Màn đêm buông xuống, ánh lửa yếu ớt lập lòe trên sa mạc, làn khói nhạt vẩn vơ bay lên không trung.
Bên cạnh đống lửa, thiếu nữ giao nhân với mái tóc xanh màu nước biển lặng lẽ đợi chủ nhân trở về. Không bao lâu, quả thật có tiếng bước chân từ hướng Tây Bắc vọng đến, hai con xích đà kéo theo một cỗ thuyền cát xuất hiện giữa sắc đêm tăm tối. Một gã thanh niên khoác quân phục nhảy xuống, vắn tắt ra lệnh: "Thu dọn đồ đạc! Khởi hành trong đêm!"
Hơn nửa đêm không được an giấc, Tương vẫn chỉ đáp lại một tiếng, không chút oán than bắt đầu thu dọn hành trang.
"Ném lên đây!" Đợi mọi thứ thu dọn xong, Vân Hoán ngồi trên thuyền cát đưa tay về phía Tương. Thiếu nữ người cá vất vả dùng hai tay nâng bao hành lý đó lên, đưa cho thiếu tướng. Vân Hoán một tay nhận lấy, tay kia đồng thời đưa xuống, nhẹ nhàng đỡ Tương, đặt vào chỗ ngồi bên cạnh mình.
"Biết điều khiển xích đà chứ?" Vân Hoán trao dây cương vào tay giao nhân , lạnh lùng căn dặn: "Quan sát sao Bắc Đẩu trên trời để phán đoán phương vị, đi thẳng về hướng tây!"
"Vâng!" Tương đáp lại một tiếng, vẻ mặt vô cảm, nhận lấy dây cương, bắt đầu điều khiển xích đà lên đường.
Xích đà sải những bước lớn, uyển chuyển trên cát, ung dung tiến lên, kéo theo chiếc thuyền cát được chế tạo từ gỗ Hồ Dương, lưu lại trên đường hai vệt hằn sâu. Gió hoang mạc gào thét, thốc thẳng vào mặt. Tuy là tiết trời tháng tư, song nửa đêm, vùng sa mạc Bác Cổ Nhĩ này vẫn lạnh run người, hơi nóng phả ra từ khóe miệng trong chốc lát đã biến thành làn khói trắng.
Đôi Mắt Vân Hoán vẫn điềm tĩnh ngắm sao. Giữa những ngôi sao nhỏ rải rác khắp màn trời, bảy ngôi sao trong chòm Bắc Đẩu rực rỡ huy hoàng. Ánh mắt y dừng lại ở ngôi sao thứ bảy: Phá Quân, bỗng nhớ đến phong hiệu của y trong quân đoàn là: Phá Quân Thiếu Tướng. Khóe môi y hơi nhếch lên, Thương Lưu Băng tộc từ trước đến nay không tin vào những điều đại loại như số mệnh, y cũng không thừa nhận ngôi sao đó đối ứng với hành động và bản thân mình. Song Vu Bành đại nhân lại giải thích ý nghĩa hai từ Phá Quân là thiện chiến, đánh tan tác quân địch, dùng để ám chỉ ái tướng kiêu dũng, đứng đầu ba quân.
Dưới màn đêm, xích đà kéo theo thuyền cát chạy về cuối trời Tây, song suốt dọc đường ánh mắt thiếu tướng lại có vẻ ngẩn ngơ khác thường.
Y dẫu sau vẫn không có bạn... Mẫu thân mất sớm, phụ thân hi sinh trên sa trường, tỷ tỷ và muội muội trước sau hiến thân thành Thánh nữ. Tất cả những người bên cạnh y đều không thể lưu lại lâu dài. Bên y lâu nhất chẳng ngờ lại là một giao nhân, Tiêu... Song ba tháng trước cũng đã vì y hi sinh trong một trận chiến. Hiện tại, cả những bằng hữu thân thiết trước kia cũng đã đoạn tuyệt quan hệ với y.
Thế nhưng trong lúc những hồi ức này trỗi dậy, sắc mặt thiếu tướng Thương Lưu đế quốc vẫn lạnh lùng như thường lệ.
Lặng lẽ bôn ba, không biết qua bao lâu, sắc trời dần dần sáng hơn. Đại mạc vẫn trải dài mênh mông vô tận, song trong lớp bụi cát vàng mù mịt đã mơ hồ thấy được bóng dãy núi xanh thẫm uốn lượn nơi phương xa. Đó chính là núi Không Tịch, sừng sững cuối trời Tây.
Trong làn gió trước buổi bình minh vẫn còn nghe văng vẳng tiếng khóc than. Bi thương và oán hận đến trăm năm vẫn chưa tan.
Người Không Tang tiền triều tin rằng con người sau khi chết đi vẫn còn lưu lại hồn phách. Núi Cửu Nghi ở tận cùng phương Bắc chính là cửa vào âm giới. Người chết từ nơi đó sẽ qua bỉ ngạn chuyển sinh. Nếu những hồn phách ấy không thể bước qua cửa, thì sẽ đến tụ họp trên đến đỉnh núi Không Tịch sừng sững giá buốt cuối trời Tây, cùng nhau tan biến. Một trăm năm trước đế quốc Thương Lưu đã thống trị vùng Vân Hoang đại địa, để trấn áp những người Không Tang sau khi chết vẫn không chịu an phận nghỉ ngơi, họ đã lập nên tế đàn trên núi Không Tịch, thiết lập phong ấn vô cùng lợi hại.
Giờ đây, không ai dám leo lên đỉnh núi ngút trời, quanh năm tuyết phủ đó nữa. Truyền thuyết kể rằng, sau khi những người Không Tang bị đóng đinh trên núi Không Tịch, thi thể được phân theo bộ tộc thuộc địa thành sáu núi lớn. Mỗi một núi xác người ấy đều khúc khuỷu ngoằn ngoèo, tựa hồ như lăng mộ mãi mãi không có điểm dừng. Lăng mộ tử vong ấy phân thành chín tầng, bốn bức tường lại dùng ngàn vạn xương trắng xây nên. Mỗi một cửa cung đều có dán bùa chú cấm cố tự tay Trí Giả đại nhân viết. Thi thể càng cao quý, tỷ như chúa tể các tộc, càng bị phong ấn sâu trong địa cung.
Thế nhưng những quỷ hồn kia vẫn không thể an phận, tuy bị cấm cố tại lăng mộ, vô phương rời khỏi, nhưng lại cố gắng mang oan niệm xuyên khỏi địa cung, mọc rễ đâm chồi thành cây thân đỏ, hướng về cố đô phía Đông than khóc không ngừng. Những “cây” hình người ấy mọc chi chít khắp núi Không Tịch. Từ xa nhìn lại, trên đỉnh núi trắng như tuyết như mọc ra rừng san hô đỏ, mỹ lệ muôn phần. Song những nhánh cây ấy lại cực kì âm độc, có thể lôi kéo bất cứ sinh linh nào tiếp xúc với nó vào vùng tử vong. Một trăm năm nay, không ai dám lên núi Không Tịch một bước, thậm chí chim chóc cũng chưa từng bay qua đỉnh núi.
Ngoại trừ quân đoàn đế quốc Thương Lưu đóng quân trấn giữ Sa Quốc ở Tây Bắc ngoài thành Không Tịch, vùng sa mạc này hiếm có mục dân xuất hiện, dù là những tên cường đạo cướp của tung hoành sa mạc, coi trời bằng vung cũng không dám đến gần khu vực tử vong này.
Trong ánh bình minh, Vân Hoán nhìn ngọn núi đồ sồ phương xa đang dần dần hiện rõ, thần sắc có chút ngẩn ngơ.
Khi còn bé, y cùng người nhà bị đế quốc Thương Lưu trục xuất đến vùng này. Cư trú ở nơi đây, thiếu niên bướng bỉnh, lầm lì bị tất cả mục dân bản xứ ức hiếp và cô lập, không chỉ người lớn không qua lại với gia đình y, thậm chí những đứa trẻ hung hãn trên sa mạc đó cũng thường xuyên gây khó dễ cho hài tử Băng tộc, sắc mặt trắng bệch như y. Mỗi ngày chỉ cần y đi một mình, gây hấn và đánh lộn là điều không thể tránh khỏi.
Những thiếu niên đại mạc đó bản thân cũng có sự kiêu ngạo riêng, tuy kéo bạn đến, nhưng chưa từng quần ẩu với một đứa trẻ Băng tộc đơn độc, chỉ khiêu chiến một chọi một. Bọn trẻ con mục dân cao và khỏe ấy, vật lộn bắn tên so với y càng thông thạo gấp mười lần, song trong những trận đánh ác liệt, y vẫn chiến thắng bởi sự hung dữ và ngoan cường. Cách đánh liều mạng như vậy dần dần dọa được bọn trẻ con mục dân cao to đó. Bất kể có phải là rợ Băng hay không, mọi bộ tộc dưới ánh mặt trời gay gắt trên đại mạc rộng lớn đều kính trọng tính cách bất khuất, ngoan cường. Về sau, đánh nhau mỗi ngày không còn là khiêu chiến giữa các chủng tộc với nhau, ngược lại trở thành một dạng trò chơi đọ sức giữa những đứa trẻ cùng tuổi.
Áo Phổ cao to đè y đánh, nha đầu Diệp Tái Nhĩ ngang tàng ngày xưa thích lấy roi da quất y, lúc đó A Đô vẫn còn bé tí... Chính những người đó đã khiến cho thời niên thiếu bấp bênh, trôi giạt của y không còn trống trải. Lúc đấy y chẳng qua chỉ là một đứa trẻ Băng tộc bình thường bị lưu đày, vẫn không biết đám người du mục đó lại là di dân bộ lạc Hoắc Đồ mà đế quốc truy sát nhiều năm.
Thế nhưng... Điều đó có quan trọng gì? Khoảng thời gian đó, y không phải quân nhân, không phải thiếu tướng quân đoàn Chinh Thiên, y chẳng cần quan tâm người bên cạnh có mưu đồ lật đổ quốc gia của bọn y hay không. Y chẳng qua là một đứa trẻ mười hai, mười ba tuổi chơi với đám trẻ con cùng tuổi, bởi vì trong thành Không Tịch không có đứa trẻ Băng tộc nào khác.
Còn nhớ, có một hôm, nha đầu Diệp Tái Nhĩ đưa ra đề nghị. Cô bé kể rằng bãi đá hoang vắng phía Nam bên ngoài thành, dưới chân núi Không Tịch, có một ngôi mộ cổ xây bằng đá. Trong truyền thuyết, đó là nơi ở của nữ tiên. Vào đêm trước ngày trăng tròn, rất nhiều mục dân đều đến trước mộ quỳ bái, khấn vái, thỉnh cầu sự ban phúc của nữ tiên trong mộ. Dưới ánh trăng rằm, khi bọn linh điểu và tà ma gào thét, nữ tiên đó liền xuất hiện, điều khiển chớp điện chói sáng trên bầu trời, xua đuổi những con ma vật ấy, bảo hộ sự an toàn của mục dân và vật nuôi.
"Chúng ta đến đó xem đi!" Tất cả trẻ con đều chất chứa nỗi niềm khát khao phiêu lưu mạo hiểm trong tâm. Nghe xong câu chuyện của Diệp Tái Nhĩ, toàn bộ hô hoán đứng dậy, chen chúc nhau chạy đến ngoại thành, y đương nhiên cũng bị kéo theo cùng.
Sau đó, tại nơi hoang vu ngoài thành Không Tịch, những đứa trẻ nhanh chóng bị các cạm bẫy và trận pháp kì quái giữ chặt, kêu cứu thất thanh. Cửa đá cổ mộ chầm chậm mở ra, một nữ nhân thanh nhã, mĩ lệ ngồi trên xe lăn mỉm cười, dường như đang ngẩng đầu ngắm nhìn ánh tà dương trên cao rọi xuống bề mặt đại mạc, trong lòng ôm một con tiểu hồ ly màu xanh, ánh mắt lanh lợi, chăm chú nhìn những vị khách.
Thiếu niên Băng tộc và hết thảy bạn y cùng ngây người ra nhìn. Nữ nhân trước mắt không còn trẻ, tuổi tác ước độ tam tuần, sắc mặt trắng bệch như có bệnh. Y phục toàn thân trắng toát, mái tóc đen dài như thác nước tuôn xuống, lúc mỉm cười, sóng mắt ôn nhu như mộng, trong vẻ dịu dàng mĩ lệ khôn tả lại mơ hồ ẩn hiện khí chất mạnh mẽ.
Rất lâu, nữ nhân trên xe lăn đó mới quay đầu lại, hướng về đám trẻ con đang hoang mang ấy, nở nụ cười: "Hoan nghênh!"
Đấy là nữ Kiếm Thánh của tiền triều Không Tang, cùng với Tôn Uyên là người có kiếm thuật tối cao trên khắp Vân Hoang đại lục, tên gọi Mộ Yên. Từ lúc Không Tang khai quốc đến nay, Kiếm Thánh truyền từ đời này sang đời khác, sinh ra vô số anh hùng hiệp khách, lưu danh sử sách. Song danh xưng Kiếm Thánh chẳng phải chỉ một người, mỗi một đời đều có nam nữ hai vị Kiếm Thánh, địa vị ngang nhau. Mỗi người được truyền thụ và thông hiểu phong cách kiếm thuật khác nhau, tựa như ngày với đêm, trời cùng đất, tương hỗ sinh tồn. Do rất nhiều nguyên nhân, Mộ Yên ngày trước sau khi xuất sư, chưa từng hành tẩu trên vùng đất Vân Hoang đã gặp phải biến cố, đoạn tuyệt ý nghĩ đặt chân vào hồng trần. Cho nên dù là nữ Kiếm Thánh Không Tang, không như sư huynh Tôn Uyên danh chấn thiên hạ, sự tồn tại của bà thậm chí người thường không hề biết đến.
Những điều này, sau khi chính thức bái sư nhập môn, trong khoảng thời gian ba năm y mới dần dần biết được. Trước đó, y chỉ cảm thấy nữ nhân như thế tuyệt không phải người đang sống trong cõi hồng trần này, phảng phất như hình ảnh lạnh lẽo xuất trần từ khoản thời gian nào xa xưa lắm, khiến lòng người sinh lạnh, dấy lên niềm kính ngưỡng.
Dẹp bỏ sự gai góc, bướng bỉnh, thiếu niên Băng tộc phủ phục dưới chân nữ tử dị tộc. Và người sử dụng xe lăn ấy nhẹ nhàng đặt tay lên đỉnh đầu y, truyền thụ kiếm quyết. Không ngờ y đã bái một nữ nhân Không Tang làm sư phụ.