Ưng Lão Tổ ở Quân Đô Sơn. Ngoài ra còn có Phi Hoàn đại lão Lý Hiểu Lộ và Thái Sơn Phủ Quân Vũ Diên. Bốn người ấy liên thủ thì dù Chính Lan có khoẻ mạnh cũng không mong thoát chết.
Hách Thiết Xuyên kiến văn rộng rãi nên nhận ra ngay lai lịch của đối phương. Gã hạ giọng bảo Tố Bình:
- Nàng và Thi Mạn cố cõng Chính Lan đào tẩu, ta và ba anh em họ Hồ sẽ đoạn hậu cho.
Tố Bình cười nhạt:
- Có chạy cũng không thoát, thà liều mình đánh trận cuối cùng rồi chết chung với trượng phu còn hơn.
Chính Lan đang sắp chết, nàng cũng chẳng còn ham sống nữa.
Bỗng trong xe Thi Mạn thẳng thốt kêu lên:
- Tướng công đã hồi tỉnh.
Có lẽ tiếng nổ long trời của trái Đảo Thiên thần đạn đã đánh thức chàng. Chính Lan thều thào hỏi:
- Chuyện gì vậy Mạn muội?
Thi Mạn sa lệ đáp:
- Chúng ta bị Đào Hoa cung chủ và Thái Sơn Phủ Quân vây chặt trên đỉnh đèo Vân Mộng. Chắc là lành ít dữ nhiều.
Tố Bình đã chui vào xe, ôm lấy Chính Lan nức nở:
- Phen này chúng ta cùng dắt tay nhau xuống suối vàng mà thôi.
Chính Lan lặng lẽ suy nghĩ, nghiêm giọng bảo:
- Hai nàng mau truyền cho ta ít chân khí và bảo Thiết Xuyên nói đối phương chờ một lát.
Thi Mạn vén màn xe nói với họ Hách, còn Tố Bình dựng Chính Lan ngồi lên, truyền công lực vào mệnh môn. Phe Đào Hoa cung đã nắm chắc phần thắng nên chẳng vội gì, chấp nhận chờ đợi.
Nửa khắc sau, Chính Lan đã hồi phục được hai thành, dắt tiểu kiếm vào bụng, tay xách Long Tuyền kiếm bước xuống xe. Chàng đã nhận ra Miêu Ưng Lão Tổ và Phi Hoàn đại lão nhưng vẫn thản nhiên.
Chính Lan cao giọng bảo Thái Sơn Phủ Quân:
- Vũ tiền bối, kỳ hạn ba tháng chưa đến sao tiền bối lại có mặt nơi này?
Phủ Quân cười mát:
- Bần đạo nghe nói công tử sắp chết nên đến xem thử thế nào.
Phi Hoàn đại lão gầm lên:
- Hồng Nhất Điểm, ngươi hãy đến mạng ba em của ta.
Chính Lan rút bảo kiếm ra khỏi vỏ, chậm rãi tiến lên, đối diện bốn lão ác ma. Họ đang đứng dưới chân sườn núi, vì vậy, vị trí của Chính Lan rất gần bờ vực. Chàng giơ cao thanh kiếm và nói:
- Đây chính là thanh Long Tuyền bảo kiếm thời thượng cổ. Nếu các vị đồng ý tha cho sáu người thân của tại hạ thì sẽ được thanh kiếm này và sinh mạng của Âu Dương mỗ. Nếu không, Lan này sẽ hủy ngay bảo vật.
Dứt lời, chàng chém mạnh vào tảng đá cạnh đấy. Lửa xanh bắn ra và tảng đá nứt đôi, mà thanh kiếm không hề sứt mẻ. Đào Hoa cung chủ và Thái Sơn Phủ Quân đều là kiếm khách nên hoan hỉ phi thường. Nhưng Lý Hiểu Lộ gạt phăng:
- Lão phu có đôi phi hoàn này là đủ rồi, chẳng cần bảo kiếm làm gì.
Chính Lan mỉm cười:
- Lão đến đây để lấy mạng ta chứ đâu phải vì sáu kẻ vô can kia?
Phủ Quân và Đào Hoa cung chủ bàn bạc chớp nhoáng. Vũ Diên quay sang phủ dụ đại lão, rồi nghiêm giọng:
- Được, bần đạo đồng ý tha cho thân quyến của ngươi. Nhưng ngươi phải thề sẽ để kiếm lại và nhảy xuống vực tự sát.
Thi Mạn, Tố Bình kinh hãi kêu lên:
- Tướng công, bọn thiếp thà chết chứ không bỏ chàng.
Thiết Xuyên cũng nói:
- Tại hạ chẳng phải là kẻ ham sống, công tử bất tất phải làm như vậy.
Chính Lan nghiêm giọng:
- Nếu các ngươi không nghe lời ta mà đi ngay thì chẳng còn là thê thiếp, bằng hữu gì nữa hết. Hai nàng đang mang thai, sao không lo giữ gìn hương hỏa cho ta mà lại tính chuyện chết oan?
Thi Mạn và Tố Bình sửng sốt vì họ nào có mang thai nghén gì? Thiết Xuyên cũng biết điều ấy, lặng người suy nghĩ. Chính Lan giận dữ quát:
- Đi mau đi, một năm sau quay lại cúng tế là đủ rồi. Đừng để ta phải nói nhiều.
Tố Bình và Thi Mạn quì xuống vái tạ:
- Kiếp này không còn sum họp, xin hẹn kiếp lai sinh chắp cánh uyên ương.
Ba gã ngốc cũng sụp xuống khóc ồ ồ:
- Đại ca đi đi, bọn tiểu đệ hứa sẽ đốt cho đại ca thật nhiều giấy tiền vàng bạc, để dưới âm ty có rượu mà uống.
Thiết Xuyên thì ngửa cổ cười bi thiết:
- Hảo bằng hữu, hẹn sớm gặp lại nhau.
Y nghĩ sau này sẽ liều mình báo phục, dẫu chết cũng vui lòng.
Chính Lan quay sang nói với phe đối phương:
- Tại hạ thề có hoàng thiên rằng sẽ trao bảo kiếm và tự sát, ngay sau khi bọn họ đi khỏi. Mong chư vị mở đường cho.
Người võ lâm rất trọng lời thề, nhất là một bậc đại hiệp khách như Chính Lan. Đào Hoa cung chủ lập tức phất tay ra hiệu nhường đường. Bọn cung thủ liền kéo thân cây sang một bên để xe và ngựa đi qua. Hai mỹ nhân cứ mãi quay lại, lệ tuôn như suối, luôn miệng gọi tướng công.
Chờ họ đi xa, Chính Lan tra kiếm vào vỏ, đặt xuống đất rồi tung mình nhảy vào khoảng không mù mịt của vực thẳm.
Vô Để Uyên có nghĩa là vực không đáy, nhưng mỗi khi đông đến tuyết phủ dày hàng trượng. Chính Lan đã tính đến điều này nên mới dám liều mình để cứu thê thiếp, bằng hữu. Hy vọng dẫu mong manh nhưng còn hơn cả đám chết trong tay kẻ địch.
Chính Lan dồn hết công lực vào đôi chân để chịu đựng va chạm. Nhưng từ độ cao hơn trăm trượng rơi xuống, dù tuyết dày và xốp, xương đầu gối của chàng cũng sai khớp. Thân hình Chính Lan lún sâu vào lớp tuyết, ngập cả đầu.
Chàng cố nén đau, dùng tay bới tuyết trườn lên. Sửa lại khớp xương xong, chàng thở phào lướt lên miệng vực, chỉ thấy tuyết bay mù mịt mà thôi. Đã quyết tìm cái sống trong cái chết nên Chính Lan chẳng hề tuyệt vọng.
Chàng nghỉ ngơi một lúc rồi bắt đầu thám hiểm đáy vực. Tiểu kiếm cầm sẵn trong tay, Chính Lan chậm rãi bước đi. Dù còn rất yếu đuối nhưng nhãn quang chàng vẫn tinh tường, nhờ tác dụng của thiên niên Hà Thủ Ô. Nếu không có kỳ trân này, chàng đã chết từ lâu rồi. Thi Mạn tinh thông chất độc nhưng y thuật không cao minh lắm. Nàng nóng ruột nên cho Chính Lan uống quá nhiều linh đan và sâm quí, đâu biết rằng trượng phu luyện Qui Tức BảoTâm đại pháp nên cơ thể tự nhiên giảm hoạt động để phục hồi. Thấy mạch yếu, hơi thở mong manh, nàng cứ ngỡ phu tướng sắp chết. Chính tiếng nổ của hỏa khí đã khiến chàng rời khỏi trạng thái đông miên của môn tuyệt kỹ hãn thế kia.
Nhắc lại, Chính Lan đi nửa vòng đáy vực, bỗng phát hiện một cửa hang rộng rãi. Chàng mừng rỡ vì đã có chỗ ẩn thân. Dù sao cũng chẳng thể ở mãi dưới cơn mưa tuyết lạnh lùng. Chàng biết mình phải tịnh dưỡng mấy tháng mới mong phục hồi công lực để thoát khỏi chốn này.
Nước uống thì đã có tuyết, vật thực là lũ độc xà, cóc nhái nhung nhúc khắp nơi. Nếu hang khô ráo, chàng có thể tạo ra lửa mà sưởi ấm và nướng thịt.
Chính Lan thận trọng bước vào, ngạc nhiên trước vẻ đẹp kỳ ảo của hàng ngàn thạch nhũ trên trần và sàn hang. Có những vú đá hình thành từ trăm vạn năm trước, trên dưới giao nhau thành cây cột khổng lồ.
Cuối hang là một khoảng rộng bằng phẳng, khô ráo, và kỳ diệu thay có cả dấu vết con người. Chàng lờ mờ nhận ra trong góc động có chiếc giường đá, liền bước đến xem thử. Vật đầu tiên chàng nhận thấy là hộp gỗ đựng bùi nhùi và cục đá lửa lớn bằng nắm tay. Chính Lan phấn khởi đập chúng vào nhau liên tục, tiếp tục quan sát, chàng phát lại phát hiện một đống cành khô ở chân vách động.
Lát sau, đống củi mục cháy bùng lên, tỏa ra sức nóng, làm ấm lòng kẻ cô đơn. Chính Lan trở ra ngoài bắt vài con độc xà và nhặt thêm ít củi nữa. Tuy chúng ướt át nhưng vẫn có thể cháy được. Còn việc làm thịt rắn thì chàng đã học của Liễu Thi Mạn.
Ánh lửa soi sáng cảnh vật, giúp Chính Lan nhận ra vách đá cuối động được khoét sâu một mảng vuông vức, cách mặt đất gần trượng. Và trong khoảng trống ấy, một xác người ngồi ngay ngắn theo tư thế kiết đà. Chàng hiếu kỳ rút cây củi đang cháy đến nơi quan sát, thấy da thịt của tử thi đã khô quắt lại sát xương mặt, chỉ có hàng râu năm chòm và mái tóc đen nhánh là vẫn chỉnh tề. Chính Lan là người trung hậu, thủ lễ nên sụp xuống lạy ba lạy, thầm khấn:
- Vãn bối vô tình lạc bước vào đây, quấy nhiễu chốn yên nghỉ của tiền bối, xin anh linh lượng thứ cho.
Lúc quì lạy, chàng đã đặt cây đuốc củi khô xuống sàn. Ánh lửa chập chờn nhưng cũng đủ soi sáng chân vách trước mặt. Nhờ vậy, Chính Lan nhìn thấy bốn chữ “sàng hạ hữu kinh.” Chỗ này rất tối tăm, chữ viết lại nhỏ, nếu chàng không qùy lạy, khó mà thấy được bốn chữ ấy.
Chính Lan hiểu ngay dưới chiếc giường đá kia có lưu lại chân kinh, bí kíp gì đó. Chàng xách đuốc đến nơi xem xét, và tìm ra một khung cửa nhỏ, vuông vức, mỗi bề độ hơn gang. Chính Lan lôi ra một chiếc rương đồng, tiết diện gần bằng khung cửa đá, dài khoảng hai gang. Rương không có khóa nhưng quanh nắp được gắn kín bằng nhựa cây. Chính Lan dùng tiểu kiếm cạo sạch lớp keo ấy, mở nắp rương ra. Vòn vẹn chỉ có một phong thư, vài nén vàng, một quyển kinh và tấm áo tơ mềm mại, đen bóng. Chính Lan mở phong thư, phát hiện thêm một chiếc mặt nạ da người rất tinh xảo.
Chàng đặt sang một bên, đọc thư trước đã.
“Lão phu là Báo Ứng Lang Quân Trọng Phú Lan, người đất Thiểm Tây, từng phò tá Vương Dương Minh đánh giặc Trần Hào. Nhưng quen thói tiêu dao tự tại, lão phu không nhận chức tước mà tiếp tục ngao du, hành hiệp. Trong ba mươi năm ngang dọc, với pho Cuồng Lãng chưởng pháp, lão phu tiêu diệt không biết bao nhiêu ác nhân trong võ lâm, nổi danh Báo Ứng Lang Quân. Đến năm sáu mươi tuổi, lão vô cùng hối hận, lão phu giết lầm một người vô tội, nhảy xuống Vô Để Uyên tự sát. Nào ngờ trời xanh chưa cho chết nên lão phu ở lại nơi này sám hối. Chẳng nỡ để tuyệt học thất truyền, lão phu lưu lại bí phổ cho đời sau. Chỉ mong kẻ hậu sinh thụ giáo tuyệt kỹ này trở thành Báo Ứng Lang Quân đệ nhị đại, tạo phúc cho giang hồ. Nhưng nhớ đừng giết oan người vô tội?
Trọng Phú Lan di chí.”
Hoàng Hạc Tú Sĩ Ngũ Di Nghiệp chỉ say mê kiếp thuật nên thờ ơ với quyền chưởng. Vì vậy, Chính Lan cũng chẳng khá hơn. Sau ba năm phiêu bạt, chạm trán nhiều cường địch, chàng thức ngộ rằng chưởng pháp lợi hại chẳng kém gì kiếm thuật. Chàng hiếu kỳ dở chân kinh ra đọc. Bỗng một ý niệm bừng lên khiến chàng choáng váng. Phải chăng Báo Ứng Lang Quân đã tìm ra lối xuất nhập nên mới có giấy mực mà viết di thư và quyển bí kíp này? Lão nhảy xuống vực thẳm tự sát thì làm gì có văn phòng tứ bảo? Chàng hồi hộp lướt nhanh từng trang, đến cuối mới thấy lời ghi chú:
“Sau mười năm rèn luyện chân kinh, đủ sức đánh ra trăm chưởng liên tục thì có thể phối hợp với khinh công mà trở lên miệng vực.”
Chính Lan vô cùng thán phục bản lãnh của Báo Ứng Lang Quân, quyết cố công rèn luyện pho Cuồng Lãng thần chưởng. Chàng đã có hơn sáu mươi năm công lực, chẳng cần phải mất một khoảng thời gian lâu như vậy.
Phần đầu của bí phổ là tâm pháp Đồng Tử Nhất Nguyên Công. Chính Lan đã có vợ nên chẳng thể luyện được, lật qua phần khẩu quyết Cuồng Lãng chưởng pháp và Ngự Phong thân pháp.
* * *
Hơn năm sau, trên bến đò bờ bắc sông Hoài xuất hiện một chàng trai tuổi tam tuần, mặt đẹp như ngọc. Bộ trường bào màu xanh có vẻ cũ kỹ nhưng tấm áo choàng tơ đen trên vai óng ánh như mới dệt xong. Đặc biệt, chàng ta không hề có vũ khí hay hành lý, đôi giầy vải dưới chân đã rách mũi, lộ cả ngón ra.
Chàng ta bước vào tửu quán, gọi một mâm cơm nhỏ và bầu rượu. An xong chàng nhâm nhi chén rượu, nhìn về phía rừng liễu xanh mướt đằng đông. Trời đã vào xuân, tiết trời ấm áp, hoa cỏ tốt tươi và cảnh vật đầy sức sống. Bỗng chàng ta tức cảnh sinh tình, ngâm nga nho nhỏ bài Ức Dương Liễu(11)của Bạch Cư Dị.
“Tằng tài dương liễu Giang Nam ngạn,
Nhất biệt Giang Nam lưỡng độ xuân.
Giao ức thanh thanh giang ngạn thượng,
Bất tri phan chiết hà thị nhân?”(12)
Giọng ngâm quen thuộc kia là của Âu Dương Chính Lan. Chàng đã thoát khỏi vực sâu và tái xuất giang hồ với dung mạo của Báo Ứng Lang Quân Trọng Phú Lan. Thật là tấu xảo khi chàng và Lang Quân lại trùng tên.
Chàng đang trên đường trở lại Nam Kinh sum họp với gia đình. Mất nén vàng mà Báo Ứng Lang Quân để lại không đủ để mua ngựa cỡi, chàng đành đi bộ và ngủ ngoài trời. Sau hơn năm giam mình dưới đấy vực sâu tĩnh mịch, chàng đã có thời gian để suy nghĩ về kiếp nhân sinh, đạo tâm sáng láng hơn xưa nên ung dung trong mọi hoàn cảnh.
Thấy thực khách lục tục đứng lên, Chính Lan biết đò ngang sắp sang đến, bèn tính tiền rồi bước ra.
Chàng mừng rỡ khi thấy Sơn Đông Tử Phòng Từ Kính Nhan. Lão đang đứng chắp tay sau lưng, buồn bã nhìn dòng nước chảy về Đông. Phải chăng lão u sầu về cái chết của Hồng Nhất Điểm?
Thân phụ Từ lão đã thọ ân cứu mạng của Hoàng Hạc Tú Sĩ. Vì vậy, lão theo di mệnh, một lòng trung thành với đồ đệ của Tú Sĩ. Nhưng Chính Lan bỗng nhận ra Từ Kính Nhan không đứng một mình, quanh lão còn có bảy tám cao thủ nữa. Y phục của họ đều giống nhau, đều là võ phục xanh nhạt, lưng thêu đóa hoa sen trắng. Chàng thận trọng dừng bước, không đến nhận người quen nữa. Lát sau, đò ngang cặp bến, Sơn Đông Tử Phòng cùng đám thanh y võ sĩ dẫn ngựa lên thuyền. Lạ lùng thay, chẳng ai dám đồng hành với họ. Thuyền rời bờ, Chính Lan nghe người sau lưng nói với giọng căm hận:
- Bọn Bạch Liên giáo ngày càng lộng hành, thật chướng tai gai mắt. Từ khi Hồng Nhất Điểm đại hiệp tạ thế đến nay, bọn chúng công khai khuynh đảo võ lâm, chẳng coi ai ra gì cả.
Chính Lan quay lại, nhận ra người vừa nói là một chàng trai mập mạp, tuổi độ hai bốn, hai lăm, áo thư sinh vải thô, lưng đeo trường kiếm nhưng tay tả kè kè tráp gỗ. Chính Lan nghe lòng ấm lại khi thấy còn có người mến mộ mình. Chàng mỉm cười hỏi thử:
- Dường như huynh đài có tác phong giống như Âu Dương công tử?
Chàng trai đỏ mặt, ngượng ngùng đáp:
- Tại hạ từ lâu vẫn ngưỡng mộ Âu Dương đại hiệp, cố noi gương người, ăn mặc giản dị và khổ luyện võ nghệ. Mọi người đều chê cười rằng Lâm Chấn Hạo này quá béo, chẳng thể giống được Hồng Nhất Điểm.
Chính Lan nghiêm giọng:
- Bắt chước hình dáng, cử chỉ sao bằng bắt chước nhân phẩm? Quí hồ một lòng giáng ma vệ đạo là đủ rồi.
Lâm Chấn Hạo cười buồn:
- Tiểu đệ hiếu võ nhưng chưa gặp được minh sư, bản lãnh có hạn, làm sao hiên ngang, lẫm liệt như Hồng Nhất Điểm?
Chính Lan bất giác có cảm tình với chàng trai trung hậu này. Họ Lâm cũng vậy, gã vui vẻ hỏi:
- Tứ hải giai huynh đệ, xin huynh đài cho tiều đệ biết tính danh?
Chính Lan mỉm cười:
- Tại hạ là Trọng Phú Lan.
Chấn Hạo thấy chàng rách rưới, lại không hề có hành lý, đoán rằng túi đối phương đang cạn. Gã hòa nhã nói:
- Tiểu đệ sẽ mướn thuyền con sang sông, không chờ đò nữa. Mong Trọng huynh cùng đi cho vui.
Chính Lan nóng lòng trở về nhà nên đồng ý ngay. Đò lớn do quan lại địa phương quản lý, có thể chở được người, ngựa và xe hàng. Còn khách bộ hành, thường vượt sông bằng những chiếc thuyền câu nhỏ của đám ngư dân gần bờ, đương nhiên giá cả đắt gấp ba.
Trong lúc thuyền con sang sông, Chính Lan trò truyện với họ Lâm, được biết gã quê Trường Sa, con út của một nhà đại phú, mê kiếp giang hồ nên bỏ nhà phiêu bạt đã gần năm nay. Chấn Hạo học võ của Động Đình Thần Kiếm, bản lĩnh chỉ ở vào hàng nhị lưu, tam lưu.
Trong cuộc đàm đạo, Chấn Hạo tỏ rõ lòng kính ngưỡng đối với thần tượng Hồng Nhất Điểm. Chính Lan thầm hổ thẹn, bỏ qua chuyện khác:
- Tại hạ mới xuất đạo nên không rõ tình hình võ lâm. Mong các hạ chỉ giáo cho.
Chấn Hạo thở dài kể:
- Ba tháng sau ngày Âu Dương đại hiệp nhảy xuống vực thẳm không đáy ở Vân Mộng sơn. Bạch Liên giáo dương cờ gióng trống, nhanh chóng bành trướng khắp nơi. Nghe nói giáo chủ Bạch Liên giáo là Thái Sơn Phủ Quân, còn ba chức phó dành cho Đào Hoa cung chủ, Phi Hoàn đại lão và Miêu Ưng Lão Tổ. Tháng mười năm ngoái, Âu Dương gia trang ở Nam Kinh đột nhiên phát hỏa. Quan quân kéo đến thì ba trăm mẫu rừng đã biến thành biển lửa.
Chính Lan nghe như sét đánh bên tai, chết điếng người. Lâm Chấn Hạo không nhận ra, tiếp tục nói:
- Cuộc hỏa hoạn đã thiêu hủy mọi dấu vết nên chẳng biết ai còn ai mất, và ai là hung thủ. Có điều, sau đó ít lâu, người ta thấy Hán Trung Tam Ngốc Hiệp, Vô Nhân Kiếm Khách, Sơn Đông Tử Phòng, Lôi Đao… xuất hiện trong hàng ngũ Bạch Liên giáo. Những cao thủ này chẳng hiểu sao lại phục vụ cho những kẻ đã đẩy Hồng Nhất Điểm xuống vực sâu?
Chính Lan giật mình kinh hãi, chìm vào trong suy tưởng, cố giải thích hiện tượng quái dị kia. Chàng hiểu rõ tính tình cương liệt của Lôi Đao Hứa Hoa và Vô Nhân Kiếm Khách Hách Thiết Xuyên. Họ thà chết chứ không chịu nhục. Vậy điều gì đã khiến họ phải hành động như vậy? Phải chăng Bạch Liên giáo đã bắt thê tử chàng làm con tin để uy hiếp họ?
Chính Lan bình tâm lại đôi chút, hỏi họ Lâm:
- Các hạ có biết tổng đàn của Bạch Liên giáo nằm ở đâu không?
Chấn Hạo lắc đầu:
- Đạo quán của Bạch Liên giáo nằm rải rác khắp ba phủ Sơn Đông, Giang Tô, Huy Châu, nhưng chẳng ai biết rõ bộ phận đầu não ở địa phương nào.
Chính Lan thất vọng, thẫn thờ bảo:
- Vậy biết tìm ở đâu bây giờ?
Lâm Chấn Hạo sửng sốt hỏi:
- Chẳng lẽ Trọng huynh lại muốn đối đầu với Bạch Liên giáo?
Chính Lan cười mát:
- Đúng vậy, tại hạ là Báo Ứng Lang Quân, lẽ nào lại để bọn tà ma lộng hành?
Võ lâm cũng như triều đình, đều có người chép sử. Chỉ khác ở chỗ là chốn giang hồ lưu giữ sử sách bằng cách truyền khẩu. Sự tích trong vòng trăm năm vẫn được các bô lão ghi nhớ và kể lại cho bọn tiểu bối. Vì vậy, danh tiếng của Báo Ứng Lang Quân vẫn chưa phai mờ. Trọng Phú Lan chỉ hơn Hoàng Hạc Tú Sĩ có ba mươi tuổi, thành tích lẫy lừng, lẽ nào lại bị lãng quên?
Phàm là người học võ, bao giờ cũng được sư phụ kể lại cho nghe những truyền thuyết võ lâm, đặc điểm các phái, cũng như qui củ giang hồ. Lâm Chấn Hạo cũng trải qua quá trình ấy nên nhận biết ngay. Gã ngẩn người ấp úng:
- Nhưng Báo Ứng Lang Quân đã chết được hơn bảy chục năm rồi mà?
Chính Lan gật đầu:
- Đúng vậy, tại hạ là đời thứ hai.
Chấn Hạo nhìn chàng nghi ngại:
- Nếu quả là đúng thế thì là phúc lớn của võ lâm. Nhưng hiện các hạ có sánh nổi với Âu Dương đại hiệp hay không mà dám đụng đến Bạch Liên giáo?
Lúc này thuyền con đã bắt kịp, đi song song với đò ngang. Chính Lan loáng thoáng nghe một tên trong đám giáo đồ Bạch Liên giáo nói:
- Mẹ kiếp! Chiếc đò quỉ quái này bơi chậm như rùa! Nếu chúng ta không đến được Vu Hồ kịp thời hạn sẽ bị phó giáo chủ phạt nặng đấy!
Tên thứ hai cười nhạt:
- Đến sớm hơn chưa chắc đã là điềm tốt. Bọn Bố Y hội phòng thủ rất chặt chẽ, vào được cũng phải tốn máu xương không ít.
Chính Lan hiểu rằng bọn này đang trên đường đến căn cứ của Bố Y hội ở Vu Hồ. Chàng thắc mắc, không hiểu ai là người lãnh đạo của họ, quyết định đến tận nơi xem thử. Hơn nữa, họ vốn là thuộc hạ của chàng, chẳng thể để đám hào kiệt ấy lâm nguy được.
Thuyền con vượt lên, cặp bờ nam trước đò ngang. Chính Lan vòng tay nói:
- Cảm tạ Lâm các hạ đã cho quá giang. Xin cáo biệt.
Lâm Chấn Hạo vội nói:
- Trọng huynh định đi đâu?
Chính Lan nghiêm giọng:
- Bạch Liên giáo đang chuẩn bị tấn công căn cứ Bố Y hội ở Vu Hồ. Tại hạ muốn đến đấy giúp họ một tay.
Lâm Chấn Hạo là con nhà đại phú, thế mà không chịu an hưởng cảnh giàu sang cũng do lòng hiếu sự và khao khát dọc ngang. Nay gặp được một nhân vật bí ẩn, gã chẳng thể bỏ qua, liền ấp úng nói:
- Mong Trọng huynh cho tiểu đệ theo cùng. Tiểu đệ tuy bất tài nhưng không biết sợ chết là gì.
Chính Lan cảm động, gật đầu:
- Nếu các hạ đã có lòng giáng ma vệ đạo, tại hạ xin tuân mệnh.
Chấn Hạo phấn khởi kéo Chính Lan vào Hoài Nam trấn mua hai con tuấn mã. Họ phi nước đại về hướng tây nam, cố đến Vu Hồ thật sớm.
Ba hôm sau, đúng ngày rằm tháng ba, hai người đến trấn Vu Hồ. Ăn tối xong, Chấn Hạo mua ít đồ nhắm và rượu ngon, gởi ngựa rồi cùng Chính Lan đến khu rừng đào cạnh hồ.
Chính Lan phi thân một vòng xem phe Bạch Liên giáo đã có mặt chưa. Nhưng có lẽ chưa đến ngày nên chẳng có mống nào. Chàng yên tâm trở lại với Chấn Hạo. Chính Lan dõi mắt nhìn hòn đảo giữa hồ, đoán rằng sau đám liễu dày kia là căn cứ của Bố Y hội.
Từ bờ đến đảo xa hàng dặm, muốn thông báo cũng chẳng có cách nào. Chính Lan đành nằm lại chờ đợi. Anh tà dương mùa xuân đỏ rực, xuyên qua cành là soi rõ gương mặt thuần hậu, thiện lương của Chấn Hạo. Chàng cảm thấy gã chính là hình ảnh mình ngày mới xuất đạo. Chính Lan chợt nảy sinh ý định tài bồi cho họ Lâm. Chàng hỏi gã:
- Lâm lão đệ sở đắc những tuyệt học nào?
Chính Hạo bẽn lẽn đáp:
- Tiểu đệ học được sáu thành pho Hoa Sơn kiếm pháp và vài chiêu quyền cước.
Động Đình Thần Kiếm vốn là đệ tử tục gia của phái Hoa Sơn.
Chính Lan mỉm cười:
- Lão đệ thử trổ tài cho ta được mở rộng thêm kiến văn.
Thấy chàng xưng hô thân mật, Chấn Hạo dạn dĩ hơn, rút kiếm thi triển ba mươi sáu chiêu kiếm.
Phái Hoa Sơn phát nguyên từ phái Toàn Chân, cũng nằm trong hệ thống đạo giáo. Thái Chân kiếm pháp của Hoàng Hạc Tú Sĩ là tuyệt học của Mã Ngọc chân nhân đại đệ tử của Vương Trùng Dương giáo chủ của Toàn Chân đáng được coi là võ thuật chính thống. Vì vậy, Chính Lan thấy hết những sơ hở của pho Hoa Sơn kiếm pháp kia. Dẫu sao, thiên bẩm của Hách Đại Thông sư tổ phái Hoa Sơn cũng không bằng đại sư huynh Mã Ngọc. Hai người cùng ở trong Toàn Chân thất tử nhưng căn cơ khác xa nhau.
Tuy Mã Ngọc chết sớm, giáo phái tan tác nhưng sở học của ông vẫn được lưu truyền cho đến đời Chính Lan. Chàng bèn chỉ điểm, bổ khuyết những khiếm khuyết cho Lâm Chấn Hạo. Chàng kiên nhẫn giảng giải từng chiêu, nên đến nửa đêm kiếm thuật của họ Lâm đã hoàn bị hơn trước. Gã mừng rỡ khôn cùng, say sưa luyện tập dưới ánh trăng vàng, cuối canh tư mới chịu lăn ra ngủ.
Sáng ra, Chấn Hạo chạy bổ vào trấn mau mấy mòn điểm tâm và rượu thịt, cung phụng cho sư phụ. Gã nhìn chàng bằng cặp mắt kính ngưỡng:
- Trọng huynh quả là bậc kiếm tiên, tiểu đệ học nửa ngày đã tiến bộ bằng mấy năm khổ luyện.
Thực ra, gã chẳng quá lời, vì kiếm pháp có quá nhiều sơ hở, luyện hoài cũng thế thôi. Động Đình Thần Kiếm mở võ trường để mưu sinh, đệ tử đông hàng trăm, làm sao dạy cho chu đáo từng người được?
Chính Lan thấy họ Lâm to béo phục phịch, bộ pháp chậm chạp, liền dạy cho gã một đoạn khẩu quyết trong pho Hoàng Hạc Khinh Vân, chàng dùng kiếm đánh dấu những bộ trên mặt đất bắt gã phải bước theo càng lúc tốc độ càng nhanh. Lâm Chấn Hạo hiếu võ thành tật nên chuyên cần luyện đến bở hơi tai, cuối cùng cũng nắm được yếu quyết của bộ pháp. Chính Lan hài lòng bảo:
- Nếu Lâm lão đệ chú tâm khổ luyện, muốn bảo toàn mạng sống cũng chẳng khó gì.
Đêm xuống, trăng mười sáu trải ánh sáng trên mặt hồ, gió xuân hiu hiu làm gợn sóng, trông như hàng ngàn con rắn bạc. Chính Lan buồn bã nhìn vầng nguyệt lơ lửng trên mặt nước mênh mông, nhớ đến thê tử sống chết phương nào chưa rõ. Chàng đau lòng khôn xiết thở dài, gởi gắm nhớ thương vào bài Vọng Nguyệt Hoài Viễn(13)của Trương Cửu Linh:
“Hồ thượng sinh minh nguyệt
Thiên thai cộng thử thì
Tình nhân oán dao dạ
Cảnh tịch khởi tương tư
Diệt chúc liên quang mãn
Phi y giác lộ ti
Bất kham danh thủ tặng
Hoàn tẩm mộng giai kỳ.”(14)
Lâm Chấn Hạo cũng được học hành đàng hoàng nên hiểu được tình cảm của Chính Lan. Gã rụt rè hỏi:
- Phải chăng Trọng huynh nhớ nhung hình bóng mỹ nhân nơi quê nhà?
Chính Lan gượng cười, không đáp và bảo gã:
- Lâm lão đệ, chúng ta tìm cách vào đảo thôi. Bờ hồ quá rộng, biết bọn Bạch Liên giáo đến từ hướng nào?
Chấn Hạo tán thành:
- Trọng huynh yên tâm. Lúc chiều, tiểu đệ đã ghé nhà lão ngư phủ hỏi mướn thuyền. Nơi ấy cách đây không xa.
Hai người đi về hướng tây, lát sau đã đến một túp chòi lá ven hồ. Chấn Hạo đưa lão chủ thuyền hai chục lượng bạch ngân, vui vẻ dặn dò:
- Nếu chúng ta không trở lại trả thuyền, lão cứ việc mua chiếc thuyền mới mà sử dụng.
Số bạc này gấp đôi trị giá chiếc thuyền câu nên lão dân chài này rất hoan hỉ, thầm vái hai vị thượng khách chết mất xác cho xong.
Chính Lan và Chấn Hạo chèo nhanh về phía hòn đảo giữa hồ. Vừa được hơn nửa chặng đường đã nghe tiếng quát tháo ở phía đông. Chính Lan chèo nhanh về hướng ấy, nhận ra hai mươi chiếc thuyền dài đang tiến đến đảo, và đang bị các cung thủ Bố Y hội bắn chặn. Ngoài tên thường họ còn dùng loại tên có quấn vải tẩm dầu ở mũi để đốt thuyền của Bạch Liên giáo. Những mũi tên ấy bay vun vút như dệt lưới, nên đã có ba chiếc thuyền bốc cháy, và mười mấy gã thanh y trúng tên, gào lên thảm khốc. Nói chung, người trên đảo nhờ thuật xạ tiễn điêu luyện đã chặn được bước tiến của đối phương.
Nhưng bất ngờ nhà cửa trên đảo bốc cháy ngùn ngụt. Chính Lan than thầm, đoán rằng Bạch Liên giáo đã gài nội ứng vào Bố Y hội. Đám cháy đã khiến người trên đảo phải phân tán lực lượng để cứu hỏa. Vì vậy, phòng tuyến mỏng đi. Phe Bạch Liên giáo thừa cơ tiến lên.
Chính Lan nghe tiếng chim ưng đập cánh trên cao, ngẩng đầu nhìn lên, nhận ra tám con thần điêu khổng lồ của Đào Hoa cung đang bay vút về phía đảo và sắp hạ cánh. Các cao thủ Bố Y hội vội dương trường cung bắn chặn. Nhờ vậy, mười mấy chiếc thuyền kia đến được mép đảo. Chính Lan kinh hãi đốc thúc Chấn Hạo chèo nhanh. Hai người đặt chân lên đảo thì Bố Y hội đã rút vào trung tâm cố thủ. Chính Lan nóng ruột nắm tay Chấn Hạo kéo đi như bay, tìm đến nơi đang vang lên tiếng reo hò, và lửa cháy rực trời.
Cuộc chiến đang diễn ra quanh một tòa thạch thất rất kiên cố, hình dáng kỳ lạ. Nó không vuông vức mà lại được xây thành hình bát giác, tường vây bên ngoài bằng đá, chỉ thấp ngang ngực người. Nhờ có chỗ ẩn thân kín đáo, hơn trăm cao thủ Bố Y hội cầm chân được đối phương.
Nhưng ở hướng chính nam, một nhóm người đang tiến lên như vũ bão. Chính Lan nhận ra Phi Hoàn đại lão và bảy lão nhân lùn của Đào Hoa cung. Hôm nay họ mặc võ phục vàng, ngực thêu đóa sen trắng lớn bằng hai bàn tay. Riêng Phi Hoàn đại lão có thêm ngân khôi trên tóc. Song hoàn và bảy thanh tiểu kiếm vun vút dệt lưới loang loáng dưới ánh lửa rực rỡ của đám cháy. Có bốn năm căn nhà gỗ gần thạch thất đang phát hỏa.
Chính Lan thấy họ sắp đến gần phòng tuyến của Bố Y hội, liền gầm lên:
- Có Báo Ứng Lang Quân đến đây.
Dứt lời, thân hình chàng lướt tới, đánh thủng hàng ngũ Bạch Liên giáo. Song thủ chàng tung ra hàng loạt chưởng kình liên tiếp, đánh văng thân thể những gã cản đường. Tiếng gào thét rên la vang dội cả mặt hồ.
Tám lão ma đầu kinh hãi quay lại chặn đánh chàng trai lạ mặt. Lý Hiểu Lộ phóng đôi song hoàn, tấn công từ xa. Chính Lan dùng thế Nhất Hạc Xung Thiên quen thuộc, bốc cao hai trượng, xuất chiêu Cuồng Lãng Trầm Chu. Không phải hai chưởng mà là mười tám đạo chưởng phong nối tiếp nhau như sóng dữ. Phép đánh khoái chưởng nhanh như chớp giật này khiến đại lão chới với, trúng liền hai đòn vào ngực, máu phun thành vòi. Bảy lão lùn Đào Hoa cung vội hợp chưởng tấn công Chính Lan. Chưởng phong có màu hồng nhạt của Đào Hoa Mê Tâm chưởng pháp bảy đạo chưởng kình hội tụ vào thân chàng, mãnh liệt như cuồng phong.
Chính Lan vỗ mạnh song chưởng vào khoảng không, dùng Ngự Phong Thân Pháp bốc lên cao thêm nửa trượng nữa, thoát khỏi phạm vi của lưới chưởng, và không chờ đối phương kịp đổi hơi, chàng lao xuống xuất chiêu Thăng Thượng Hoa Phi. Ba mươi sáu đạo chưởng kình liên tiếp giáng xuống như búa bổ, vỗ trúng ngực ba lão tống hôn sứ giả.
Cuồng Lãng Thần Chưởng ảo diệu ở chỗ hư thực khó phân. Trong ba mươi sáu đạo chưởng kình kia, nặng nhẹ hoàn toàn khác nhau, được đánh ra với tốc độ cực nhanh nên đối phương không tài nào phán đoán nổi. Ba lão già tội nghiệp kia rú lên thảm thiết, lăn lông lốc như trái cầu, chết không kịp trối.
Bốn lão sứ giả còn lại và Phi Hoàn đại lão trợn mắt kinh hoàng trước bản lình thần sầu quỉ khốc của người lạ mặt. Họ nhảy lùi lại quát hỏi:
- Ngươi là ai mà dám giả dạng Báo Ứng Lang Quân?
Chính Lan cười nhạt:
- Bổn nhân là đệ nhị đại của Lang Quân, có trọng trách tiêu diệt sạch bọn tà ma như lũ ngươi.
Nói xong, chàng vung chưởng đánh liền. Lúc này phe Bố Y hội đã thừa thế phản công. Lâm Chấn Hạo cũng sát cánh với họ. Phe Bạch Liên giáo thiếu cao thủ chủ chốt nên bị áp đảo.
Sơn Đông Tử Phòng câm như hến vung kiếm tấn công những người anh em cũ. Thanh Long Trảo Đặng Tân Dụ biết lão ta bị ép buộc nên chẳng nỡ xuống tay, chỉ tìm cách bắt sống.
Cả Thiểm Điện Thần Kiếm Đỗ Vĩnh Huy, Thiên Thủ Thư Sinh Trân Dật, Giang Tây Thần Bộ Trịnh Thiều cũng có mặt ở đây.
Họ Trân thấy Sơn Đông Tử Phòng đang đánh với Thanh Long Trảo, liền lén phóng một viên thiết liên tử vào huyệt Ngưu Tỵ ở đầu gối phải của lão. Họ Từ khụy xuống, bị Thanh Long Trảo điểm huyệt, vác vào thạch thất.
Nhắc lại, Chính Lan dở pho Cuồng Lãng Thần Chưởng đấu với năm lão ma đã hơn trăm chiêu mà vẫn chưa giết được ai. Đối phương sợ hãi chàng nên dùng phép du đấu, tránh đòn trực diện và tấn công sau lưng.
Chính Lan thầm tính toán, xông vào Phi Hoàn đại lão. Họ Lý vội nhảy lùi, để bốn lão sứ giả tập kích hậu tâm Chính Lan. Nhưng việc tấn công đại lão chỉ là động tác giả, chưởng kình rất yếu ớt. Thực lực dồn cả vào song cước đưa chàng bay ngược về sau bọn sứ giả. Với vị trí thuận lợi này, Chính Lan xuất chiêu Lãng Đả Quần Thạch, hàng loạt chưởng kình như sóng dữ vỗ vào đầu đối phương. Bốn lão lùn trúng đòn gục ngã, xương đầu vỡ vụn.
Phi Hoàn đại lão hồn phi phách tán, co chân đào tẩu nhưng đã bị Chính Lan chặn đầu. Chàng cười lạnh lẽo bảo:
- Lý Hiểu Lộ, trước khi nhắm mắt lão sẽ biết ta là ai.
Dứt lời, chàng xuất chiêu Điệp Lãng Xuyên Sơn, chưởng kình thu gọn, nối nhau khoan vào màn hắc ảnh của song hoàn. Đôi vòng sắt bật khỏi tay đại lão, nhường đường cho một mũi tên máu bắn vào mắt lão, xuyên thủng não bộ. Công phu này đã tố cáo lai lịch của Chính Lan, nhưng họ Lý đã chết, chẳng thể khai báo với ai được nữa.
Chính Lan xoay qua hỗ trợ bọn Bố Y hội kết liễu chiến trường. Hơn trăm gã đao thủ Bạch Liên giáo đều chết sạch.
Bọn Thanh Long Trảo kéo đến tạ ơn tương trợ. Chính Lan nhìn những gương mặt thân quen, lòng bồi hồi xúc động. Nhưng chàng chưa dám nhận họ mà hỏi ngay:
- Chư vị tìm ra kẻ nội gián đã phóng hỏa chưa?
Thanh Long Trảo ngượng ngùng:
- Bẩm đại hiệp chưa ạ?
Chính Lan nghiêm giọng:
- Nếu không tìm ra kẻ ấy thì đừng mong gì chống lại Bạch Liên giáo.
Giang Tây Thần Bộ Trịnh Thiều nghiến răng đáp:
- Đại hiệp dạy rất phải, tại hạ thề sẽ lôi cổ tên khốn khiếp ấy ra ánh sáng.
Chính Lan sợ Bạch Liên giáo dùng con tin để uy hiếp nên tuyệt đối không dám tiết lộ lai lịch. Trong thân phận Báo Ứng Lang Quân, chàng dễ đối phó với chúng hơn. Chàng lạnh lùng nói:
- Tại hạ tình cờ đi ngang đây, thấy bọn Bạch Liên giáo đáng ghét nên ra tay tiêu diệt, giờ xin cáo biệt.
Bọn Bố Y hội thấy võ nghệ của chàng còn cao siêu hơn cả Chính Lan, lòng vô cũng kính phục, hết lời cảm tạ chàng và Lâm Chấn Hạo.
Họ Lâm đắc ý phi thường vì có dịp được dương danh. Đồng thời trong trận vừa qua, gã thấy bản lĩnh mình lợi hại hơn hẳn, lòng vô cùng khoan khoái. Cả năm nay gã chỉ dám trừng trị vài gã lưu manh, vô danh tiểu tốt, giờ giết được đến bảy tám tên đao thủ Bạch Liên giáo, bảo sao gã không hoan hỉ?
Chấn Hạo vui vẻ nói:
- Tại hạ và Trọng huynh đã thề sẽ quét sạch tà ma, nếu chư vị biết tổng đàn của Bạch Liên giáo ở đâu xin chỉ giáo cho.
Thanh Long Trảo buồn rầu đáp:
- Bọn lão phu tìm kiếm đã lâu nhưng không thành công, có lẽ phải nhờ đến Cái bang mới được.
Chính Lan nhân dịp ấy dọ hỏi:
- Chư vị tìm tổng đàn Bạch Liên giáo làm gì? Tại hạ mới hạ sơn nên không rõ ân oán giang hồ.
Đặng lão bùi ngùi kể:
- Hội chủ của bổn hội là Hồng Nhất Điểm đại hiệp, tên gọi là Âu Dương Chính Lan. Hơn năm trước, người đến Bắc Kinh tiêu diệt bọn Ngụy Trung Hiền, cứu nguy cho xã tắc. Chính Lan thọ thương trậm trọng, trên đường về bị bọn đầu sỏ Bạch Liên giáo bây giờ phục kích, bỏ mạng dưới vực sâu. Sau đó, đối phương tập kích Âu Dương gia trang, dùng chim ưng rải độc phấn, bắt sống được toàn bộ gia quyến của Chính Lan. Bọn lão phu ngày đêm tìm kiếm nơi giam giữ để cứu họ ra.
Thiên Thủ Thư Sinh Trân Dật nhăn nhó, tiếp lời:
- Đáng sợ nhất là việc Bạch Liên giáo đã dùng các con tin cưỡng bách những người thân của bọn tại hạ trở thành kẻ thù, trở kiếm chống lại anh em.
Chính Lan cố nén thương tâm, hỏi thêm:
- Chẳng lẽ chẳng một ai thoát khỏi trận tập kích ấy?
Giang Tây Thần Bộ Trịnh Thiều lúng túng nhìn quanh, thấy chỉ toàn những người thân thiết, liền hạ giọng:
- Đại hiệp có ân lớn, bọn tại hạ chẳng dám giấu diếm, chỉ mong người giữ kín dùm cho. Quả thực có một người thoát khỏi vòng vây, nhảy xuống Trường giang tìm đến Quí gia trang.
Chính Lan vui mừng khôn xiết, cố tỏ vẻ lãnh đạm:
- Đã có nội gián trên đảo, việc ấy đâu còn gì bí mật nữa?
Đỗ Vĩnh Huy biện bạch:
- Đại hiệp lầm rồi, việc này chỉ có vài người biết thôi. Người ấy được đưa đến đây, giấu vào mật thất trước khi Bố Y hội tụ quân.
Té ra trong tòa thạch thất kia có hầm ngầm. Chàng hài lòng, hờ hững hỏi:
- Thế người ấy là ai?
Thanh Long Trảo thì thầm:
- Ngũ phu nhân Liễu Thi Mạn. Nàng quen với chất độc nên không bất tỉnh ngay, kịp phá vòng vây chạy về phía bò sông. Dù bị trúng một chưởng vào lưng nhưng vẫn về đến Quí gia trang mới gục ngã.
Trịnh Thiều buồn bã tiếp lời:
- Tiếc rằng phu nhân cứ mãi mê man, cơ thể ngày càng hư nhược.
Chính Lan biến sắc, nhưng nhờ mang mặt nạ nên không ai phát hiện. Chàng nói thật chậm để không run giọng:
- Tại hạ có học qua y đạo, chữa trị được tất cả các loại chưởng thương. Nếu chư vị thấy cần, tại hạ sẽ ra tay cứu ngũ phu nhân.
Bốn người nhìn nhau ái ngại, sợ câu nam nữ hữu biệt. Trân Dật bi phẫn bảo:
- Chẳng lẽ vì chút tiểu tiết mà để ngũ phu nhân phải chết oan? Chính Lan là người độ lượng, chắc ở chốn suối vàng cũng hiểu cho bọn ta.
Ba người tán thành, Thanh Long Trảo vội nói:
- Lão phu cùng Trân lão đệ, Đỗ lão đệ ra tập họp anh em, trước là để kiểm tra thương vong, sau là để giữ bí mật việc trị thương. Trịnh đệ mau đưa Trọng đại hiệp vào thạch thất.
Chấn Hạo đi theo bọn Thanh Long Trảo vì không tiện đến nơi cấm địa. Giang Tây Thần Bộ đưa Chính Lan vào trong. Nửa ngoài là khách sảnh, ngăn với phần sau bởi một bức vách dày. Chính Lan hiếu kỳ hỏi:
- Đây là cơ ngơi của ai mà kiểu dáng kỳ lạ vậy?
Trịnh Thiều vội đáp:
- Bẩm đại hiệp, mười năm trước Bát Quái môn đặt căn cứ ở nơi đây. Tà phái này thường bắt cóc trinh nữ để hiến tế nên bị quân triều đình tiêu diệt. Tại hạ từng được tri phủ Giang Tây cử sang phối hợp với lực lượng bộ đầu An Khánh để điều tra, nhờ vậy mới biết rõ nơi đây.
Trịnh Thiều móc chìa khóa mở cánh cửa thép dày, vào rồi khóa lại ngay. Khu trong bày biện như khuê phòng của nữ nhân. Có giường hoa, có bàn phấn và kệ sách.
Họ Trịnh bước đến trước kệ sách, rút ra vài quyển rồi thò tay vào ấn một nút bí mật nào đấy. Chiếc giường trải nệm gấm kia tự động chạy sang một bên, để lộ nắp hầm. Xuống hết mười bậc thang, gã lại mần mò điều động cơ quan, nắp hầm sập xuống và có tiếng di chuyển về chỗ cũ của chiếc giường bên trên.
Chính Lan vô cùng thán phục người đã thiết kế ra cơ quan tinh xảo này. Căn hầm có kích thước rộng như tòa nhà bên trên, trần được chống đỡ bằng cột đá xây vững chắc. Chính Lan ngước lên, nhận ra một khe hở rộng hai gang chạy suốt nóc hầm. Gió và ánh sáng lọt vào từ đây. Té ra bức tường ngăn phía trên là hai lớp song song. Ngay dưới đường thông gió ấy có một chiếc giường gỗ. Người đang nằm thiêm thiếp chính Liễu Thi Mạn. Còn cô gái ngồi cạnh giường chẳng ai khác hơn Miêu nữ Tiểu Cúc tỳ nữ của nàng.
Chính Lan thắc mắc:
- Cô bé kia là ai vậy?
Trịnh Thiều bỗng đỏ mặt, ngượng ngùng:
- Nàng ta là Tiểu Cúc, tỳ nữ của ngũ phu nhân. Đêm ấy, nàng sang Quí gia trang thăm tại hạ nên không có mặt ở nhà. Nhờ vậy, mới có người chăm sóc ngũ phu nhân.
Chính Lan hiểu ngay họ Trịnh yêu thương nàng Miêu nữ kia nên lén lút hẹn hò.
Tiểu Cúc thấy người lạ vào, vội đứng lên. Bụng nàng nhô cao và cũng là lý do vì sao Giang Tây Thần Bộ đỏ mặt. Nếu là lúc khác, Chính Lan đã buông lời chọc ghẹo họ Trịnh. Nhưng giờ đây chàng đang bồi hồi, lo lắng cho Thi Mạn, nên chẳng nói gì, ngồi xuống mép giường thăm mạch. Chàng cau mày bảo Tiểu Cúc:
- Cô nương hãy lật sấp bệnh nhân, vén lưng áo nàng lên cho ta xem thử?
Tiểu Cúc là người Miêu nên không câu nệ lễ nghi, mau mắn làm theo lời chàng. Trịnh Thiều thở dài, bỏ lên trên, phó mặc cho số phận.
Chính Lan đã nhận ra lai lịch của chưởng thương. Tuyệt kỹ Tỳ Bà Am Thủ này là của Độc Giác Thần Ma tức Thái Sơn Phủ Quân Vũ Diên. Chàng suy nghĩ, cân nhắc một lúc lâu, cởi hết áo Thi Mạn ra, xoa bóp hai mươi bốn huyệt đạo trước sau. Luồng chân khí hùng hậu của chàng làm sống lại đường kinh mạch sắp khô cứng, giúp chân khí của Thi Mạn từ từ lưu chuyển. Chính Lan lại nhờ Tiểu Cúc giữ nàng ngồi lên để chàng truyền nội lực.
Nửa canh giờ sau, mồ hôi Chính Lan toát ra như tắm nhưng khí huyết của bệnh nhân đã điều hoà, mặt thoáng sắc hồng. Chỉ cần tĩnh dưỡng mươi hôm, Thi Mạn sẽ hồi phục như xưa.
Chính Lan bảo Tiểu Cúc:
- Cúc nhi, ngươi mặc lại áo cho phu nhân đi.
Còn chàng bước xuống giường ngồi cạnh vách tĩnh tọa. Khi chàng mở mắt ra thì chung quanh có năm người đang chờ đợi. Nghĩa là có thêm Sơn Đông Tử Phòng Từ Kính Nhan. Họ sụp xuống vái lạy:
- Ơn cứu tử ngũ phu nhân, bọn tại hạ nguyện làm thân khuyển mã để đáp đền.
Chính Lan bình thản đáp:
- Chút công lao nhỏ mọn, chẳng đáng để chư vị bận tâm, xin mời đứng lên.
Sơn Đông Tử Phòng nghiêm giọng:
- Đại hiệp là truyền nhân của Báo Ứng Lang Quân, chắc là một lòng vì võ lâm mà càn quét tà ma. Bọn lão phu muốn tôn người là hội chủ Bố Y hội để tiêu diệt Bạch Liên giáo, mầm đại họa của võ lâm.
Chính Lan mỉm cười:
- Chắc các vị muốn lợi dụng ta để báo thù cho Hồng Nhất Điểm chứ gì?
Từ lão không hề bối rối, gật đầu ngay:
- Đại hiệp đoán không sai, nhưng thực ra hai bên cùng có lợi. Nếu đại hiệp cứu được thân quyến của Âu Dương công tử, bọn lão phu xin dâng năm vạn lượng hoàng kim còn như giết luôn được ba lão Thái Sơn Phủ Quân, Đào Hoa cung chủ, Miêu Ưng Lão Tổ sẽ được thêm hai vạn lạng vàng cho mỗi thủ cấp.
Số vàng khổng lồ kia quả là vô cùng hấp dẫn, khó ai cưỡng lại được. Chính Lan đoán ngay Quí Thành Lâm là hậu thuẫn cho bọn họ. Chàng cười mát:
- Còn chư vị sẽ khoanh tay chờ kết quả hay sao?
Đỗ Vĩnh Huy nóng nảy đáp:
- Làm gì có chuyện ấy, bọn tại hạ sẽ giao sinh mạng mình cho đại hiệp sai phái, dẫu chết cũng chẳng sờn lòng.
Chính Lan gật gù:
- Thế thì được, tại hạ sẽ suy nghĩ về đề nghị của chư vị. Nhưng trước tiên xin cho biết kế hoạch hành động trước đã.
Từ lão vuốt râu đáp:
- Hòn đảo này có vị trí rất tốt, nếu phòng thủ chu đáo hơn bọn Bạch Liên giáo khó mà vào được. Nay nội gián chưa tìm ra có dọn đi nơi khác cũng vô ích. Chờ ngũ phu nhân bình phục, chiêu mộ lại đàn độc phong đang tản mác quanh nhà cũ, nơi này càng vững chắc hơn. Thứ hai, bọn lão phu sẽ phong tỏa căn cứ, không cho ai ra cả, như vậy Bạch Liên giáo sẽ không biết rõ nội tình, tất kéo quân đến một lần nữa. Chúng ta dùng kế dĩ dật đãi lao, nắm chắc phần thắng lợi.
Chính Lan im lặng tán thành và tò mò hỏi:
- Vì sao các hạ lại không rời bỏ Bạch Liên giáo sớm hơn?
Từ Kính Nhan thở dài:
- Lão phu và bọn Hách Thiết Xuyên đâu biết rằng ngũ phu nhân còn sống và anh em Bố Y hội tụ họp nơi này, nên đành nhẫn nhục chịu sự khống chế, chờ cơ hội cứu gia quyến của Âu Dương công tử.
Chính Lan vẫn còn thắc mắc:
- Vì sao Bạch Liên giáo không giết hết con tin mà lại lưu lại làm gì? Võ công của bọn Lôi Đao, Thiết Xuyên đâu đáng để Bạch Liên giáo phải nhọc công lôi kéo?
Sơn Đông Tử Phòng ngượng ngùng thú nhận:
- Đại hiệp luận việc rất chính xác. Bạch Liên giáo giữ lại con tin để sau này uy hiếp Hỏa chân nhân Tây Môn Nhỉ. Ông ta đã bất ngờ đào tẩu giữa đường và hăm dọa sẽ kéo Hỏa giáo ở Tây Vực vào Trung Nguyên. Hỏa khí của họ vô cùng lợi hại, vì vậy Thái Sơn Phủ Quân không dám đụng chạm đến con tin, và giữ kín hạ lạc tổng đàn.
Chính Lan yêu thương Hỏa chân nhân, xem ông như cha mẹ ruột của mình, nên rất hân hoan. Chàng vui vẻ nói:
- Nếu đúng như vậy thì giờ này Hỏa chân nhân đã sắp vào đến Trung Nguyên, chúng ta không đơn độc nữa rồi.
Bỗng chàng trở nên tư lự, im lặng rất lâu và tuyên bố:
- Tại hạ sẽ ở đây cho đến lúc ngũ phu nhân bình phục, sau đó sẽ trả lời dứt khoát.
Cả bọn rời mật thất, trở lên mặt đất. Chính Lan và Lâm Chấn Hạo được bố trí ở ngay trong khách sảnh tức nửa ngoài của tòa nhà bát giác.
Sáng mười tám tháng ba, Sơn Đông Tử Phòng đến bàn bạc với Chính Lan:
- Muốn tìm ra nội gián, phải mời cho được Ma Nhãn đầu đà Nhiếp Văn Sở ở Mỹ Nhân Cốc, cạnh dòng sông Ô Giang. Lão ta có thuật nhiếp hồn rất cao cường, hỏi ai cũng lòi ra sự thật. Ngoài ra, lão còn thiện nghề độc dược, rất có ích cho chúng ta.
Chính Lan có biết nhân vật tà quái ấy, chàng cười bảo:
- Chưa chắc vàng ròng đã thu phục được Ma Nhãn đầu đà, ta sẽ cùng đi với Từ các hạ.
Từ lão cũng có ý ấy, mừng rỡ chấp thuận ngay. Hai người lên thuyền con rời đảo, vào trấn lấy ngựa của Chính Lan và Lâm Chấn Hạo, đi về hướng đông.
Trên đường đi, Từ lão kể lể:
- Ma Nhãn đầu đà vốn là người dân tộc Xá, tướng mạo cổ quái, xấu xí nên mặc cảm, ít khi ra khỏi Mỹ Nhân Cốc.
Chính Lan bật cười:
- Lão ta như vậy sao lại đặt tên nơi ở là Mỹ Nhân Cốc?
Từ Kính Nhan giải thích:
- Thứ nhất trước cửa cốc có một ngôi mộ cổ bằng đá, trên bia có khắc độc một chữ Ngu. Thứ hai, dân gian vùng Ô giang có truyền tụng rằng Hạng Vũ đã đem xác Ngu Cơ Từ Chi Hạ theo mình, lúc cùng đường mới chôn nàng ở sơn cốc, và ngôi mộ cổ kia chính là của Ngu Cơ. Vì vậy, sơn cốc kia được gọi là Mỹ Nhân cốc đã hàng trăm năm nay. Khi Ma Nhãn đầu đà chọn nơi ấy làm chỗ ẩn cư thì vẫn giữ nguyên tên cũ.
Trưa hôm sau, Chính Lan và Sơn Đông Tử Phòng đến Mỹ Nhân cốc. Quả nhiên, ngay mé hữu của cốc là một ngôi mộ cao hơn đầu người, chung quanh cỏ mọc đầu, kẽ đá kín rêu xanh. Lạ lùng thay, dưới gốc hàng liễu gìa có cột đàn ngựa độ bảy con. Và trong cốc vọng ra tiếng quát tháo, tiếng rên la. Hai người vội xuống ngựa, lướt vào bên trong. Trước mặt họ là bãi chiến trường khốc liệt giữa một tăng nhân tóc dài cổ đeo vòng niệm châu tay cầm thiền trượng với sáu lão già mặc Miêu phục, sử dụng Miến Đao. Đứng vòng ngoài là một bà lão người Miêu gầy như que củi. Cuộc chiến vẫn quân bình nên Chính Lan và Từ lão ẩn sau một bụi cây quan chiến. Người lão luyện giang hồ chẳng bao giờ vội vã can thiệp khi chưa thật cần thiết. Từ Kính Nhan hạ giọng:
- Sáu lão già mặc Miêu phục kia chính là Nam Hoang lục tà. Không hiểu họ có oán thù gì với Ma Nhãn đầu đà mà lại đến đây?
Chính Lan gật gù tán thưởng thần lực và pho trượng pháp ảo diệu của Ma Nhãn đầu đà. Bản lãnh họ Nhiếp có thể so với Hỏa chân nhân Tây Môn Nhỉ. Một mình lão tả xung hữu đột giữa vòng vây của lục tà mà chẳng hề nao núng. Bỗng bà lão người Miêu mặc y phục xanh đỏ diêm dúa kia cười lên the thé:
- Nhiếp Văn Sở, hai mươi năm không gặp, xem ra lão tiến bộ hơn xưa. Nhưng bổn động chủ sẽ cho lão nếm mùi bảo bối.
Dứt lời, từ trong ống tay áo mụ ta bay ra hai con rết có cánh, thân dài ba gang, lưng đen bụng đỏ. Cặp rết giương đôi cánh bay vào trận, phủ sương độc xuống đầu Ma Nhãn đầu đà. Lão ta có vẻ úy kỵ chất độc kia, vung trượng cố đánh bạt đi. Sơn Đông Tử Phòng thấy cặp rết bay, nhận ra lai lịch đối phương.
Lão nhăn mặt bảo:
- Té ra mụ già kia là Ngô Công động chủ ở Nam Lĩnh. Mụ ta nổi danh vua độc vật ở Miêu Cương. Phen này Ma Nhãn đầu đà nguy rồi.
Chính Lan từng được nghe Liễu Thi Mạn kể chuyện đất Miêu nên biết cả bảy người kia. Nam Hoang lục tà tàn ác hại người, có giết đi cũng chẳng sao.
Nhưng Ngô Công động chủ Bội Liên kia lại là cháu ruột của Kim Xà phu nhân sư phụ Thi Mạn. Bà ta tính tình kiêu ngạo, lạnh lùng nhưng không có ác tính gì cả. Nếu chàng nói ra lai lịch thì Ngô Công động chủ sẽ rút lui ngay, nhưng chàng lại không dám. Giữ kín thân phận là điều kiện tiên quyết để đối phó với Bạch Liên giáo.
Lúc này, Ma Nhãn đầu đà đã yếu thế, trúng một đao vào vai trái. Chính Lan không dám chần chừ, lướt nhanh vào trận. Trước tiên, chàng vung chưởng đánh văng cặp Tứ Dực Ngô Công đi. Chưởng kình nặng như búa bổ khiến đôi rết đau đớn và sợ hãi, bay về với chủ nhân.
Kế đó, Chính Lan bốc thẳng lên không trung, giáng chưởng xuống đầu ba lão trong lục tà. Chiêu Hải Thượng Hàng Long chỉ gồm chín đạo chưởng phong nhưng mãnh liệt vô song. Ba lão người Miêu đâu biết chàng là ai, thản nhiên múa đao chống cự. Khi chưởng kình ập xuống như núi đổ thì mới thức ngộ ra hiểm cảnh. Nhưng đã quá muộn màng, họ gào lên, rồi gục chết.
Bản lãnh hiện nay của Chính Lan còn cao cường hơn cả Hoàng Hạc Tú Sĩ và Báo Ứng Lang Quân ngày trước. Nhất là pho Cuồng Lãng Chưởng Pháp càng bội phần lợi hại. Nguyên do là vì chàng luyện Thái Âm chân khí, chưởng kình âm nhu, mềm mại, phát ra rất êm ái, khi chạm mục tiêu đối phương mới phát hiện ra nó mãnh liệt đến dường nào.
Ma Nhãn đầu đà thừa cơ nhảy lùi, tròn mắt nhìn chàng trai lạ mặt. Ông không tin rằng có kẻ lại giết được tam tà chỉ trong một chiêu. Và Chính Lan đã xóa tan nghi vấn ấy bằng chiêu chưởng thứ hai. Song thủ của chàng xoáy tít, vỗ liền ba mươi sáu thức trong chiêu Quần Ngư Dược Ba, đánh thủng luồng độc phấn của ba lão còn lại. Thân ảnh chàng như mũi tên lao vút qua màn phấn trắng, giáng chưởng vào ngực đối phương. Hai chiêu giết sạch Nam Hoang lục tà, Ngô Công động chủ sợ đến nhũn cả tứ chi. Bà càng kinh hoàng khi thấy đại sát tinh trẻ tuổi kia bước về phía mình.
Nhưng chàng ta lại nở nụ cười hiền hoà:
- Vì sao động chủ lại theo Nam Hoang lục tà đến chốn này?
Chung nương ngỡ ngàng đáp:
- Lão thân có một người sư muội bị Bạch Liên giáo bắt giam. Lục Tà bảo rằng họ biết vị trí tổng đàn, và nếu lão thân giúp họ giết được Ma Nhãn đầu đà, thì lục tà sẽ hợp lực cùng lão thân đến đấy cứu Liễu nha đầu.
Chính Lan không ngờ bà ta lại nặng tình với Liễu Thi Mạn như vậy. Chàng cảm động nói:
- Động chủ muốn Thi Mạn thì xin đi theo tại hạ.
Ngô Công động chủ hân hoan gật đầu. Lúc này, Ma Nhãn đầu đà đã được Từ lão băng bó xong. Lão bước đến lạnh lùng nói:
- Lão phu chẳng phải kẻ vô ơn, nhưng không thích người ngoài xen vào chuyện của mình. Các hạ đến đây chắc có dụng ý?
Tính lão cổ quái đến mức này thì quả là hiếm có. Sơn Đông Tử Phòng bối rối trình bày ý định của mình. Nào ngờ Đầu Đà cười nhạt:
- Lão phu đã chán sống và không muốn dính vào ân oán giang hồ. Nếu nhị vị muốn đòi lại mạng này, lão phu sẵn sàng tự sát cho sạch nợ.
Từ Kính Nhan chết điếng người, chẳng biết phải đối phó thế nào với lão quái vật này. Đến Ngô Công động chủ còn phải than trời:
- Thực ta chưa thấy trên đời có ai lại cổ quái hơn lão.
Vậy mà Chính Lan lại thản nhiên ngâm nga:
“Nhân nhàn quế hoa lạc
Dạ tĩnh xuân sơn không
Nguyệt xuất minh sơn điểu
Thời minh xuân giản trung.”(15)
Ma Nhãn đầu đà biến sắc hỏi ngay:
- Các hạ ngâm bài Điểu Minh Giản(16)này có ý gì?
Chính Lan ung dung đáp:
- Bốn năm trước, tại hạ đi ngang cánh rừng ở chân núi Thái Bạch. Tình cờ có cứu được một gã tiều phu thoát khỏi nanh vuốt mãnh hổ. Gã liền mời tại hạ về nhà chơi, say sưa suốt ba ngày. Gã thường ngâm nga bài thơ ấy nên tại hạ thuộc lòng. Cả hai đứa con trai nhỏ bé của gã cũng thuộc, chúng rất kháu khỉnh và thông tuệ. Gã tiều phu ấy kể rằng vì tình yêu đối với người vợ hiện tại mà bị thân phụ đuổi đi. Lòng lúc nào cũng nhung nhớ cố hương mà chẳng dám về.
Ma Nhãn đầu đà như người bị chùy sắt nện vào, lảo đảo ôm ngực. Lão run rẩy hỏi:
- Các hạ có gặp vợ của hắn không?
Chính Lan nghiêm giọng:
- Có chứ, nàng ta quả là một hiền phụ hiếm có, đối với trượng phu một lòng kính cẩn và yêu thương. Dù cảnh nhà có nghèo khó vẫn luôn cười, cần mẫn chăm sóc con thơ.
Ma Nhãn đầu đà sa lệ lẩm bẩm:
- Tội nghiệp Vân nhi, té ra ta mới là kẻ hồ đồ.
Lão quì xuống vái tạ:
- Ơn cứu mạng khuyển tử, lão phu xin đê đầu bái tạ. Mong công tử chỉ chỗ để lão phu đi rước con cháu về.
Chính Lan mỉm cười:
- Tôn giá cứ viết thư, tại hạ hứa trong vòng ba tháng sẽ đưa được gia đình Nhiếp Tường Vân về đây. Trước mắt, mong tôn giá đến Vu Hồ giúp Bố Y hội tìm ra nội gián. Việc này rất cấp bách, mong tôn giá giúp cho.
Ma Nhãn đầu đà khẳng khái nói:
- Lão phu xin tuân mệnh.
Và lão ngượng nghịu cười:
- Thực ra thì lão phu cũng rất xấu hổ khi đến đấy. Công tử rước dùm là thượng sách.
Lão đã nói thực lòng mình, vì mười năm trước, con trai lão là Nhiếp Tường Vân đã chuộc một kỹ nữ về làm vợ. Đầu đà nổi lôi đình đuổi cả hai đi. Sau đó, lão sống trong niềm ray rứt khôn nguôi, tính tình trở nên quái dị. Nay nghe nói nàng kỹ nữ kia rất hiền thục và sanh cho lão hai đứa cháu trai, đầu đà mừng như sống lại. Nhưng bảo lão đến tận nơi rước về thì biết ăn nói làm sao đây?
Ma Nhãn đầu đà vác sáu tử thi quăng xuống Ô giang, giao sơn cốc lại cho lão bộc già, thu xếp hành lý đi theo Chính Lan. Tất nhiên Ngô Công động chủ cũng tháp tùng.
Chiều hôm sau, bốn người về đến Vu Hồ. Ngay đêm ấy, Ma Nhãn đầu đà thi triển Nhiếp Hồn đại pháp, tra hỏi từng người. Khi đến lượt Kim Hoàn Đao Trương Lân thì gã cắn lưỡi tự sát. Không còn ai khác, mọi người yên tâm, hết lời tán dương đầu đà. Nhiếp lão đã giải tỏa được nỗi niềm riêng nên rất vui vẻ, hòa đồng, không khó chịu như trước nữa. Nhưng Chính Lan vẫn khăng khăng giữ kín bí mật sống còn của mình, tiếp tục đóng vai Báo Ứng Lang Quân đệ nhị đại.
Hai ngày sau, Tiểu Cúc lên báo rằng Thi Mạn đã hồi tỉnh, bắt đầu ăn uống đều đặn. Sơn Đông Tử Phòng dắt Ngô Công động chủ xuống mật thất thăm nàng. Chính Lan thản nhiên đi theo.
Chung nương vừa thấy Thi Mạn đã chạy đến ôm và khóc lóc:
- Tội nghiệp sư muội, mới đôi mươi mà đã góa chồng, lại còn bệnh hoạn suýt chết thế này.
Bà liến thoắng kể lại cho nàng nghe câu chuyện ở Mỹ Nhân cốc. Thi Mạn cũng không ngờ vị sư tỷ khô khan này lại là người đầy tình nghĩa như vậy.
Trịnh Thiều giới thiệu Chính Lan với nàng:
- Bẩm phu nhân, đây chính là Trọng đại hiệp, người đã chữa trị vết chưởng thương cho phu nhân.
Khi tỉnh lại, nàng đã được tỳ nữ Tiểu Cúc kể lại cho nghe. Giờ thấy mặt ân nhân, lòng càng thêm hổ thẹn. Chàng trai anh tuấn, tài ba kia đã đụng chạm đến thân thể nàng. Nhưng do bản chất sơn dã, phóng khoáng, nàng không đặt nặng vấn đề nam nữ hữu biệt, nhanh chóng xua tan nỗi băn khoăn trong lòng. Thi Mạn vòng tay nói:
- Tiểu muội cảm ơn đại hiệp đã cứu mạng.
Chính Lan nhìn gương mặt gày gò, hốc hác, lòng yêu thương bừng cháy. Chỉ muốn bước đến ôm nàng vào lòng. Nhưng hoàn cảnh không cho phép, chàng đành gượng cười, nói vài câu khách sáo:
- Phu nhân chớ có bận tâm vì việc ấy. Tương trợ đồng đạo là nghĩa vụ của người hiệp khách.
Thi Mạn buồn bã bảo:
- Khẩu khí của đại hiệp chẳng khác gì tiên phu lúc còn sinh thời.
Chính Lan giật mình, tự nhủ sẽ cẩn trọng hơn.
Những ngày sau đó, Bố Y hội rộn ràng dốc sức xây dựng lại căn cứ và tuyến phòng thủ. Ngô Công động chủ đến khu rừng quanh Âu Dương gia trang, chiêu mộ đàn độc phong của Thi Mạn đưa về Vu Hồ.
Bà và Ma Nhãn đầu đà trở thành hộ pháp của Bố Y hội. Đầu tháng tư, Thi Mạn đã hoàn toàn bình phục, Chính Lan lặng lẽ rời Vu Hồ, không nói một lời từ biệt. Lâm Chấn Hạo bị bỏ lại, vui vẻ tham gia Bố Y hội.
Hồi 11
Tam ngốc thuỳ chi tam nghĩa sĩ
Đào hoa vĩnh bất kiến đông phong
Chàng đi rồi, các cao thủ đầu não họp lại bàn bạc. Sơn Đông Tử Phòng vò đầu bứt tóc nói:
- Tính cách của Trọng Phú Lan quả là khó hiểu, gã nghèo kiết xác mà vẫn dửng dưng trước số vàng khổng lồ chúng ta đã đề nghị. Mất gã còn ai để đối phó với bọn ma đầu Bạch Liên giáo.
Thanh Long Trảo tiếp lời:
- Thiểm Điện Thần Kiếm Đỗ Vĩnh Huy đã đi núi Thái Bạch rước gia đình Nhiếp Tường Vân, đồng thời đón cả Hỏa chân nhân. Trước mắt, chúng ta cứ tôn ngũ phu nhân làm hội chủ, cố thủ nơi này, chờ Tây Môn lão gia đến rồi sẽ tính.
Lâm Chấn Hạo có ơn với Bố Y hội nên được giao chức đường chủ, có mặt trong cuộc họp. Gã rụt rè nói:
- Hôm kia Trọng huynh có hỏi mượn tại hạ ba trăm lượng bạc, nói là để mua sắm y phục, nào ngờ y lại bỏ đi.
Từ lão nóng ruột hỏi ngay:
- Thế Trọng đại hiệp cón nói gì nữa không?
Họ Lâm bỗng đỏ mặt, ấp a ấp úng:
- Trọng huynh còn cười và nói đùa rằng: “Nếu ta không trả nổi, Lâm lão đệ cứ đòi ngũ phu nhân.”
Thi Mạn mỉm cười:
- Không sao, tiểu muội thọ đại ân của Trọng đại hiệp, dẫu ngàn vàng cũng sắn sàng hoàn lại cho Lâm huynh.
Sau đó, Bố Y hội kiện toàn tổ chức, ráo riết huấn luyện thủ hạ.
Một hôm, Thi Mạn đi đến khoảng sân rộng phía đông của đảo xem anh em Bố Y hội luyện võ. Lúc này Lâm Chấn Hạo đang tỉ thí với Trịnh Thiều. Công lực họ Lâm tuy kém hơn nhưng kiếm pháp kín đáo, thân pháp biến ảo, linh diệu nên cầm đồng với Trịnh Thiều. Thi Mạn sững sờ nhận ra họ Lâm đang thi triển bộ pháp trong Hoàng Hạc Khinh Vân của Chính Lan. Nàng chăm chú quan sát và tin rằng mình không thể lầm lẫn, vì bản thân Thi Mạn cũng biết tuyệt kỹ này.
Chờ hai người ôn luyện xong, Thi Mạn cho mời họ Lâm vào tòa thạch thất hỏi chuyện. Chỉ có sư tỷ nàng là Ngô Công động chủ tham dự. Chấn Hạo rụt rè hỏi:
- Chẳng hay hội chủ có điều gì chỉ giáo?
Thi Mạn dịu giọng:
- Xin Lâm đường chủ cho bổn nhân biết đã học pho thân pháp kia của ai?
Chấn Hạo thở phào, vui vẻ đáp:
- Chính Báo Ứng Lang Quân Trọng Phú Lan đã dạy cho thuộc hạ, y còn bổ khuyết cho pho Hoa Sơn kiếm pháp, nhờ vậy tại hạ mới địch lại Trịnh Thần Bộ.
- Thế Lâm đường chủ gặp Trọng Phú Lan ở đâu?
- Bẩm hội chủ, ở bờ bắc sông Hoài. Dường như y đi từ hướng bắc xuống, và chẳng hề có hành lý gì cả.
Thi Mạn cho gã lui ra và gọi Miêu nữ Tiểu Cúc vào. Nàng nghiêm giọng bảo:
- Cúc nhi, em hãy kể lại chi tiết việc Trọng đại hiệp trị thương cho ta. Y đã chạm vào những chỗ nào trên cơ thể và sắc diện lúc ấy ra sao?
Thực ra, Trịnh Thiều đã bảo Tiểu Cúc giấu giếm bớt sự thực, để Thi Mạn đỡ hổ thẹn. Tiểu Cúc xoa chiếc bụng tròn trĩnh của mình, uể oải vặn lưng rồi mỉm cười:
- Nô tỳ thấy y tự nhiên chẳng khác gì các thầy mo của người Miêu chúng ta. Y đụng chạm, xoa bóp toàn thân chẳng có chút ngượng ngùng. Nhưng tiểu muội có cảm giác rằng y không hề nổi tà tâm, động tác y dịu dàng, như sợ làm phu nhân bị đau vậy.
Thi Mạn chấn động, lặng người nhớ lại phong thái cử chỉ của Báo Ứng Lang Quân. Ánh mắt của gã nhìn nàng lúc nào cũng trìu mến và dạt dào yêu thương. Thi Mạn đang đau khổ, thương nhớ Chính Lan nên không hề để ý đến gã, nay hồi tưởng lại, Thi Mạn rùng mình nhận ra họ Trọng có nhiều điểm giống Chính Lan. Nhưng tiếng tăm của Vô Để Uyển lừng lẫy đã lâu, chưa ai xuống được mà toàn mạng trở lên, huống hồ Chính Lan đang thọ trọng thương, làm sao sống nổi?
Nỗi phân vân khiến Thi Mạn đau lòng vô hạn, dòng châu tuôn lã chã. Nhưng chính Ngô Công động chủ đã là người gỡ rối cho nàng, bà hỏi Tiểu Cúc:
- Cúc nhi, lúc họ Trọng chữa thương cho Liễu sư muội thì Hồng Quan Kim Xà đang ở đâu, và thái độ của nó thế nào?
Tiểu Cúc gãi đầu cố nhớ lại, ngơ ngác đáp:
- Đúng là có chuyện lạ, lúc ấy xà nhi quấn quanh thanh gỗ giăng mùng ở góc giường bên ngoài, gần đầu của phu nhân. Vậy mà Trọng Phú Lan chẳng hề sợ hãi, ngồi ngay xuống mép giường chuẩn mạch, và xà nhi nằm im thin thít. Nô tỳ vì quá mệt mỏi nên không chú ý đến hiện tượng ấy.
Chu nương phân vân bảo:
- Liễu sư muội, chẳng lẽ Chính Lan còn sống?
Thi Mạn cũng mong như vậy, ôm lấy Ngô Công động chủ khóc ròng. Khi quá mừng rỡ, nữ nhân cũng khóc nhiều như lúc thương tâm. Dù chưa chắc chắn lắm nhưng Thi Mạn cũng quyết tâm đi tìm Trọng Phú Lan để kiểm chứng. Hai người bàn bạc một hồi, chạy đến phòng của Chính Lan tìm kiếm.
May thay chàng còn để lại đôi giầy rách. Cặp Tứ Dực Ngô Công là kỳ vật của đất Miêu Cương, ngoài độc tính vô song còn có tài đánh hơi rất tuyệt diệu.
Thi Mạn cho mời Sơn Đông Tử Phòng đến, nói cho lão biết phát hiện của mình. Từ lão hoan hỉ phi thường, bật cười khanh khách:
- Lão phu cũng đã bắt đầu nghi ngờ Báo Ứng Lang Quân là Chính Lan. Chiếc răng cửa hàm dưới của gã mẻ một miếng, chẳng khác gì Hồng Nhất Điểm. Khi Ma Nhãn đầu đà bảo rằng Báo Ứng Lang Quân mang mặt nạ, lão phu càng khẳng định thêm.
Thi Mạn giao sự vụ Bố Y hội cho lão rồi cùng Ngô Công động chủ rời đảo. Ngoài Từ lão và Tiểu Cúc ra, chẳng ai biết họ đi đâu.
* * *
Nhắc lại, Chính Lan thấy Thi Mạn đã bình phục, quyết định lên đường đến Lạc Dương, nhờ Đại Đầu Cái, bang chủ Cái bang, giúp đỡ trong việc tìm kiếm nơi giam giữ con tin. Thứ hai, chàng sẽ dùng thân phận Báo Ứng Lang Quân chém giết bọn giáo đồ Bạch Liên giáo, dụ cho Thái Sơn Phủ Quân, Đào Hoa cung chủ và Miêu Ưng Lão phải xuất hiện.
Bỗng chàng nhớ đên Đào Hoa cung, tự hỏi lẽ nào một nơi có địa thế hiểm yếu, và cơ ngơi đồ sộ như vậy, lại không được chọn làm tổng đàn Bạch Liên giáo? Chàng quyết định đi Thái An một chuyến để dọ thám xem sao. Nếu không có kết quả, sẽ đến Lạc Dương.
Mười ngày sau, Chính Lan có mặt ở Từ Châu. Chàng dùng cơm trưa xong, lên đường tìm đến Đào Hoa cung. Trước đó, chàng đã mua một thanh trường kiếm với giá ba chục lượng. Chàng không thể sử dụng tiểu kiếm vì sợ lộ thân thế. Cuộc chiến trước mắt rất nguy hiểm, phải có vũ khí mới phát huy hết được sở học.
Cuối giờ mùi, Chính Lan đã rời xa thành Từ Châu được bốn chục dặm. Trước mặt là một cánh rừng rậm râm mát, chàng thúc ngựa phi mau, định nghỉ chân một lúc, và để tuấn mã gặm ít cỏ xanh.
Đến nơi, Chính Lan xuống ngựa, ngồi dựa gốc cây, mặc cho con ngựa nhấm nháp trên bãi cỏ ven rừng. Chợt từ hướng bắc có tiếng chân chạy thình thịch và tiếng vó ngựa khua vang. Chàng ngước lên, nhìn thấy ba bóng người áo xanh chạy đến. Theo sau họ là đoàn kỵ sĩ, cũng áo xanh. Đóa sen trên ngực tố cáo họ đều là thủ hạ Bạch Liên giáo nhưng không hiểu sao lại truy sát ba người chạy bộ?
Khi ba gã đến gần, chàng mới biết họ là Hán Trung Tam Ngốc. Vì đầu chúng chít khăn nên chàng khó nhận ra. Ba gã ngốc đều mang thương tích, thở hổn hển như trâu rống, rẽ vào chỗ Chính Lan đang ngồi. Mục tiêu của họ là túi da đựng nước trên tay chàng. Nhị ngốc Hồ Giả vung đao hăm dọa:
- Mau đưa túi nước cho bọn lão gia.
Chính Lan mỉm cười, ném cho gã. Hồ Giả uống một ngụm, đưa cho đại ngốc rồi nói oang oang:
- Uống đi rồi đánh một trận cuối cùng, có chạy cũng chẳng thoát được đâu.
Lúc ba gã uống sạch túi nước thì đoàn nhân mã kia tràn đến. Tổng cộng khoảng hai mươi tên và dẫn đầu bởi một cặp nam nữ áo xanh, thắt lưng vàng. Đám còn lại đều mang thắt lưng đen như bọn tam ngốc, suy ra vai vế hai người ấy cao hơn.
Chính Lan ngỡ ngàng nhận ra gã đại hán vạm vỡ ấy là Lôi Đao Hứa Hoa. Chàng không hiểu chuyện gì xảy ra, lặng lẽ chờ xem diễn biến.
Hứa Hoa và đám giáo đồ Bạch Liên giáo xuống ngựa vây chặt lấy Hán Trung Tam Ngốc, vô tình vây cả Chính Lan vào giữa.
Tam ngốc Hồ Phùng Tường ngoác miệng chửi liền:
- Hứa Hoa, ngươi đúng là đồ súc sinh mạt hạng. Đại ca vừa mới chết chẳng bao lâu, ngươi đã vì nữ sắc, quyền lực mà phản bội anh em. Bọn ta tuy vô học, ngốc nghếch nhưng có chết đi cũng chẳng xấu hổ khi gặp đại ca dưới chốn suối vàng.
Chính Lan nghe lòng đau nhói, quan sát dung mạo Lôi Đao. Gã mập hơn trước, nhưng mặt xanh, mắt thâm quầng, có lẽ nữ nhân lẳng lơ, khêu gợi đứng cạnh gã chính là nguyên nhân.
Hứa Hoa bị chửi quá nặng, giận tím mặt nói:
- Mỗi người một chí hướng, làm sao trách ta được? Nay Bạch Liên giáo hùng mạnh nhất võ lâm, lại giam giữ vợ con Chính Lan ở đâu không rõ, chẳng lẽ ta cứ phải ngậm đắng nuốt cay đóng vai hàng thần lơ láo mãi sao? Chính Lan có đến sáu vợ, Hứa mỗ tìm cho mình một người ưng ý chẳng lẽ lại không được?
Đại ngốc khôn ngoan hơn nên đấu dịu:
- Ngươi nói vậy cũng phải, mỗi người một chí hướng, chẳng thể ép được. Vậy ngươi hãy tha cho bọn ta về quê cũ có được chăng?
Lôi Đao cười nhạt:
- Bọn ngươi làm gì có quê hương mà về. Ta biết rõ các ngươi định đến núi Cửu Hoa, gia nhập Hồng Điểm hội để chống lại Bạch Liên giáo.
Chính Lan không ngờ lại có một bang hội như vậy. Nữ nhân kia tiếp lời họ Hứa:
- Các ngươi bỏ đi không sợ giáo chủ hạ sát vợ con Chính Lan hay sao?
Nhị ngốc cười hì hì:
- Này cái con mụ mông to kia, ngươi đừng hòng hù dọa bọn lão gia vô ích. Sơn Đông Tử Phòng đã cho bọn ta biết rằng Bạch Liên giáo chẳng bao giờ dám đụng đến con tin. Hỏa chân nhân cùng các cao thủ Hỏa giáo sắp vào đến Trung Nguyên rồi. Mụ và gã khốn kiếp kia cũng không thoát chết đâu.
Nữ nhân giận dữ quát:
- Giết bọn chúng cho ta.
Mười tám tên áo xanh theo ả xông vào, Lôi Đao cũng chẳng hề ngập ngừng, dở pho đao pháp lừng danh tấn công đại ngốc. Chính Lan nhận ra gã chẳng hề nương tay, chàng vừa phẫn hận vừa chua chát khôn cùng. Ba gã ngốc đã thọ thương từ trước nên lâm ngay vào thế hạ phong. Nhưng chúng vẫn liều mạng chiến đấu rất kiên cường.
Chính Lan thấy đại ngốc bị bảo đao của Hứa Hoa rạch thêm một đường nơi bắp tay tả, chàng giận dữ gầm vang, lướt đến trận địa. Chưởng kình lớp lớp theo nhau giáng vào màn đao quang, đánh bật thanh đao khỏi tay Hứa Hoa và vỗ vào ngực gã. Lôi Đao hự lên, văng ngược ra sau, lăn lông lốc trên mặt cỏ, mê man bất tỉnh. Chiêu Nguyệt Anh Thu Phong này, Chính Lan chỉ dùng có năm thành công lực nên họ Hứa không chết.
Nhưng chiêu thứ hai lại nặng nề gấp đôi, đánh gãy xương vai, xương lồng ngực của ả lẳng lơ kia, rồi chàng hạ thân xuống lao vào hàng ngũ bọn giáo đồ, thi triển phần thượng của pho Cuồng Lãng Chưởng Pháp.
Pho tuyệt chưởng này có đến tám mươi mốt chiêu, gồm chín chiêu phách không chưởng và bảy mươi hai chiêu phối hợp, gồm đủ quyền, cước, chưởng, trảo. Tuy là phần thượng, dành cho người công lực yếu kém, chưa đủ sức phát ra phách không chưởng, nhưng cũng vô cùng biến ảo, lợi hại. Nhất là đối với kẻ có đến hơn hoa giáp công lực như Chính Lan. Thủ cước chàng liên tiếp đưa ra hàng loạt đòn, nối nhau như sóng Trường giang. Với phép khoái chưởng tuyệt luân này, bọn giáo đồ Bạch Liên giáo làm sao địch nổi?
Chúng bỏ chạy thì bị Hán Trung Tam Ngốc chặn lại. Cuối cùng, chẳng còn một ai sống sót cả. Chính Lan dừng tay, nhìn về phía Lôi Đao, phát hiện nhị ngốc đang định chặt đầu Lôi Đao. Chính Lan quát vang:
- Dừng tay, không cần phải giết gã.
Chút tình nghĩa ngày xưa khiến chàng đau đớn, không muốn Lôi Đao chết. Nhị ngốc bực bội hỏi lại:
- Kẻ đã táng tận lương tâm, lừa thầy phản bạn như vậy làm sao tha được?
Chính Lan tần ngần nhớ đến câu “quân tử cố cùng.” Lôi Đao là người thiếu ý chí, không giữ được đạo nghĩa khi lâm vào cảnh khốn cùng. Vậy mà ba gã ngốc kia vẫn một lòng một dạ chung thủy với người đã chết. Phải chăng Khổng Phu Tử hoàn toàn đúng khi bảo rằng kẻ khờ dại, mộc mạc gần với đức nhân hơn? Chàng quắc mắt bảo:
- Ta bảo tha là tha.
Anh mắt uy nghiêm của chàng khiến nhị ngốc sợ hãi, không dám cãi lệnh. Ba gã định quì xuống vái tạ. Chính Lan xua tay hỏi ngay:
- Phải chăng ba vị vừa đào thoát khỏi Đào Hoa cung?
Đại Ngốc đáp:
- Bẩm đại hiệp phải.
Chính Lan hỏi thêm:
- Vậy ba vị có dám đoán chắc rằng Đào Hoa cung không phải là nơi giam giữ tù nhân?
Nhị ngốc quả quyết:
- Bẩm đúng vậy, anh em tại hạ được tự do đi lại nên đã dò xét khắp cung, hoàn toàn không thấy một nhà lao nào cả.
Chính Lan biết gã nói đúng. Nếu không Bạch Liên giáo đâu dại gì để tam ngốc ở đấy. Chàng bảo chúng:
- Mua cướp lấy ba con tuấn mã rồi rời nơi này mau.
Ba gã vâng dạ nhưng lại chạy đến lục soát lưng áo các tử thi, gom góp vàng bạc. Chính Lan mỉm cười thông cảm, chàng đã trải qua cảnh thiếu thốn nên hiểu rằng tiền bạc rất cần khi dong ruổi ngàn dặm. Tất nhiên là cả tam ngốc và Lôi Đao đều không mang bọc hành lý. Nhị ngốc bèn bỏ tất cả vào tay nải của Chính Lan. Gã cười hề hề:
- Số ngân lượng này xem như để bồi thường tiền thuốc men cho anh em tại hạ.
Đại ngốc biết điều hơn, đỡ lời em mình:
- Dĩ nhiên đại hiệp cũng có phần.
Chính Lan phì cười:
- Nhanh chân lên, đừng cà kê nữa.
Bốn con ngựa phi nước đại về hướng đông. Được vài chục dặm thì trời tối, may mà vừa lúc đến một tiểu trấn.
Chỉ nửa canh giờ sau, ba gã ngốc đã tắm rửa, băng bó xong, và còn kịp ra ngoài mua sắm vài bộ y phục. Bốn người quây quần quanh mâm cơm trong một quán trọ, đại ngốc lễ phép hỏi:
- Xin ân công cho biết tính danh?
Chính Lan nghiêm giọng:
- Ta là Báo Ứng Lang Quân Trọng Phú Lan.
Ba gã này dốt đặc nên chẳng thể nào biết đến thanh danh một người đã chết bảy chục năm. Nhị ngốc bỗng bùi ngùi nói:
- Bọn tại hạ cũng có một vị đại ca tên Lan như ân công, tiếc rằng người đã chết được hơn một năm rồi.
Chính Lan cảm động, ngắt lời gã:
- Hồng Điểm hội là tổ chức nào vậy?
Đại Ngốc cất tiếng:
- Trong khoảng một tháng nay, giang hồ truyền tụng về Hồng Điểm hội ở Cửu Hoa sơn. Nghe nói họ là những hào kiệt trẻ tuổi, từng tôn xưng Hồng Nhất Điểm Âu Dương Chính Lan làm thần tượng, nay thấy đại ca của bọn tại hạ chết thảm, thân quyến mười mấy người lại bị Bạch Liên giáo bắt giam, họ phẫn nộ, đồng lòng chung sức để đòi lại công đạo cho Hồng Nhất Điểm. Họ chưa có hội chủ, nên định ngày đầu tháng năm sẽ mở đại hội để cử người tài đức.
Tam ngốc Hồ Phùng Tường đắc ý cướp lời:
- Bọn ta là nghĩa đệ của Hồng Nhất Điểm, lại nổi danh hiệp khách từ lâu. Phen này chắc chắn sẽ chiếm được ngôi hội chủ.
Chính Lan cười khẩy:
- Võ nghệ tam vị có địch lại bọn đầu sỏ Bạch Liên giáo hay không mà dám mơ tưởng đến chức hội chủ?
Ba gã ngốc bẽn lẽn cúi đầu. Nhị ngốc lẩm bẩm:
- Nếu anh em tại hạ không xứng đáng thì trong đám thiếu niên kia cũng chẳng có ai hơn được.
Lần này thì tam ngốc tỏ ra thông minh hơn. Gã nhìn Chính Lan nở nụ cười cầu tài:
- Hay là ân công lên làm hội chủ Hồng Điểm hội, với bản lĩnh của người thì đâu sợ gì bọn Thái Sơn Phủ Quân?
Hai gã kia cực lực tán thành, Chính Lan cười mát:
- Có một người vừa nói tên ra đã trở thành hội chủ ngay, chẳng cần phải so tài, đọ sức. Đó là ngũ phu nhân Liễu Thi Mạn.
Ba gã ngốc ủa thật lớn, lắp bắp nói:
- Té ra ngũ đại tẩu không bị bắt sao?
Chính Lan gật đầu:
- Đúng vậy. Hiện giờ nàng ta đang ở Vu Hồ với Sơn Đông Tử Phòng, Thanh Long Trảo, Thiên Thủ Thư Sinh và hai trăm anh em Bố Y hội.
Đại ngốc mừng rỡ nói:
- Thế thì bọn tại hạ sẽ đi ngay Vu Hồ, không đến với Hồng Điểm hội nữa.
Chính Lan bác ngay:
- Không được, ba vị bắt buộc phải tham gia Hồng Điểm hội, dù có được bầu làm hội chủ hay không. Sau đó sẽ đưa Hồng Điểm hội phối hợp cùng Bố Y hội mà đối phó với Bạch Liên giáo.
Chàng kể lại mọi việc ở Vu Hồ, dặn dò kỹ lưỡng ba gã ngốc về kế hoạch hành động. Hán Trung Tam Ngốc bỗng có cảm giác như đang được đại ca Chính Lan chỉ bảo, bất giác nhất nhất tuân theo.
Mười một ngày sau, bọn Chính Lan đến trấn Lăng Dương gần chân núi Cửu Hoa. Sáng mai đã là ngày khai mạc đại hội của Hồng Điểm hội. Nơi đây, đang diễn ra một hiện tượng kỳ lạ nhất lịch sử võ lâm. Hàng ngàn chàng trai tuổi trên dưới ba mươi áo học trò vải thô, mũ thư sinh đen, vai mang kiếm tràn ngập khắp nơi. Có nhiều người giống Âu Dương Chính Lan đến nỗi ba gã ngốc phải sa lệ vì thương nhớ đại ca. Tuy nhiên, họ đều rất ít khi nở nụ cười, ấnh mắt long lanh thù hận, mặt lạnh như tiền.
Chính Lan vô cùng cảm động nhưng lại càng bội phần lo lắng. Họ có lòng nhiệt huyết nhưng thiếu bản lĩnh và kinh nghiệm để đối phó với tà ma. Không chừng, chính người của Bạch Liên giáo sẽ trà trộn vào và trở thành hội chủ. Không có Sơn Đông Tử Phòng ở đây, chàng đành phải dựa vào Hán Trung Tam Ngốc để cứu vãn tình hình. Người quá đông nên bọn chàng không tìm được chỗ trọ. Chính Lan suy nghĩ rồi bảo:
- Chúng ta cứ lên thẳng núi Cửu Hoa mà nghỉ ngơi. Nhân tiện tìm hiểu xem ai là người đã triệu tập đại hội này.
Nhị Ngốc khen phải:
- Đúng thế, bọn tại hạ thừa danh nghĩa để tham gia ban tổ chức.
Ánh tà dương mùa hạ đỏ rực trải vàng trên chín ngọn núi, khiến Cửu Hoa sơn càng thêm diễm lệ.
Chính Lan hỏi thăm đường, ngạc nhiên khi thấy căn cứ của Hồng Điểm hội nằm ngay trên nền cũ của tòa đạo am nơi Cửu Hoa Bà Bà từng ẩn dật. Bốn người gởi ngựa nhà tiều phu, phi thân lên núi. Khoảng rừng trúc trên bình đài giờ đây đã bị chặt sạch, và những thân trúc ấy đã biến thành mấy chục căn tiểu xá vây quanh một khoảng đất rộng ở giữa có lôi đài bằng tre. Cuối đường sơn đạo có bốn hán tử đứng gác. Họ hòa nhã vòng tay chào và hỏi:
- Sáng mai đại hội mới khai mạc, chư vị lên núi làm gì?
Nhị ngốc vênh mặt đáp:
- Bọn tại hạ là Hán Trung Tam Hiệp, nghĩa đệ của Hồng Nhất Điểm, muốn tham gia việc tổ chức đại hội.
Gã chột mắt cười khẩy:
- Tam vị bấy lâu phục vụ cho Bạch Liên giáo, còn tư cách gì mà xưng là em của Âu Dương công tử?
Đại ngốc giận dữ nói:
- Bọn chúng đem sinh mạng thê tử của đại ca bọn ta ra làm áp lực. Là phận em, Hán Trung Tam Hiệp đành phải nhẫn nhục, có thế mà ngươi cũng không hiểu sao?
Chính Lan không muốn dài dòng lôi thôi, truyền âm chỉ bảo cho đại ngốc, gã hiểu ý nghiêm giọng:
- Nay anh em ta đã điều tra ra hạ lạc thân quyến của đại ca. Bọn ngươi không mau đưa vào yết kiến những nhân vật chủ chốt, thì đừng trách sao Hán Trung Tam Hiệp tàn nhẫn?
Gã cao gầy biến sắc, dịu giọng:
- Vậy để tại hạ chạy vào trong bẩm báo.
Gã rảo bước về phía căn trúc xá trong cùng. Lát sau trở ra, kính cẩn mời khách vào.
Căn trúc xá này tuy thoạt nhìn có vẻ cũng giống như những căn khác, nhưng vào rồi mới biết nó sâu gấp đôi. Gian ngoài là khách sảnh rộng rãi, được ngăn bởi một tấm rèm làm bằng những đoạn trúc ngắn xâu với nhau. Ngoài này đèn nến sáng rực nhưng sau rèm hoàn toàn tăm tối. Hán tử cao gầy mời bọn Chính Lan ngồi xuống quanh chiếc bàn gỗ mộc, rồi cung kính vòng tay, hướng vào bức rèm trúc thưa rằng:
- Bẩm ngũ vị lão gia, khách đã đến.
Như vậy, bộ phận đầu não có đến năm người. Hán tử lui ra ngoài, và từ sau bức rèm có tiếng người già nua vọng ra:
- Chư vị bảo rằng biết được hạ lạc thân quyến của Hồng Nhất Điểm đại hiệp xin cứ trình bày cho bọn lão phu nghe thử.
Chính Lan vội truyền âm chỉ dẫn. Nhị ngốc liền cười nhạt:
- Tin này cực kỳ quan trọng, đâu thể dễ dàng tiết lộ cho những người không rõ lai lịch. Biết đâu chư vị là người của Bạch Liên giáo thì sao?
Người kia bật cười quái dị:
- Còn lão phu thì lại nghi ngờ bọn ngươi vâng lệnh Thái Sơn Phủ Quân đến đây dò xét.
Đại ngốc bỗng cười vang:
- Thôi đi lão Đại Đầu Cái kia, đừng giả ma giả quỉ nữa, đến lòng trung nghĩa của Hán Trung Tam Hiệp mà còn nghi ngờ thì làm sao tổ chức được Hồng Điểm hội?
Người kia gằn giọng:
- Giỏi cho ba gã ngốc, làm sao bọn ngươi lại nhận ra lão hóa tử ta? Nếu không nói rõ thì đừng hòng thoát khỏi chốn này.
Đại ngốc ung dung nói:
- Chỉ cần quan sát bọn gác cửa là nhận ra ngay thôi. Tên thì chột, tên thì cà nhắc, tên thì mất mấy ngón tay, tên thì ngễnh ngãng. Hơn nữa, cách chúng cúi đầu chào đúng là của đám ăn mày.
Đại Đầu Cái lặng yên một lúc, cười khà khà:
- Lão phu không tin bọn ngốc tử này lại đột nhiên trở nên thông minh mẫn tiệp như thế, phải chăng chàng thiếu hiệp kia đã mớm lời cho các ngươi. Hắn là ai vậy?
Chính Lan mỉm cười đáp ngay:
- Tại hạ là Báo Ứng Lang Quân Trọng Phú Lan. Xin chư vị chưởng môn đừng nghi ngại, ra đây cùng nhau đàm đạo.
Dường như Đại Đầu Cái rúng động vì câu nói, lão run giọng hỏi:
- Chẳng lẽ nhãn lực của các hạ lại nhìn thấu cả bóng tối.
Chính Lan lắc đầu:
- Không rõ lắm, nhưng dựa vào chiếc đầu trọc và ba búi tóc đạo sĩ cũng có thể đoán ra ai đủ tư cách ngồi ngang hàng với bang chủ Cái bang.
Mấy người bên trong cười vang, vén rèm bước ra, quả thực chính là chưởng môn các phái bạch đạo. Thuần Thanh đạo trưởng chưởng môn phái Võ Đang dơ ngón tay cái khen ngợi:
- Thí chủ quả xứng danh truyền nhân của Báo Ứng Lang Quân.
Năm vị chưởng môn an tọa. Đại Đầu Cái chăm chú quan sát Chính Lan, nghiêm giọng hỏi:
- Vì sao Trọng thiếu hiệp lại đi chung với Hán Trung Tam Hiệp đến đây?
Chàng bèn kể lại việc mình đi ngang Thái An, tình cờ cứu được ba gã ngốc. Lão vẫn còn nghi ngờ, bảo chàng:
- Phiền thiếu hiệp cho bọn lão phu xem thử tấm áo choàng kia.
Chính Lan thản nhiên cởi nút thắt, trao cho lão. Đại Đầu Cái sờ nắn rồi dí mép áo vào ngọn lửa của cây nến trên bàn. Lạ thay lớp vải đen bóng kia không hề bốc cháy. Đại Đầu Cái gật gù:
- Gia sư từng kể rằng Hắc Tằm Bảo Y không sợ lửa, mưa chẳng thấm, quả là vật báu thế gian.
Quảng Tâm thiền sư lên tiếng:
- Báo Ứng Lang Quân vắng mặt đã bảy mươi năm, chắc đã tạo hóa từ lâu. Lão nạp mạo muội muốn biết Trọng thí chủ tìm được di học trong trường hợp nào?
Báo Ứng Lang Quân xưa kia luôn mang mặt nạ và không xưng tên, nên chẳng ai biết Trọng Phú Lan là tên thật của lão ta. Do đó, Thiền Sư lại tưởng đó là tên họ của Chính Lan. Chàng đã chuẩn bị từ trước nên kính cẩn đáp:
- Tại hạ quê ở Tứ Xuyên, năm hai mươi tuổi lên núi Đại Thê sơn hái thuốc, tình cờ tìm thấy nơi tạo háo của Báo Ứng Lang Quân. Nhờ vậy tại hạ luyện thành pho Cuồng Lãng Chưởng Pháp và khinh công Ngự Phong Thân Pháp, hạ sơn được ba tháng nay.
Đại Thê sơn ở phía đông nam Tứ Xuyên, cách Vân Mộng sơn đến hơn ngàn dặm, nên chẳng ai nghi ngờ chàng là Chính Lan được.
Nhưng Đạo Huệ sư thái lại nói một câu làm chàng giật mình:
- Tứ Xuyên quả là vùng đất địa linh nhân kiệt. Âu Dương công tử thì xuất phát ở Đại Tuyết sơn, còn Trọng thí chủ thì học nghệ ở Đại Thê sơn.
Chính Lan cố tỏ vẻ thản nhiên:
- Tại hạ có biết ngọn núi ấy ở phía tây bắc Tứ Xuyên, cách Đại Thê sơn gần ngàn dặm.
Chàng hỏi lại họ:
- Vì sao chư vị chưởng môn lại nảy ra ý định thành lập Hồng Điểm hội?
Khánh Hư chân nhân hắng giọng rồi kể:
- Trọng thí chủ mới xuất đạo nên không biết công trạng của Âu Dương công tử đối với võ lâm và bách tính. Người này tuổi trẻ, tài cao, nhân phẩm xứng danh kỳ hiệp. Âu Dương công tử vì thù riêng mà giết chết Phú Quí hội chủ Hà Lăng tức Hy Văn Cư Sĩ Lăng Thiên Các. Bọn bần đạo có giao tình với cư sĩ nên đem thi thể về mai táng. Nào ngờ khi khâm liệm mới phát giác ra một danh sách bí mật. Nghĩa là Phú Quí hội từ lâu đã âm mưu khuynh đảo võ lâm, gài nội gián vào các môn phái, chờ ngày cướp ngôi chưởng môn. Nhờ danh sách ấy, các phái đã tiêu diệt được mầm mống nội loạn, nhưng vì danh dự nên chẳng tiết lộ ra. Sau này, Âu Dương công tử lại đến Bắc Kinh tiêu diệt bè lũ Ngụy Trung Hiền, cứu nguy cho xã tắc, được lê thứ Trung Hoa hết lời ca ngợi. Nhưng chàng ta thọ trọng thương, bị bức bách phải đem nạp mình và bảo kiếm Long Tuyền ra chuộc mạng cho thê thiếp và bằng hữu. Nay thê tử và thân quyến của Hồng Nhất Điểm bị Bạch Liên giáo giam cầm, khiến cả võ lâm phẫn nộ. Bọn bần đạo chẳng thể khoanh tay, bèn bàn bạc lập ra Hồng Điểm hội, qui tụ anh hào để tiêu diệt Bạch Liên giáo.
Chính Lan cười mát:
- Chưa tìm được nơi giam giữ con tin, dẫu triệu tập cả vạn người cũng vô ích thôi.
Đại Đầu Cái tủm tỉm cười:
- Thiếu hiệp tưởng cái bang là một lũ vô dụng hay sao?
Chính Lan hoan hỉ phi thường:
- Té ra bang chủ đã tìm ra rồi ư? Họ bị giam giữ ở địa phương nào vậy?
Đại Đầu Cái lạnh lùng:
- Chư vị bảo rằng biết rõ tọa lạc của họ, sao còn hỏi làm gì?
Chính Lan cười đáp:
- Quả đúng như vậy, nhưng chỉ hai người thôi.
Chàng bèn kể lại việc Liễu Thi Mạn đang ở Vu Hồ, và Hỏa chân nhân đi Tây Vực cầu viện. Đạo Huệ sư thái mừng rỡ nói:
- Hay lắm, chờ Tây Môn thí chủ vào đến, chúng ta phối hợp khởi sự được rồi.
Chính Lan không tán thành:
- Tại hạ cho rằng chúng ta phải cứu thân quyến của Chính Lan trước đã. Đêm dài lắm mộng, biết đâu Bạch Liên giáo sợ hãi, di chuyển tù nhân đi nơi khác thì sao?
Đại Đầu Cái rầu rĩ nói:
- Họ bị giam cầm ở một nơi hiểm địa, phải có bậc đại cao thủ êm thắm đột nhập, bảo vệ các con tin, thì lực lượng bên ngoài mới tiến vào được. Nếu không, phút chót bọn Bạch Liên giáo kề đao vào cổ vợ con Chính Lan, vậy chúng ta có dám xuất thủ hay không?
Nhị ngốc nãy giờ chẳng được nói câu nào, chụp lấy cơ hội, vỗ ngực xưng tên:
- Bang chủ cứ chỉ rõ địa điểm, dẫu long đàm hổ huyệt, anh em tại hạ cũng không hề chùn bước.
Đại Đầu Cái cười khẩy:
- Để ta nói cho bọn ngốc các ngươi được rõ, nơi ấy là một sơn cốc bốn vách dựng đứng cao năm chục trượng, đường vào hẹp bằng bốn bước chân. Hai bên vách đá của đoạn đường mười trượng ấy đều có những khoảng lõm chứa mười tám đao thủ. Chỉ cần một tên lên tiếng báo động là kế hoạch giải cứu tù nhân thất bại. Tình hình như vậy đấy, mong Hán Trung Tam Hiệp liệu mà hành động.
Ba gã ngốc tái mặt, le lưỡi, ngồi im thin thít. Chính Lan tư lự hỏi:
- Sơn cốc ấy ở đâu?
Đại Đầu Cái Lô Chính Ngôn hờ hững đáp:
- Phong Nhân cốc trong núi Hành sơn, phủ Hồ Nam.
Hán Trung Tam Ngốc nghe nói đến chỗ ở của người cùi hủi, kinh hãi rú lên ghê sợ. Nhị ngốc buột miệng lẩm nhẩm:
- Thế thì thê tử Âu Dương đại ca đã lây bệnh phong rồi, còn cứu về làm gì nữa?
Chính Lan đã học qua y đạo nên biết rằng bệnh phong không lây. Chàng khẳng khái nói:
- Tại hạ tự tin có thể tiến vào một cách êm thắm, bảo vệ an toàn cho tù nhân. Khi nghe tiếng hú của tại hạ, lực lượng bên ngoài có thể yên tâm tiến vào.
Quảng Tâm thiền sư e hèm rồi nói:
- Thí chủ có nhiệt tâm nhận lấy sứ mạng nguy hiểm, bọn lão nạp rất cảm kích. Nhưng vì việc này có liên quan đến sinh mạng của gia quyến Âu Dương công tử, lão nạp đành mạo muội muốn thử xem bản lãnh của thí chủ đến đâu.
Thiền sư cẩn trọng như vậy cũng là phải đạo. Mười năm luyện tập chẳng thể xem là đáng kể. Chính Lan nghiêm giọng:
- Tại hạ thừa hưởng của Báo Ứng Lang Quân mười viên thiên niên Tuyết Liên Tử, nên có hơn sáu mươi năm công lực trong người. Thiền Sư không cần phải nương tay.
Năm vị chưởng môn giật mình kinh hãi, không ngờ chàng trai này lại có tu vi thâm hậu như vậy. Tuy nhiên, họ vẫn phải thử thách mới yên lòng giao nhiệm vụ được. Cả chín người ra khoảng đất trống phía trước. Bọn đệ tử Cái bang lập tức đốt đuốc sáng trưng. Phương trượng Thiếu Lâm hiền hòa nói:
- Lão nạp sẽ dùng pho Giáng Ma thần chưởng. Mời thí chủ xuất thủ trước.
Chính Lan vòng tay chào rồi xuất chiêu Đông Hải Phù Lâu. Chàng sợ năm vị chưởng môn nhận ra Thái Chân khí công nên không sử dụng thủ pháp vô thanh, cố tình để chưởng phong phát ra ào ạt, mãnh liệt như giông bão.
Thiền sư vội cử chưởng đón chiêu, chưởng kình chạm nhau nổ vang rền. Quả thực đối phương cũng có công lực hơn hoa giáp như ông. Nhưng đáng khâm phục hơn cả là việc Trọng Phú Lan đánh liền một hơi tám mươi mốt chưởng. Chiêu thức của gã lại biến ảo phi thường, khiến Quảng Tâm thiền sư phải đem hết tài ba ra chống đỡ. Lúc Trọng Phú Lan dừng tay thì Quảng Tâm thiền sư đã bị đẩy lùi hai trượng. Ông không hề giận mà hoan hỉ tán dương:
- Bản lĩnh của Trọng thí chủ hơn lão nạp đến mấy bậc, thật đáng khâm phục.
Chính Lan vòng tay đáp:
- Thiền sư xuất thủ mà không nuôi sát khí trong lòng, nhờ vậy tại hạ chiếm được chút tiện nghi.
Thuần Thanh đạo trưởng cười bảo:
- Xem ra tà chẳng bao giờ thắng chính. Âu Dương công tử mất rồi thì có Trọng thí chủ nối gót.
Mọi người trở lại tòa trúc xá bàn bạc kế hoạch, đến nửa đêm mới đi nghỉ.
* * *
Sáng ngày đầu tháng năm, gần ngàn chàng trai tứ xứ nô nức thượng sơn, vây quanh ba mặt lôi đài. Đó là những người ngưỡng mộ Hồng Nhất Điểm, quyết xả thân báo thù cho chàng. Ngoài ra còn có sáu, bảy trăm hào khách hiếu kỳ đến để quan chiến cho mãn nhãn. Mới đầu giờ thìn mà ánh dương quang gay gắt, ai cũng đội mũ rộng vành nên khó nhìn rõ dung mạo.
Mặt sau của lôi đài dựa sát vào vách núi và có phên tre che phủ. Người ngoài chẳng thể ngờ rằng phía sau phên tre là một động khẩu rộng rãi, và có năm người đang ngồi nhìn ra.
Sự xuất hiện bất ngờ của Báo Ứng Lang Quân và Hán Trung Tam Ngốc đã làm thay đổi đôi chút kế hoạch của các vị chưởng môn. Họ sẽ để ba gã ngốc họ Hồ đứng ra điều khiển đại hội, và mượn danh nghĩa ngũ phu nhân Liễu Thi Mạn mà qui tụ anh tài. Nghĩa là chẳng cần phải thượng đài tỷ thí võ công.
Giữa giờ thìn, Hán Trung Tam Ngốc từ trong trúc xá đi ra, hiên ngang thượng đài. Ba chiếc đầu bóng loáng kia chẳng lạ gì với võ lâm, quần hào liền xôn xao bàn tán. Hôm nay, Hồ thị tam huynh đệ y phục chỉnh tề, mày râu nhẵn nhụi, cử chỉ ung dung đúng mực. Cả ba vòng tay chào cử toạ, rồi đại ngốc sang sảng nói:
- Kính cáo chư vị đồng đạo! Bọn tại hạ xin thông báo một tin vui, đó là việc Âu Dương ngũ phu nhân Liễu Thi Mạn cùng Hỏa chân nhân Tây Môn Nhỉ may mắn thoát khỏi cuộc tập kích của Bạch Liên giáo hồi tháng mười năm ngoái.
Quần hùng mừng rỡ hoan hô vang dội. Đại ngốc dừng lại, chờ họ bớt phấn khích rồi mới nói tiếp:
- Chính vì nhận được tin này, anh em tại hạ đã tức tốc ly khai Bạch Liên giáo, về đây tham gia đại hội này. Tại hạ trộm nghĩ ngũ đại tẩu chính là người thích hợp nhất với chức hội chủ Hồng Điểm hội, không hiểu cao kiến của chư vị thế nào?
Tất nhiên đa số đồng thanh tán thành. Tuy nhiên, không hiểu sao lại có mấy trăm người im lặng, và từ trong đám ấy có kẻ phi thân lên lôi đài. Gã vòng tay nói với quần hào:
- Cung bẩm chư vị anh hùng, việc ngũ phu nhân an nguy thế nào chẳng ai biết được. Biết đâu Hán Trung Tam Ngốc là nội gián của Bạch Liên giáo phái đến nói quàng, nói xiên để phá đại hội. Chi bằng chúng ta cứ tiến hành như đã định, bầu ra một hội chủ. Nếu sau này Âu Dương ngũ phu nhân xuất hiện, chức hội chủ kia sẽ giao lại cho nàng.
Biến cố bất ngờ này không nằm ngoài dự kiến của các chưởng môn, chắc chắn Bạch Liên giáo sẽ cho người đến tham dự, biến cuộc tỷ võ huynh đệ thành một trường sát kiếp. Nhưng Báo Ứng Lang Quân Trọng Phú Lan đã cải trang thành một thư sinh áo vải, đứng ngay sát lôi đài, chờ cơ hội ra tay ngăn chặn. Quần hào đa số là những chàng trai trẻ tuổi, hiếu danh, hiếu sự nên tán thành ý kiến của gã lạ mặt kia. Được Đại Đầu Cái truyền âm chỉ điểm, nhị ngốc Hồ Giả điềm nhiên nói:
- Kính cáo đồng đạo, bọn tại hạ có phải là gian tế của Bạch Liên giáo hay không, cuối đại hội sẽ rõ trắng đen, giờ chúng ta cứ theo ý kiến của vị huynh đài kia mà thực hiện.
Nhưng hán tử kia lại chẳng chịu buông tha chỉ mặt Hán Trung Tam Ngốc mà quát vang:
- Hỡi đồng đạo, chúng ta hãy giết ba gã phản trắc này để tế vong linh Hồng Nhất Điểm đại hiệp, rồi sẽ tiến hành đại hội sau.
Mấy trăm đồng đạo của gã ở dưới nhất tề ủng hộ:
- Giết!
Và chúng ùn ùn kéo lên, khiến năm vị chưởng môn kinh hãi. Như vậy là họ phải xuất đầu lộ diện để giải vây cho Hán Trung Tam Ngốc. Đại Đầu Cái bực tức lẩm bẩm:
- Chúng ta sai lầm khi coi thường cơ trí của Thái Sơn Phủ Quân. Phen này, diệu kế “ban chư ngật hổ”(17)chẳng thu hoạch được bao nhiêu thắng lợi.
Nhưng các vị chưởng môn chưa kịp rời chỗ ẩn nấp đã nghe tiếng nam nhân rú lên kinh khiếp và cả tiếng quát thánh thót của nữ nhân:
- Dừng tay, bổn nương là Âu Dương ngũ phu nhân đây.
Lúc này trên lôi đài đang xảy ra quái sự, gã hán tử Bạch Liên giáo bị một con rắn vàng óng, dài độ hơn nửa trượng quấn quanh người, và từ mé tả lôi đài, hai bóng nữ nhân nắm tay nhau phi thân lên, đứng trên sàn tre. Nữ nhân thấp hơn dỡ nón rộng vành, để lộ dung mạo xinh đẹp và u buồn của mình. Nàng vòng tay cúi chào:
- Âu Dương quả phụ Liễu Thi Mạn xin bái kiến chư vị anh hùng.
Tuy ít người biết mặt nàng nhưng Hồng Quan Kim Xà là chiêu bài xác thực nhất. Quần hào phấn khởi hô vang:
- Âu Dương phu nhân.
Hán Trung Tam Ngốc chạy đến quì xuống, mếu máo gọi:
- Đại tẩu!
Thi Mạn bảo chúng đứng lên rồi quay xuống nói với đồng đạo:
- Tiện thiếp xin bảo đảm anh em họ Hồ không phải là gian tế của Bạch Liên giáo.
Nàng đã nói thế thì còn ai dám vu khống tam ngốc nữa. Thi Mạn quay sang lạnh lùng chỉ gã hán tử đang bị kim xà khống chế:
- Gã kia, ngươi mới là người của Bạch Liên giáo. Nếu không khai thực, ta sẽ cho linh xà hạ thủ ngay.
Hồng Quan Kim Xà rít lên ghê rợn, thò chiếc lưỡi ghớm ghiếc liếm mặt nạn nhân. Hắn sợ đến nhũn người, chẳng còn chút dũng khí nào nữa, run giọng gật đầu:
- Phu nhân tha mạng, kẻ hèn này quả đúng là thủ hạ của Bạch Liên giáo.
Quần anh ồ lên phẫn nộ. Thi Mạn cao giọng nói tiếp:
- Chư vị một lòng với vong phu, khiến tiện thiếp muôn vàn cảm kích, nghe tin vội đến đây ngay. Trên đường đi, tiện thiếp phát hiện một số người có hành tung khả nghi, liền theo dõi và khám phá ra chúng là người của Bạch Liên giáo. Nghĩa là, giờ đây chúng đang trà trộn vào trong quần hào, mong chư vị cảnh giác và sẵn sàng đối phó. Âm mưu của chúng là biến cuộc thượng đài thành cảnh chém giết man rợ, phá hoại đại hội. Để tránh việc ấy, tiện thiếp xin nhận chức hội chủ Hồng Điểm hội. Hào kiệt nào muốn tham gia, xin cứ ở lại để được phiên chế vào cơ ngũ. Đối với bọn gian tế, tiện thiếp đã có cách phân biệt, chư vị cứ yên tâm.
Quần hùng hoan hỉ reo hò. Một người đại diện nói:
- Tại hạ kính chúc bổn hội kỳ khai đắc thắng, mã đáo thành công.
Mọi người gân cổ gào theo:
- Kỳ khai đắc thắc, mã đáo thành công.
Bỗng từ vòng ngoài có tiếng người vọng vào:
- Phải chăng mục đích của Liễu hội chủ là tiêu diệt Bạch Liên giáo?
Thi Mạn hỡ hững đáp:
- Đúng như thế.
Người kia ngửa cổ cười vang:
- Vậy thì lão phu là phó giáo chủ Bạch Liên giáo xin chính thức khiêu chiến, xem hội chủ có đủ tài chặt chiếc đầu này mà tế cờ hay không?
Dứt lời, người ấy và ba trăm người nữa lột nón, cởi áo ngoài, để lộ tấm thanh bào truyền thống của Bạch Liên giáo.
Quần hào kinh hãi dạt ra, rút vũ khí thủ thế. Họ chẳng thể xuất thủ ngay, vì đối phương đã theo đúng qui củ giang hồ khiêu chiến với hội chủ Hồng Điểm hội. Nếu nàng từ chối và ra lệnh loạn chiến thì họ mới dám xông vào, nhưng như thế thì quả là mất mặt. Thi Mạn vô cùng bối rối, quay sang hỏi ý sư tỷ là Ngô Công động chủ. Chung nương thì thầm:
- Cùng lắm chị em ta liên thủ mà đối phó. Sư muội cứ phong cho ta làm phó hội chủ là danh chính ngôn thuận ngay.
Thi Mạn buồn rầu đáp:
- Tiểu muội nằm liệt giường mấy tháng trời, tuy đã hết bệnh nhưng võ công chỉ mới khôi phục được một nửa. Bản lãnh của Đào Hoa cung chủ Thang Chí Quân rất cao cường, dẫu cả hai liên thủ cũng không địch lại đâu.
Bỗng nàng nghe tiếng ai vo ve bên tai:
- Ngũ phu nhân cứ việc nhận lời, tại hạ là Báo Ứng Lang Quân đây.
Thi Mạn vui mừng khôn xiết, cười khanh khách:
- Thang Chí Quân, lão đã tới số nên mới dám đến đây. Mau thượng đài để đền tội.
Đào Hoa cung chủ đã đem tới núi Cửu Hoa ba trăm cao thủ kiên dũng nhất, đủ sức tiêu diệt gần ngàn gã trẻ tuổi dở hơi kia. Nay thấy Liễu Thi Mạn xuất hiện, lão cố tình bức bách nàng giao đấu để bắt sống nàng về làm con tin, sau đó mới ra tay tàn sát.
Thực ra, lão là người háo sắc nên rất thèm khát sáu người vợ của Chính Lan. Nhưng Thái Sơn Phủ Quân tức giáo chủ Bạch Liên giáo lại kiêng nữ sắc và còn có chút phẩm chất của bậc niễu hùng, nên cấm họ Thang đụng đến. Giáo chủ bảo rằng khi nào diệt trừ được Hỏa chân nhân lão mới giao các mỹ nhân cho Thang Chí Quân.
Đào Hoa cung chủ đắc ý bước về phía lôi đài, nhẹ nhàng tung mình lên như đám mây vàng lơ lửng. Họ Thang mặc võ phục vàng đúng cương vị phó giáo chủ. Nào ngờ, từ vòng ngoài cũng có tiếng ai quát vang như sấm:
- Khoan đã, xin đại tẩu nhường gã chết bầm kia cho tiểu đệ.
Hàng rào người bị xô vạt bởi một hán tử thân cao bảy thước, da dẻ đen đủi. Gã chạy thình thịch về phía lôi đài, bám mép đài trèo lên, quì xuống trước mặt Liễu Thi Mạn, chống một tay thi lễ:
- Tiểu đệ là Hồng Nhị Điểm Âu Dương Tiểu Ngưu xin bái kiến ngũ đại tẩu.
Thi Mạn bối rối vì không biết gã khổng lồ này chui ở đâu ra? Nhưng nhìn dung mạo, chất phác, quê mùa của gã, nàng thấy yên tâm, gượng cười:
- Ngưu đệ bất tất phải đa lễ như vậy.
Tiểu Ngưu đứng lên, quay sang chỉ mặt Đào Hoa cung chủ dặn dò:
- Lão cứ đứng đấy, để ta tự giới thiệu với quần hùng cái đã.
Họ Thang cũng tò mò nên gật đầu chấp huận. Tiểu Ngưu quay xuống vòng tay chào cử tọa rồi nói oang oang:
- Tại hạ vốn là một đứa trẻ cô nhi, bị bỏ rơi trên một chiếc thúng, trôi dạt đến cửa sau Âu Dương gia trang bên bờ hồ Côn Minh. Lúc đó, tại hạ mới lên hai, được vợ chồng Âu Dương trang chủ nhận làm dưỡng tử, năm ấy Chính Lan đại ca đã lên bốn. Tám năm sau, đại ca lên núi học võ, chỉ còn lại mình tại hạ ở nhà với song thân. Năm tại hạ mười tuổi, bị một vị kỳ nhân bắt về Hoành Đoạn sơn, và trở thành đệ tử của ông ta. Chín tháng trước, gia sư tạ thế, tại hạ trở lại Côn Minh thì mới biết phu thê Âu Dương trang chủ đều đã chết thảm, Chính Lan đại ca nổi danh Hồng Nhất Điểm, báo được gia thù nhưng cũng đã bị đám đầu sỏ Bạch Liên giáo hại chết. Vì vậy, tại hạ xưng danh Hồng Nhị Điểm, thề không đội trời chung với bọn Bạch Liên giáo.
Tiểu Ngưu nói tiếng Bắc Kinh không rành, đôi lúc phải dùng đến phương ngữ Vân Nam, khiến người nghe phải nặn óc mới hiểu được. Tuy nhiên, vẻ trung thực, chất phác của gã đã thuyết phục được quần hào. Họ vui vẻ hét vang:
- Hồng Nhị Điểm, hãy cố giết cho được lão Đào Hoa cung chủ, sát!
Hàng ngàn cánh tay dơ lên, Tiểu Ngưu cũng vậy. Nhưng chiếc trường bào thư sinh vá víu của gã, chắc mua ở cửa hàng đồ cũ nào đấy, nên chật chội so với thân hình quá khổ, bung chỉ rách tung. Ngực Tiểu Ngưu lộ ra mớ lông đen sì. Quần hào cười vang, còn Hồng Nhị Điểm ngượng ngùng lột mớ giẻ rách ấy ra, quăng xuống sàn đấu, nói giả lả:
- Chư vị thông cảm cho, tại hạ bị lường gạt nên mới mua nhầm tấm áo mục này.
Gã quay sang bảo Thi Mạn:
- Nếu tiểu đệ giết được lão chết tiệt kia, mong đại tẩu thưởng cho vài bộ áo mới.
Thi Mạn thẹn thùng nói:
- Ta hứa, nhưng Ngưu đệ phải cẩn trọng, lão ta rất lợi hại.
Chính Lan đã nhận ra đứa em nuôi ngốc nghếch của mình, lòng rất hân hoan, năm ấy, song thân chàng lên Đại Tuyết sơn thăm, có kể lại việc Tiểu Ngưu mất tích khi đang đi câu cá. Gã bơi rất giỏi nên không thể chết đuối được, chắc là do ham chơi mà bỏ nhà đi phiêu bạt mà thôi. Không ngờ Tiểu Ngưu cũng đi học võ như chàng.
Lúc này, Tiểu Ngưu xăm xăm bước đến trước mặt Đào Hoa cung chủ, mắng chửi xối xả:
- Lão già khốn nạn, khốn kiếp kia, thì ra lão là một trong những kẻ bức bách đại ca ta phải nhảy xuống vực thẳm đấy ư? Hôm nay, Hồng Nhị Điểm ta sẽ xé xác lão ra.
Thang Chí Quân giận tím mặt, vung chưởng đánh liền. Độc vụ màu hồng của Đào Hoa Mê Tâm chưởng ào ạt cuốn đến. Thi Mạn cả kinh thét lên:
- Ngưu đệ coi chừng độc khí.
Tiểu Ngưu vẫn không hề sợ hãi, vung quyển lao vào lưới chưởng. Thân hình gã to lớn, thô kệch mà bộ pháp cực kỳ nhanh nhẹn, và quyền phong thổi vù vù đầy uy lực. Quyền chưởng chạm nhau nổ vang rền, chẳng ai lùi lại bước nào, tiếp tục xông vào giáp chiến. Rõ ràng là Tiểu Ngưu không hề sợ độc, thân thể rắn chắc, trúng liền mấy chưởng mà vẫn thản nhiên. Gã hoàn toàn chẳng biết sợ chết là gì, hùng hục như con dã tượng vùng Vân Nam, trả lại Đào Hoa cung chủ một quyền đau điếng.
Họ Thang bị đẩy lùi hơn trượng, giận dữ gầm lên, thi triển Huyết Ảnh ma công đến độ chót, toàn thân bao phủ bởi luồng Huyết Vụ đỏ hồng. Tiểu Ngưu thấy đối phương biến mất trong luồng khí quái dị, kinh hãi quay lưng bỏ chạy, miệng la oai oái:
- Ái mẹ ơi, ma quỉ hiện hình.
Đào Hoa cung chủ chẳng buông tha xuất chiêu Đào Hoa Đoạt Khách, đánh thẳng vào lưng gã ngốc. Quần hùng lo lắng ồ lên, tưởng rằng Tiểu Ngưu khó thoát chết. Nhưng bất ngờ, từ dưới mép tả lôi đài, một bóng người đã bay vút lên giáng chưởng xuống đầu Đào Hoa cung chủ, không những chặn đứng được chiêu sát thủ kia mà còn đẩy họ Thang văng ngược về phía sau nửa trượng.
Lão kinh hoàng nhìn người mới đến, gằn giọng hỏi:
- Ngươi là ai mà dám xen vào chuyện của Bạch Liên giáo?
Người kia cười nhạt:
- Ta là Báo Ứng Lang Quân đời thứ hai thế thiên hành đạo, quét sạch tà ma.
Dứt lời, chàng ập đến tấn công tới tấp. Hàng loạt đạo chưởng kình phách không nối nhau như sóng dữ, không để đối phương có cơ hội đổi hơi. Thủ pháp liên hoàn khoái chưởng thiên hạ vô song này khiến Thang Chí Quân rợn tóc gáy. Lão vận toàn lực chống đỡ, nhưng chỉ đến chưởng thứ chín mươi đã đuối sức, trúng liền bốn đòn vào ngực.
Đào Hoa cung chủ tung mình lui đến tận mép đài mé tả, rút trường kiếm ra. Chính Lan nhìn tư thế khởi đầu, đoán ngay đối phương sắp xuất chiêu Thiên Lý Trùng Hồng trong pho Nam Thiên Kiếm Pháp. Có lẽ Thái Sơn Phủ Quân đã dạy họ Thang chiêu này để được quyền độc chiếm thanh Long Tuyền bảo kiếm?
Thân ảnh Thang Chí Quân ẩn trong màn kiếm quang sáng bạc, lướt đến như tia chớp. Lão tin chắc rằng Báo Ứng Lang Quân chẳng thể sống sót dưới chiêu kiếm thần diệu này.
Chính Lan mỉm cười lạnh lẽo, múa tít song thủ lao thẳng vào màn kiếm quang. Chiêu Điệp Lãng Xuyên Sơn chuyên dùng để đối phó trong những trường hợp như thế này, ba mươi sáu đạo chưởng kình hội tụ thành những quả đấm thép vỗ vào lưới kiếm.
Hai mươi chín phát chưởng đều bị kiếm kình xé nát và Đào Hoa cung chủ vẫn không dừng bước. Nhưng khi lão còn cách đối phương nửa trượng, sắp đến tầm với của mũi kiếm thì bỗng phát hiện bảy luồng chân khí êm ái xuyên qua đúng những sơ hở của chiêu kiếm, giáng vào cơ thể của lão. Thang Chí Quân hự lên, văng ngược về phía sau, máu miệng phun thành vòi, ngã vật trên mặt sàn tre. Lão chưa chết, gượng bò dậy, thều thào hỏi:
- Sao ngươi lại biết… được sơ hở… của kiếm chiêu?
Chính Lan bước đến gần, truyền âm bảo lão:
- Ta là Âu Dương Chính Lan đây lão ngốc ạ.
Họ Thang uất ức thét lên nhưng tả thủ Chính Lan đã vỗ một chưởng, đánh nát lồng ngực, kết liễu đời lão ác ma.
Đồng thời, phía dưới có tiếng quát vang:
- Sát!
Hàng ngàn người nhất tề ập vào chém giết bọn giáo đồ Bạch Liên giáo.
Hán Trung Tam Ngốc, Tiểu Ngưu, Ngô Công động chủ cũng nhảy xuống tham gia. Ba trăm gã áo xanh kia đều là tay hảo thủ nên coi thường đám quân ô hợp. Nào ngờ, chỉ nửa khắc sau, chúng đã hiểu rằng phe đối phương có đến mấy trăm cao thủ bạch đạo bản lĩnh cao siêu.
Thì ra các vị chưởng môn đã đưa năm trăm đệ tử kiệt xuất nhất đến Cửu Hoa sơn, mong quét một mẻ lưới lớn. Nhưng Thái Sơn Phủ Quân không đến mà chỉ phái phó giáo chủ là Thang Chí Quân đi mà thôi. Nay đã có Báo Ứng Lang Quân ra mặt đứng mũi chịu sào, năm vị chưởng môn vì đại kế lâu dài vẫn ẩn mình không xuất hiện.
Chính Lan giết xong Đào Hoa cung chủ, không tham gia cuộc hỗn chiến ở dưới, mà quay sang hỏi Thi Mạn:
- Phu nhân mới bình phục, sao lại khinh xuất bôn ba ngàn dặm đến đây làm gì?
Giọng chàng nghiêm lạnh, hàm ý trách móc, nhưng ánh mắt không giấu được vẻ quan hoài. Thi Mạn vẫn chẳng dám khẳng định đối phương có phải chồng mình hay không, nên lúng túng, chẳng biết nói sao. Nàng im lặng một lúc, mạnh dạn hỏi:
- Ma Nhãn đầu đà bảo rằng đại hiệp mang mặt nạ, chẳng hiểu có đúng hay không?
Chính Lan chẳng ngờ nhãn lực của lão Nhiếp lại sắc bén như vậy, giả đò giận dữ:
- Đúng vậy, cả hai đời Báo Ứng Lang Quân đều mang mặt nạ này. Tuy nhiên, tại hạ rất biết ơn nếu phu nhân không tiết lộ bí mật này ra cho cả thiên hạ biết.
Thi Mạn quan sát vết mẻ ở chiếc răng cửa hàm dưới, trống ngực đánh thình thình. Nàng chẳng kể gì đến vẻ khó chịu của đối phương, tủm tỉm cười:
- Tiểu muội thọ ơn cứu mạng của Trọng huynh, muốn được diện kiến một lần.
Chính Lan than thầm, biết rằng người vợ tinh quái của mình đã sinh lòng ngờ vực. Chàng suy nghĩ rất nhanh, cười nhạt đáp:
- Tại hạ bị ràng buộc bởi qui củ rất khắc khe là chỉ được phép cho ái thê của mình thấy mặt. Nếu phu nhân chấp nhận lấy Trọng mỗ thì việc để lộ diện mạo rất dễ dàng được thực hiện.
Ngón đòn lợi hại này của Chính Lan đã khiến Thi Mạn choáng váng. Khi chưa nắm chắc lai lịch đối phương, nàng chẳng thể nào liều lĩnh được? Thi Mạn cố trấn tĩnh hỏi lại:
- Trọng huynh không thấy thiệt thòi khi lấy một góa phụ như tiểu muội sao?
Báo Ứng Lang Quân thản nhiên nói:
- Tại hạ nghe giang hồ truyền tụng rằng Âu Dương Chính Lan đã từng thu nạp Kính Hồ Tiên Cơ, vợ cũ của Dương Châu công tử. Thế thì việc tại hạ kết duyên với phu nhân đâu phải chuyện lạ? Sao, ý của nàng thế nào?
Chính Lan dứt lời, nhìn Thi Mạn bằng cặp mắt khát khao, tình tứ rồi hạ giọng:
- Thú thực với phu nhân, Trọng mỗ từ ngày trị thương cho nàng đến nay, lòng lúc nào cũng mơ tưởng đến hình bóng của nàng.
Chính Lan không cần phải đóng kịch mới nặn ra được ánh mắt nồng nàn ấy. Chàng thực tâm muốn xiết chặt người vợ yêu vào lòng, nói muôn vàn lời dịu ngọt và dìu nàng vào cuộc ái ân thắm thiết.
Thi Mạn rùng mình, thẹn đỏ mặt và giận dữ nói ngay:
- Mong Trọng đại hiệp cẩn ngôn cho.
Nàng lướt về phía gã thủ hạ Bạch Liên giáo, thu hồi kim xà rồi tung mình xuống dưới, tham gia trận chiến.
Chính Lan thở phào nhẹ nhõm. Nhưng lòng đau đớn vô hạn, chỉ muốn gọi nàng trở lại và thú thực ẩn tình. Nhưng sau khi tận mắt chứng kiến sự phản bội của Lôi Đao Hứa Hoa, chàng hầu như không còn dám tin vào ai nữa. Trong năm vị chưởng môn đang ngồi sau bức phên tre kia, liệu có ai âm thầm bán mình cho Bạch Liên giáo hay không? Nếu chỉ có riêng hai vợ chồng với nhau, chắc chàng đã không giấu giếm Thi Mạn.
Chính Lan thẫn thờ nhìn xuống chiến trường, hài lòng khi thấy phe ta toàn thắng. Lợi hại nhất vẫn là Tiểu Ngưu, gã tả xung hữu đột, liều lĩnh lao vào lưới đao, vung quyền cước đánh bay những gã áo xanh xấu số. Da thịt Tiểu Ngưu bền chắc lạ thường, đao kiếm chém vào chỉ để lại những vết đứt không sâu và càng khiến gã thêm hung hãn.
Chính Lan yên tâm, đi vào động khấu phía sau lôi đài, dặn dò Đại Đầu Cái vài câu, rồi rời Cửu Hoa sơn.
Hồi 12
Vũ hạ pháp sư phùng tử nạn
Cốc trung chữ thị ngộ oan gia
Chính Lan đi xuống hướng nam, mục tiêu của chàng là Phong Nhân cốc ở nam nhạc Hành sơn. Chàng khởi hành ngay vì muốn tránh mặt Thi Mạn, chứ không phải vì gấp gáp. Việc giải cứu tù nhân đòi hỏi một lực lượng hùng hậu và sự bố trí chu đáo. Chàng sẽ đến trước nhưng vẫn phải chờ các vị chưởng môn và đệ tử của họ. Trong tay chàng đã có tín phù của Cái bang để liên hệ với đám hóa tử đang giám sát bên ngoài Phong Nhân cốc.
Tám ngay sau, Chính Lan có mặt trong một tửu quán ở vùng ranh giời giữa Hồ Bắc và Hồ Nam. Có lẽ do địa thế ấy mà tiểu trấn này có tên là Nam Bắc trấn. Đại Đầu Cái hẹn với chàng rằng đúng trưa ngày rằm tháng năm sẽ có mặt. Còn đến bảy ngày nữa nên Chính Lan chẳng vội vàng, thong thả ăn uống.
Chính Lan có thói quen ăn xong mới uống vài chén rượu. Chàng chậm rãi nhấm nháp từng hớp nhỏ, ngắm nhìn đám mây trắng trôi nổi trên bầu trời mùa hạ xanh thăm thẳm. Hình bóng những người thân hiện về khiến lòng chàng quặn thắt. Trong lúc chàng giam mình dưới đáy vực, Hoàng Hoa Ma Nữ Tây Môn Tử Quỳnh, Kính Hồ Tiên Cơ Tiêu Uyển Như và Trại Tây Thi Du Mĩ Kỳ đã hạ sinh được ba nữ hài tử đến nay chúng đã tròn mười tháng tuổi.
Tội nghiệp cho chúng và Hạc nhi, còn thơ ấu mà đã phải chịu cảnh giam cầm khổ ải, và cả năm người vợ đầu ấp tay gối kia nữa. Họ lấy chàng, chẳng hưởng được mấy ngày hạnh phúc đã phải vấn khăn tang. Chính Lan bỗng chán ngán cảnh oán thù chồng chất, tranh danh đoạt lợi của chốn võ lâm. Chàng tự nhủ sau khi cứu được họ, sẽ đưa tất cả đi tìm một chốn non xanh nước biếc mà ẩn dật. Trang Tử từng nói: “Cố gắng làm điều thiện cũng gần như háo danh.” Vậy thì chàng còn lưu luyến giang hồ làm gì nữa?
Ai bảo rằng rượu có thể giải sầu. Càng uống, càng nghe lòng buồn da diết, Chính Lan bùi ngùi ngâm nga nho nhỏ:
“Cổ lai vạn sự đông lưu thủy
Biệt quân khứ hề hà thời hoàn
Thả phóng bạch lộc thanh nhai gian
Tu hành tức kỵ phỏng danh san
An năng tồi mi chiết yêu sự quyền quí
Sở ngã bất đắc khai tâm nhan.”(18)
Triết học Lão Trang luôn luôn bàng bạc trong thi văn Trung Hoa, và rõ nét nhất qua con người và thi phẩm của Trích Tiên Lý Bạch. Tư tưởng thoát tục, vô vi chính là chỗ ẩn náu cuối cùng của nhân sinh trong cuộc đời biến loạn, vô thường này.
Chính Lan rót thêm chén nữa, suy nghĩ về trường hợp của Vô Nhân Kiếm Khách Hách Thiết Xuyên. Sơn Đông Tử Phòng kể rằng trước đây lão và họ Hách ở chung trong thủy trại Hồng Trạch hồ, nhưng cách đây hai tháng, Thiết Xuyên đã bỏ đi đâu không rõ. Chính Lan kết giao với gã đã lâu, hiểu rõ cơ trí con người trầm lặng này. Chàng cho rằng Thiết Xuyên ly khai Bạch Liên giáo, để dễ bề tìm kiếm nơi giam giữ tù nhân. Chàng thở dài nghĩ đến Lôi Đao Hứa Hoa, uống cạn chung rượu, gọi tiểu nhị tính tiền.
Rời quán được vài dặm, thấy từ góc đông nam mây đen vần vũ kéo đến, Chính Lan vội thúc ngựa phi mau, tìm chỗ trú ẩn. Thấy phía trước có tòa nhà lớn nằm mé tả đường quan đạo Chính Lan phi mau đến đấy và rẽ vào.
Tòa nhà này nằm chơ vơ nơi bìa rừng, cổng chính xiêu vẹo cỏ mọc đầy sân. Bốn bức tường xung quanh đã sụp đổ cả. Chỉ còn những cây cột là còn vững chắc, đỡ lấy giàn mái ngói đã dột nát. Thì ra đây là đại diện của một ngôi chùa bỏ hoang.
Chính Lan định bụng sẽ ngủ lại nơi này nếu mưa kéo dài đến tối. Từ ngày rời vực thẳm, trở lại nhân gian, chàng đã quen với cảnh gội gió dầm sương, ăn quán ngủ đình.
Chàng đi dạo một vòng phế tích phát hiện nhà bếp vẫn còn kín đáo, liền dẫn tuấn mã vào nơi đây. Chính Lan là người nhân hậu, luôn chăm sóc người bạn đường của mình.
Cơn mưa ập đến, theo gió bay vào đến tận giữa chùa, và nhỏ qua hàng trăm lỗ thủng trên mái ngói. Chính Lan ngao ngán quan sát, thấy chỉ có khoảng trống dưới bệ thờ là khô ráo. Chàng mừng rỡ vung chưởng thổi sạch cát bụi, chui vào đấy nghỉ ngơi. Tấm áo choàng Hắc Tằm Bảo Y có thể thay thế cả chiếu lẫn chăn, quả là vật vô cùng hữu dụng. Đêm qua trời đẹp, đường bằng phẳng nên Chính Lan đi luôn đến sáng, giờ này chàng mệt mỏi chìm vào giấc ngủ.
Khoảng giữa canh một, Chính Lan giật mình thức giấc vì tiếng ngựa xe khua động trước sân, và cả tiếng người trò chuyện. Hình như có đoàn xa mã nào ghé vào đây trú ẩn, vì trời vẫn còn mưa như trút nước.
Lát sau, đám người kéo vào chùa, bật hỏa tập đốt đuốc, tìm chỗ không dột mà cắm. Chính Lan nhờ ánh đuốc ấy mà phát hiện mặt trước bệ thờ có vết nứt rộng bằng bề ngang một ngón tay. Chàng ngồi lên, thận trọng ghé mắt quan sát. Bọn mới đến có khoảng mười người, mặc y phục của các tiêu sư.
Chàng đặc biệt chú ý đến lão già to béo, mặt xanh, râu dài đến ngực. Hai chiếc khoen vàng lủng lẳng trên thùy châu tố cáo rằng lão là người dân tộc Di ở vùng Vân Quí.
Chính Lan cau mày suy nghĩ, và nhớ đến một nhân vật có tên Chiêu Thống(19)pháp sư Hoàng Bỉnh Lân. Lão ta là thầy phù thủy cao cấp nhất của toàn thể người Di, dù họ sống ở Vân Nam hay Quí Châu, Tứ Xuyên, Quảng Tây.
Hoàng Bỉnh Lân cũng là đệ tử độc môn nhưng chỉ chuyên tâm nghiên cứu một ngành duy nhất, đó là mê dược. Thuốc mê của lão không giết người nhưng lại rất khó đối phó, chỉ cần hít phải một lượng rất nhỏ cũng đủ bất tỉnh, dẫu có Tỵ Độc Châu trong người cũng vô ích. Độc dược xuất phát từ nọc độc vật, còn mê dược lại điều chế từ thảo mộc.
Chiêu Thống pháp sư thường qua lại giữa các tỉnh vùng tây nam để chữa bệnh cho người Di. Nhờ y thuật cao minh, lão được đồng bào xem như thánh lão. Chính Lan sinh trưởng ở Vân Nam, học nghệ tại Tứ Xuyên nên có nghe nhắc đến Hoàng Bỉnh Lân.
Lúc này, Chiêu Thống Pháp Sư đã yên vị ở một chỗ ít dột nhất. Lão bực bội than thở:
- Năm nay thời tiết thật quái lạ, mới đầu mùa đã mưa như thác lũ. Thật là khốn khổ cho thầy trò chúng ta. Từ đây đến Phong Nhân cốc còn đến ba trăm dặm, tha hồ dầm dãi nắng mưa. Nếu không có nghiêm lệnh của giáo chủ, ta đã giết quách bọn Hỏa chân nhân cho xong nợ.
Chính Lan choáng váng, không ngờ trong cỗ xe tiêu kia lại là nhạc phụ của mình. Một gã bập bẽ nói:
- Sư phụ ở Vân Nam sung sướng còn hơn thổ vương, tội gì phải nhận lời mời của Bạch Liên giáo?
Gã nói tiếng Hán không rành, chứng tỏ cũng là người Di. Chính Lan cũng thắc mắc như vậy nên lắng tai nghe câu trả lời của pháp sư:
- Ngươi tưởng ta vì ngàn lượng vàng mà nhận lời hợp tác với Thái Sơn Phủ Quân hay sao? Bạch Liên giáo chủ nuôi dã tâm làm hoàng đế, nhân lúc Minh triều suy yếu mà đoạt lấy cơ đồ. Lão đã hứa sẽ cắt cho ta bốn tỉnh tây nam để thành lập vương quốc của người Miêu. Chính vì vậy ta mới giúp lão bắt Hỏa chân nhân và bốn cao thủ Hỏa giáo ở Chương Phàn.
Chính Lan đã hiểu ra cớ sự, thầm lo lắng cho Thiểm Điện Thần Kiếm Đỗ Vĩnh Huy, gã đi đón Tây Môn Nhỉ, chẳng hiểu có gặp hay không mà chẳng được nhắc đến.
Ưu tư thứ hai của chàng là âm mưu phản loạn của Bạch Liên giáo. Nay quân Mãn Thanh đang uy hiếp biên thùy phía bắc, nếu Bạch Liên giáo khởi sự, tình hình càng thêm nguy ngập. Chính Lan nghe cơn giận sôi lên, quyết giết cho được Thái Sơn Phủ Quân. Giờ đây, bao nhiêu tư tưởng cầu an, thoát tục đã hoàn toàn tan biến cả. Đạo gia chủ trương thanh tịnh vô vi nhưng chẳng phải là không làm gì cả. Đối với vận mệnh giang sơn và hạnh phúc của lê thứ, họ sẽ tận lực trong khả năng của mình. Lúc sinh thời, Trang tử từng đem tài biện luận sắc bén của mình để ngăn chặn những cuộc chiến phi nghĩa của các vua chư hầu. Chính Lan không có tài biện thuyết mà chỉ có ba thước gươm thiêng.
Chàng gạt bỏ những ý niệm xa xôi, chú tâm suy nghĩ, cố tìm cách cứu cho được bọn Hỏa chân nhân. Chính Lan thân hoài tuyệt học nhưng lúc nào cũng khiêm tốn, thận trọng. Chàng không biết rõ bản lĩnh của Chiêu Thống pháp sư, và chẳng chắc mình chống lại nổi mê dược của lão, liền quyết định dụ lão ra ngoài.
Cuối canh hai, cơn mưa dịu đi nhưng vẫn chưa tạnh, Chiêu Thống pháp sư và mười tên đệ tử ngồi dựa cột ngủ gà ngủ gật. Chính Lan nhẹ nhàng rời bỏ bệ thờ, đi lối sau, vòng ra sân trước. Chàng len lỏi đến cạnh tù xa, sờ nắn thử thùng xe. Hóa ra chúng được phủ đồng lá rất kiên cố ở bên ngoài lớp gỗ. Chính vì vậy nên chẳng cần ai canh gác cả.
Lúc này tù xa đang ở tư thế quay ra ngoài, cửa sau hướng vào chùa để dễ kiểm soát. Nhờ thế, khi Chính Lan rút kiếm, thọc vào mông ngựa thì cặp tuấn mã đau đớn hí vang, kéo xe tù phóng nhanh. Chàng cũng lao theo nhưng ra đến cổng thì tung mình lên bám lấy vòm tam quan còn sót lại. Chiêu Thống pháp sư và đám thủ hạ kinh hãi rời chùa. Hoảng Bỉnh Lân thét vang:
- Có kẻ cướp xe tù.
Võ công của lão cao cường nhất nên nhanh chân hơn, ra đến cổng trước tiên. Chính Lan không bỏ lỡ cơ hội, bủa chưởng xuống đầu đối phương. Họ Hoàng là tay lão luyện, lúc nào cũng cảnh giác nên kịp thời cử song chưởng đón chiêu. Có điều, trong lúc bất ngờ lão chẳng thể nào dồn hết toàn lực được.
Trong khi ấy Chính Lan đã huy động đến mười hai thành công lực vào chiêu Cuồng Lãng Trầm Chu. Chưởng kình chạm nhau nổ lùng bùng, Chiêu Thống Pháp Sư văng ngược về phía sau. Lão trúng năm đòn cực mạnh vào ngực và bụng, xương cốt gẫy vụn, chết ngay tức khắc.
Mười gã hán tử người Di ra đến nơi, thấy sư phụ thảm tử sau chỉ một chiêu, kinh hãi bỏ chạy tán loạn. Chính Lan lướt đến, chụp cổ một tên, xách gã và xác Chiêu Thống pháp sư vào chùa. Chàng lạnh lùng hỏi:
- Thuốc giải mê dược đâu?
Hán tử run lên cầm cập:
- Bẩm đại vương, ở trong người gia sư.
Chính Lan giật tung áo pháp sư, phát hiện hai túi da hươu lớn bằng bàn tay. Chàng lại hỏi:
- Túi nào là giải dược?
Gã người Di mau mắn đáp:
- Túi cột dây hồng là thuốc mê, còn túi cột dây trắng là giải dược.
Chính Lan bế khí, mở túi thứ nhất, bốc một ít bột mịn, màu bụi đất, búng vào mặt hắn ta. Hán tử gục ngã ngay, Chính Lan bỏ ít bột màu hồng trong túi dây trắng vào miệng gã, quả nhiên cứu được.
Hán tử nhìn chàng bằng cặp mắt khiếp sợ, van xin. Chính Lan hỏi thêm:
- Bọn ngươi xuất phát từ tổng đàn Bạch Liên giáo phải không?
Gã ngơ ngác đáp:
- Không phải, sư phụ nhận được thư của Bạch Liên giáo, liền đưa bọn ta đi Chương Phàn mai phục ngay.
Vẻ thành thực của gã hiện rõ trên gương mặt quê mùa. Chính Lan dịu giọng:
- Vì sao bọn ngươi thấy ta giết sư phụ mà lại bỏ chạy chứ không báo thù?
Hán tử ngượng ngùng đáp:
- Ông ta tuy là thầy nhưng lại thường bắt học trò phải đưa vợ đến hầu hạ, cho nên ai cũng ấm ức trong lòng. Nay lão chết đi, người Di cũng chẳng hề nuối tiếc.
Chính Lan mỉm cười:
- Vậy thì ngươi hãy về với vợ mình đi, ta tha cho đó.
Gã mừng như sống lại, chạy thẳng một nước, dù trời tối đen và vẫn còn mưa nho nhỏ.
Chính Lan bỗng nhìn thấy mấy bọc hành lý để rải rác. Chàng đoán tay nải bằng gấm xanh kia là của Chiêu Thống pháp sư, liền mở ra xem. Ngoài y phục còn có phong thư và tờ ngân phiếu ngàn lượng vàng. Nhận ra dấu của tiền trang Từ Châu, chàng lẩm bẩm:
- Chẳng lẽ Thái Sơn Phủ Quân đang ở nơi ấy? Nhưng Hán Trung Tam Ngốc đã lục soát hết Đào Hoa cung rồi mà?
Chính Lan cất vào người, định bụng sẽ đến tiền trang Từ Châu hỏi xem đã bán tờ ngân phiếu này cho ai? Chàng lật đống y phục, xem thử còn gì nữa không, thì phát hiện vài nén vàng và một tấm đồng bài nặng chịch, to hơn bàn tay. Không kịp xem kỹ, Chính Lan nhét luôn vào bụng, mau chóng trở ra ngoài, rút tiểu kiếm chặt đứt ổ khóa, bồng từng tù nhân vào.
Cơn mưa đã tạnh hẳn, Chính Lan tập trung đuốc lại và xem xét. Chàng mừng rỡ khi thấy có cả Thiểm Điện Thần Kiếm Đỗ Vĩnh Huy. Bốn người kia là Hỏa chân nhân Tây Môn Nhỉ và ba lão già người Tây Vực, tuổi tác chắc nhỏ hơn chân nhân. Mặt mũi họ lem luốc, y phục nhàu nát, hôi hám, nhưng trên người không có vết thương nào. Cả năm đều chẳng mang giầy và chỉ mặc áo mỏng, chứng tỏ họ bị bắt khi đang ngủ. Người Hỏa giáo không sợ độc nhưng chẳng chống nổi thuốc mê của pháp sư.
Chính Lan lục tìm trong đống tay nải của bọn hán tử người Di, thấy có rượu và lương khô rất nhiều. Chàng bốc thuốc giải, nhét vào miệng từng người rồi để rượu vào. Thần diệu thay, chỉ nửa khắc sau họ đã trở mình, mở mắt. Chính Lan nghiêm giọng:
- Chư vị thử vận khí điều tức xem sao?
Năm người lặng lẽ nghe lời, ngồi lên tọa công. Gần canh giờ trôi qua, họ vươn vai đứng lên. Hỏa chân nhân thấy xác Chiêu Thống pháp sư kinh hãi hỏi:
- Các hạ là cao nhân phương nào lại giết được lão phù thủy này?
Chính Lan mỉm cười:
- Tại hạ nhờ đánh lén mà thành công chứ chẳng có tài cán gì cả.
Đỗ Vĩnh Huy đã nhận ra Báo Ứng Lang Quân. Gã mừng rỡ bước đến vái dài:
- Không ngờ cái mạng nhỏ này lại được Trọng huynh cứu sống lần nữa.
Quả đúng như vậy vì nếu tháng trước chàng không xuất hiện ở Vu Hồ thì gã cũng khó sống dưới tay Bạch Liên giáo. Vĩnh Huy hoan hỉ giới thiệu:
- Tây Môn lão gia, đây chính là Báo Ứng Lang Quân Trọng Phú Lan, người đã chữa trị thương thế cho Âu Dương ngũ phu nhân.
Chân nhân vui vẻ vỗ vai Chính Lan:
- Bần đạo nghe họ Đỗ hết lời tán dương thiếu hiệp, lòng cũng muốn gặp. Không ngờ trên đường về Vu Hồ lại bị Chiêu Thống pháp sư hạ thủ. Lúc tỉnh lại nhận ra Hoàng Bỉnh Lân, bần đạo mở lời thuyết phục lão. Mới nói được có vài câu đã bị lão búng mê hồn phấn vào xe, bất tỉnh luôn. Cuối cùng lại được thiếu hiếp giải cứu. Thật là trời cao có mắt.
Chân nhân chỉ ba lão già Tây Vực rồi giời thiệu:
- Họ là Hỏa giáo tam hộ pháp, sư đệ của lão phu!
Chính Lan thấy râu tóc, da dẻ của họ cũng đỏ như Tây Môn Nhỉ, nhưng vẻ mặt ngơ ngáo, mắt láo liên tinh nghịch. Chàng mỉm cười tự nhủ: “Không hiểu ba lão này có giống Hán Trung Tam Ngốc hay không nhỉ?”
Tam vị hộ pháp lúng túng xiết lại giải lưng quần. Một lão gượng cười:
- Bọn bần đạo nhịn đói đã lâu, nếu thiếu hiệp có gì ăn thì hay quá.
Chính Lan gật đầu, bước đến góc xa, xách những túi rượu và lương khô đến. Vĩnh Huy chạy đi gom những mảnh gỗ rải rác trong chùa, chất thành một đống, đút bốn bó đuốc vào. Tuy ẩm ướt nhưng đều đã mục nát, chỉ lát sau đống củi cháy bừng.
Chờ họ ăn no Chính Lan mới hỏi:
- Chân nhân và tam vị hộ pháp có mang theo Đảo Thiên thần đạn hay không?
Tây Môn Nhỉ buông đũa, thở dài:
- Bần đạo vì Bình nhi mà hai mươi năm rồi không trở lại Tây Vực, xao nhãng việc cúng tế sư tổ. Xét môn qui thì là kẻ có tội, nên bị trưởng giáo sư huynh trách mắng thậm tệ. Bần đạo hết lời van xin, cuối cùng trưởng giáo cho tam vị hộ pháp vào Trung Nguyên hỗ trợ, nhưng lại không ban cho hỏa khí. Nếu muốn chế tạo, phải mất nửa năm là ít.
Người thâm thấp là tứ hộ pháp Bạch Tuân. Lão đã no nê nên hào khí can vân:
- Bốn huynh đệ ta liên thủ, lo gì không quét sạch Bạch Liên giáo? Thiên Hỏa Tứ Tượng trận uy lực thế nào chắc nhị sư huynh đã biết?
Thì ra Hỏa chân nhân là nhị hộ pháp của Hỏa giáo. Tây Môn Nhỉ gật gù nhưng lại thở than:
- Nhưng biết đối phương nhốt tù nhân ở đâu mà tìm bây giờ?
Chính Lan chậm rãi nói:
- Tại hạ biết.
* * *
Đầu canh ba đêm rằm tháng năm, có một toán hắc y nhân tiến về phía Phong Nhân cốc, trong dãy núi Hành sơn. Nam nhạc Hành sơn là một trong những danh sơn của Trung Hoa. Nhưng đám hắc y nhân này đến đây chẳng phải để thưởng thức cảnh trăng treo đầu núi. Họ tản ra, ẩn mình sau những bụi cây, giám sát cửa ra vào Phong Nhân cốc. Và có một người nhanh nhẹn tiến vào đường độc đạo nhỏ hẹp và đầy hung hiểm kia. Gã núp mình sát vào vách đá, tung một nắm bột mịn rồi ve vẩy song thủ, tạo ra những trận gió nhẹ, đưa mê hồn phấn bay vào đến tận cuối đường.
Lát sau, gã nghe tiếng thân người ngã xuống nền đá, liền trở ra vẫy tay gọi đồng bọn. Năm bóng người lướt đến ngay. Ánh trăng rằm soi rõ dung mạo của họ. Đó là Chính Lan, Hỏa chân nhân, Thiểm Điện Thần Kiếm và ba lão già họ Bạch. Sáu người chạy vào đường cốc đạo, phát hiện mười tám thi thể nằm im như đã chết trong những ngách nhỏ hai bên vách. Bọn Hỏa chân nhân trụ lại để trấn giữ cửa cốc, chỉ mình Chính Lan đột nhập vào trong.
Trăng vàng chênh chếch đằng đông nên vùng đất dưới chân vách núi ấy không được soi sáng. Chính Lan men theo mé hữu mà đánh một vòng. Đường chàng đi chỉ toàn là cây cối, vì người trong cốc không dám làm nhà sát vách cốc, đề phòng đá trên vách lở ra, rơi xuống đầu. Nhờ vậy, Chính Lan có thể ung dung thám thính những căn nhà gỗ từ phía hậu.
Chàng không thấy một người cùi hủi nào, mà chỉ toàn bọn giáo đồ Bạch Liên giáo. Khi đến căn nhà gỗ đồ sộ ở cuối, nằm đối diện với cửa cốc, cách chân vách tám trượng, Chính Lan biết rằng đây là nơi cư trú của bọn thủ lãnh Phong Nhân cốc, liền êm thắm áp sát.
Trong nhà đèn vẫn sáng, và có bốn lão gìa áo vàng đang ngồi uống trà. Tuổi tác họ độ hơn sáu mươi, dung mạo phảng phất giống nhau. Người nào cũng răng hô, mũi tẹt, trán thấp và ánh mắt vô cùng tà quái.
Lão có nốt ruồi trên sống mũi thở dài thườn thượt:
- Chán thật, không hiểu đến bao giờ mới thoát khỏi kiếp canh tù này đây? Đã ba tháng rồi tiểu đệ không biết mùi nữ nhân là gì cả.
Lão râu bạc mỉm cười:
- Nếu tứ đệ ngứa nghề thì ngày mai anh em ta rời cốc, đến Trường Sa vài ngày. Tù nhân bị nhốt kỹ trong thạch lao, cửa cốc lại phòng bị nghiêm mật, có gì phải lo lắng? Hơn nữa, có ai mà lại ngờ rằng họ ở trong chốn đáng sợ này?
Lão không râu nhăn nhó:
- Đại ca, sao chúng ta không trở lại Chữ gia trang mà phải đầu nhập Bạch Liên giáo làm gì cho khổ thân?
Thì ra lão râu bạc chính là Chữ Công Sinh, trang chủ của cơ ngơi mà Chính Lan đã cứu Vô Nhân Kiếm Khách Hách Thiết Xuyên. Sau khi giết chết Phú Quí hội Hà Lăng, Chính Lan định tấn công Chữ gia trang, nhưng trinh sát báo về rằng không còn một bóng người. Ngờ đâu huynh đệ Chữ trang chủ lại qui phục Bạch Liên giáo và trấn giữ Phong Nhân cốc này.
Nhắc lại, lão râu bạc tức Chữ Công Sinh vui vẻ đáp lời người em:
- Tam đệ, anh em chúng ta chưa kịp khởi nghiệp đã đụng phải gã Hồng Nhất Điểm. Nay Thái Sơn Phủ Quân hùng tâm vạn trượng, tài trí hơn người, trước sau gì cũng tạo dựng được cơ đồ. Lúc ấy, Chữ thị tứ huynh đệ trở thành khai quốc công thần, vinh hiển biết bao? Ba em cố nhẫn nại một chút.
Lão quay sang bảo lão mặt đen:
- Nhị đệ ra sau kiểm tra lại thạch lao rồi hẵng ngủ. Hôm nay đến phiên ngươi đấy.
Chữ nhị gia gật đầu, đứng lên đi về phía sau. Chính Lan phấn khởi bám theo sát nút. Chàng thấy lão tiến về phía vách đá, hí hoáy mở một cánh cửu bằng gỗ đai sắt. Lão vào trong chỉ một chút rồi trở ra.
Chính Lan chờ lão đi khuất, lướt đến bên cánh cửa, dồn toàn lực vào tiểu kiếm, chặt đứt ổ khoá. Nỗi thương nhớ vợ con rộn rã trong lòng, chàng lướt vào như tia chớp, công lực dồn hết ra song thủ, sẵn sàng giết sạch những kẻ cản đường. Nhưng chẳng có tên ngục tốt nào cả, và trên ổ rơm cuối động có bốn người già đang nằm co quắp dưới ánh đèn dầu leo lét. Họ chính là các trưởng bối của chàng, Tây Thục nhất hùng Chu Điện Kiệt, Giang Tô đại hiệp Du Huỳnh và phu thê Tiêu trang chủ. Không thấy vợ con đâu, Chính Lan hơi thất vọng. Vậy là Bạch Liên giáo đã giam họ ở một nơi khác. Xem ra, cơ trí của Thái Sơn Phủ Quân quả là thâm hiểm, đáng mặt gian hùng.
Chính Lan trở ra ngoài, đứng trước cửa thạch lao hú vang dội cả sơn cốc. Tiếng hú cao vút như muốn trút nỗi căm hờn lên tận trăng vàng.
Bốn lão già họ Chữ và gần trăm tên Bạch Liên giáo hồn phi phách tán, xách vũ khí chạy đến. Chính Lan đã đóng chặt cửa nhà tù, hiên ngang chờ đợi. Dưới ánh đuốc rực rỡ của đối phương, nhãn thần chàng bừng bừng sát khí. Chữ Công Sinh thấy chàng chỉ có một mình, lão hỏi ngay:
- Tiểu tử kia, ngươi là ai và vào đây bằng lối nào vậy?
Chính Lan lạnh lùng buông từng tiếng:
- Ta là Báo Ứng Lang Quân, kẻ đã giết Phi Hoàn đại lão và Đào Hoa cung chủ đây. Bọn ngươi mau dọn mình đền tội.
Anh em họ Chữ biến sắc, không hiểu thực hay hư. Họ gầm lên hung dữ, nhất loạt xông vào. Trên tay họ là những cặp búa lưỡng nguyệt phủ dài độ năm gang lưỡi mỏng và sắc như dao cạo.
Phép đánh búa đã thất truyền từ lâu, không ngờ anh em họ Chữ lại học được. Chính Lan thấy khí thế đối phương như thác lũ, bốc lên không trung xuất chiêu Lãng Đả Quần Thạch. Lưới chưởng nối nhau giáng xuống như sấm sét. Tuyệt kỹ Nhất Hạc Xung Thiên đã tạo thế thượng phong cho chàng.
Lão già có nốt ruồi trên sống mũi, công lực kém nhất nên không giữ nổi vũ khí, và trúng hai chưởng vào vai hộc máu chết ngay. Hồn của lão chắc mau chóng lên đường đến thăm những kỹ viện ở Trường Sa cho thỏa chí.
Lúc này, bọn Hỏa chân nhân đã vào đến nơi, phóng tay chém giết. Những đạo chưởng kình đỏ rực thiêu đốt da thịt bọn Bạch Liên giáo, khiến chúng đau đớn kêu khóc vang trời, xem ra, bản lĩnh ba lão hộ pháp họ Bạch cũng chẳng kém gì Hỏa chân nhân. Chính Lan để bọn họ đối phó với anh em Chữ Công Sinh, còn chàng gọi Thiểm Điện Thần Kiếm và vài người nữa vào thạch lao, cõng tù nhân ra.
Cuối cùng, ba lão họ Chữ và đám giáo đồ Bạch Liên giáo đều bị giết sạch.
Bọn Chính Lan đưu bốn lão nhân về Vu Hồ tĩnh dưỡng. Liễu Thi Mạn cũng đã có mặt ở đây, khóc vùi khi gặp lại Hỏa chân nhân và các trưởng bối. Nàng nhìn Chính Lan bằng cặp mắt ai oán, nghi hoặc, nhưng không nói một lời, chàng cũng quay đi, bỏ về tòa nhà bát giác mà tránh mặt.
Chính Lan ngồi nhìn qua song cửa, ngắm mặt nước mênh mông của Vu Hồ, nhớ đến những người còn đang bị giam cầm. Chàng biết đã đến lúc mình phải thố lộ lai lịch với người thân. Bốn tù nhân kia vừa kiệt lực, vừa tuyệt vọng nên bệnh tình ngày càng xấu đi. Sự xuất hiện của chàng sẽ là liều thuốc hồi xuân đối với họ. Hơn nữa, chàng không còn chịu đựng nổi ánh mắt đau khổ của Thi Mạn nữa.
Chàng đang suy nghĩ miên man thì Hỏa chân nhân bước vào. Ông nhìn chàng chăm chú rồi run rẩy nói:
- Chính Lan, chẳng lẽ ngươi định để bọn ta chết cả rồi mới chịu lộ mặt hay sao?
Giọt lệ già nua hiếm hoi lăn trên gò mà nhăn nheo. Lão nhân cổ quái này đã yêu thương chàng như con ruột của mình. Chính Lan không kiềm nổi niềm xúc động, sụp xuống khóc gọi:
- Lão gia!
Hỏa chân nhân nghe bọn Thi Mạn và Sơn Đông Tử Phòng nêu lên những nghi vấn rằng Báo Ứng Lang Quân có thể là Âu Dương Chính Lan, liền ngẩn người suy nghĩ và linh cảm rằng họ nói đúng. Tính lão nóng như lửa nên tìm đến kiểm tra ngay. Lão biết chàng rất tôn kính, yêu thương mình, tất không dám giấu. Tuy nhiên, khi chàng thừa nhận lão mới hết thấp thỏm. Tây Môn Nhỉ vui mừng khôn xiết, đỡ chàng lên, xiết chặt vào lòng, hạ giọng thì thầm:
- Hài nhi, ta vẫn không tin rằng ngươi lại vắn số như vậy? Nếu không vì bọn nữ nhân sinh đẻ, bệnh hoạn liên miên thì ta đã đến Vân Mộng sơn, lần xuống Vô Uyên Để tìm ngươi rồi.
Lão nói đến đây thì ở ngoài có tiếng nữ nhân bật khóc, và Liễu Thi Mạn bước vào. Chính Lan gỡ mặt nạ chạy đến ôm nàng. Cả hai khóc vùi, không nhận ra có nhiều người đã bước vào theo Thi Mạn.