Hồi 4
Tửu điếm chiêu nghĩa tử
Sơn thượng đả phán quan
Hai ngày sau, Phiêu Trần vượt Trường Giang, nhắm hướng Bắc rong ruổi. Tứ Xuyên là một bồn địa trũng thấp nhưng núi non rất nhiều, đường đi lại gập ghềnh, hiểm trở. Có những đoạn không thể mở đường, người ta phải lót gỗ cạnh sườg núi, cheo leo, tạo thành sạn đạo để mà đi. Tứ Xuyên chính là đất Thục, và đường vào Thục khó khăn đến nỗi thi hào Lý Bạch đã phải làm thơ mà tán tụng.
Nhưng Phiêu Trần lần đầu rời nhà hoàn toàn bị hấp dẫn bởi cảnh đẹp hùng vĩ, hiểm tuấn của núi non đất Thục. Chàng chẳng nề hà gian khổ, say mê thưởng thức phong cảnh, lại còn vỗ bao kiếm, cao giọng ngâm bài Thục Đạo Nam. Bài thơ này rất dài, tác giả chỉ xin trích một đoạn:
“…Vấn quân Tây du, hà thời hoàn?
Ưu đồ sâm nhan bất khả phan!
Đảm kiếm bi điểu hào cổ mộc
Hùng phi tòng hư nhiễu lam gian
Hựu Văn Tử Qui đề nguyệt dạ
Sầu không san!
Thục Đạo chi nan, han ư thướng
Thanh thiên!”
Dịch thơ:
“…Hỏi bạn sang Tây bao giờ về?
Sợ đường hiểm trở khó leo ghê!
Chỉ thấy chim buồn gào cổ thụ
Trống theo đuôi mai lượn rừng cây
Lại nghe Đỗ Quyên kêu dưới nguyệt
Buồn tênh núi vắng người!
Đường Thục đi gay, gay hơn lên trời.”
Chỉ một đoạn thơ ngắn này cũng đủ cho chúng ta cảm giác về một vùng núi non hiểm trở, vắng vẻ hiu quạnh.
Trưa ngày mùng chín, Phiêu Trần đến cánh rừng già dưới chân núi Đại Thê Sơn. Cùng với Vũ Lương Sơn, ngọn núi Đại Thê Sơn nằm án ngữ mé Đông Nam của Bồn Địa Tứ Xuyên. Núi này chỉ cao bốn trăm trượng, khí hậu nóng ẩm, rừng cây trong Sơn vực phát triển rất tốt.
Phiêu Trần thấy ngựa thấm mệt liền ghé vào bìa rừng nghỉ ngơi. Mấy ngày qua, chàng đã quen với cảnh gió sương, tự tìm lấy lương thực mà ăn vì đường vắng không người, hàng trăm dặm mới có một mái nhà! Phiêu Trần đã rửa sạch chất độc ở vài mũi ám khí Bát Túc Phi Tiền, dùng nó để săn thú. Tất nhiên chỉ là những con thú nhỏ như thỏ, chồn, cheo, gà rừng…
Giờ đây, Phiêu Trần cũng xuống ngựa, đi sâu vào rừng để tìm bữa ăn chiều. Được hơn trăm dặm, trước mặt chàng hiện ra một suối nước trong vắt. Cạnh bờ suối là một tảng đá lớn cao hơn trượng, người đứng dưới không thể nhìn thấy trên đỉnh, chỉ biết rằng nó có vẻ bằng phẳng.
Bỗng trong bụi rậm mé tả Phiêu Trần có tiếng sột soạt. Chàng quay sang, thấy một chú thỏ xám béo tròn, liền búng ngay một mũi Bát Túc Phi Tiền. Mũi ám khí bay đi, cắm phập vào gần cổ con mồi. Chú thỏ lăn ra dẫy dụa, một lúc rồi chết.
Phiêu Trần khoan khoái xoa tay, trở ra ngoài dắt ngựa vào. Đoạn bờ suối này là nơi nghỉ qua đêm rất lý tưởng.
Ăn uống, tắm gội xong, Phiêu Trần tung mình lên đỉnh tảng đá, định dọn dẹp chỗ ngủ qua đêm. Chàng kinh hãi nhận ra trên ấy đã có sẵn một bộ xương khô.
Chàng đến gần quan sát, xác định nạn nhân mới qua đời chừng vài tháng mà thôi. Kim Nhãn Điêu Sở Quyền đã đem những kinh nghiệm trong nghề Bộ Đầu dạy lai cho đứa cháu yêu quí, vì biết sau này Phiêu Trần sẽ phải dấn thân vào chốn giang hồ để báo cừu!
Da thịt của tử thi đã bị côn trùng, sâu bọ nhấm sạch, nhưng những sợi gân chính vẫn còn. Qua kích thước bộ xương, Phiêu Trần biết đấy là một nam nhân. Xem hàm răng, chàng đoán y độ ba mươi lăm tuổi! Dấu vết quan trọng thứ hai chính là dòng chữ mà y dùng kiếm vạch trên mặt đá, tuy nghuệch ngoạc nhưng vẫn còn đọc được:
“Tại hạ là Cửu Châu Thần Kiếm Đồng Kim Tuấn, Bảo Chủ Kiếm Bảo ở Nam Dương, tiết đoan ngọ năm nay cùng Lạc Dương Bá Đao Hứa Kỳ Phương đi ngoạn cảnh vu sơn. Nào ngờ, lúc trở về, họ Hứa bất ngờ ra tay ám hại Đồng mỗ. Tuấn này thọ trọng thương nhưng vẫn đào tẩu được đến đây mới kiệt lực. Bậc hảo hán nào phát hiện được thi hài của Đồng mỗ, xin vì tình đồng đạo mà mai táng giùm, và đến Kiếm Bảo báo tin cho huyết thê Tư Đồ Lan biết mà báo thù. Chút di vật để lại Đồng mỗ xin tặng người hảo tâm. Cửu Châu Thần Kiếm di bút!”
Chữ viết càng về cuối càng mờ, chứng tỏ Đồng Kim Tuấn sắp tuyệt khí. Phiêu trần thở dài cho số kiếp của một bậc anh hùng. Họ Đồng thành danh rất sớm, bản lãnh cao cường vào bậc nhất trong đám thanh niên. Tính tình y hào sảng, trượng nghĩa, thấy chuyện bất bình là bạt kiếm can thiệp chẳng kể gì đến sinh tử. Kim Tuấn cũng là đệ tử tục gia của phái Nga Mi. Phiêu Trần cúi xuống vái ba vái khấn rằng:
- Đồng sư huynh là bậc anh hùng cái thế, tiểu đệ vẫn thường ngưỡng mộ từ lâu. Tiêu đệ sẽ đem di cốt Đồng sư huynh về Kiếm Bảo, và sẽ giết kẻ cẩu tặc Hứa Kỳ Phương báo thù cho Đồng sư huynh!
Chàng đảo mắt nhìn quanh thấy gần mép tảng đá có một bọc hành lý bằng da thuộc, tuy bị mưa nắng làm cứng keo nhưng vẫn chưa rách. Phiêu Trần bước đến mở xem thử. Ngoài hai bộ y phục còn mấy chục nén vàng, và một chiếc hộp đồng dài rất tinh xảo. Trong chiếc hộp có một thanh tiểu kiếm dài độ gang rưỡi, lưỡi kiếm khắc bốn chữ Tru Tiên Tiểu Kiếm, chuôi kiếm bằng sừng tê đen bóng. Vật thứ hai là một chiếc mặt nạ da người mỏng như cánh chuồn.
Ngay đêm ấy, Phiêu Trần tiến hành cuộc hỏa thiêu di cốt của Cửu Châu Thần Kiếm. Rừng thu nhiều củi khô, lửa cháy hừng hực đến trưa hôm sau thì bộ xương trắng tinh vỡ vụn. Phiêu Trần hốt đầy vào hộp đồng, còn bao nhiêu rải cả xuống suối. Trước lúc lên đường, chàng mang thử tấm mặt nạ và hài lòng vì dung mạo mình xấu xí hẳn đi. Bởi những nốt rỗ lưa thưa. Với gương mặt này, chàng sẽ thoát được lưới tình và thực thi lời giáo huấn của ân sư.
Lại thêm năm ngày rong ruổi cực nhọc, Phiêu Trần đến trấn Nga Mi vào sáng mười năm. Thấy chuông chùa Vạn Niên Tự vẫn vang êm ả, chàng yên lòng tìm quán dùng điểm tâm. Khi đi ngang Phật Sơn Đại Tửu Điếm, Phiêu Trần nhận ra bên trong có nhiều khách võ lâm, liền dừng ngựa, ghé vào.
May mà vẫn còn bàn trống! Phiêu Trần lột nón rộng vành, ngồi xuống ghế. Gương mặt rỗ hoa của chàng trai tuổi hai mươi này không làm ai chú ý cả. Phiêu Trần vừa ăn, vừa lắng nghe, nhận ra quần hùng đang bàn bạc về lễ đại thượng thọ Bách Tuế của Chưởng môn phái Nga Mi, Phật Quang Thần Tăng.
Là đệ tử Phật môn, chú trọng việc giải thoát khỏi nghiệp bá quả luân hồi, cứu cánh là niết bàn, nên chẳng nhà sư nào vui mừng vì mình sống lâu cả. Nhưng Nga Mi là một phái lớn, đệ tử tục gia đông đến hàng ngàn, vì vậy, họ biểu lộ sự tôn sư trọng đạo bằng cách bỏ tiền ra tổ chức lễ khánh thọ Bách Tuế cho chưởng môn.
Vạn Niên Tự là đất Phật trang nghiêm, chẳng thể tìm đâu ra rượu thịt. Ngoại trừ đại biểu các phái Bạch Đạo như Thiếu Lâm, Võ Đang, Hoa Sơn, Không Động… Đã lên chùa làm khách, số còn lại đều lần lữa trong Phật Sơn Trấn để tự do ăn nhậu, chờ đến ngày mười sáu tháng mười.
Phiêu Trần thầm nghĩ:
- Cha ta cũng là đệ tử Nga Mi, nay người đi Chiết Giang, chắc không thể đến đây được. Có lẽ ta phải mua ít lễ vật, thay người mà mừng thọ chưởng môn!
Chàng đang miên man suy nghĩ, bỗng chợt giật mình bởi tiếng thép tốt chạm nhau ngân ong ong. Thì ra ngay cửa quán đã xuất hiện một nhân vật đặc biệt. Đó là một cậu bé tuổi độ mười ba, mười bốn đen đủi và béo tròn, bộ y phục sơn cước nhiều màu trên người và đôi giầy vải dưới chân đã rách như sơ mướp.
Cái đầu trọc tếu và gương mặt non nớt kia có nét gì vừa hoạt kê, lại vừa đáng thương, dù cậu bé cố tỏ ra chững chạc, uy nghiêm. Vật đã phát ra tiếng động chát tai lúc nãy chính là đôi chùy thép đen bóng, dài độ bốn gang, đầu chùy không tròn mà có cạnh như trái khế, và mũi nhọn hoắt. Phiêu Trần ước lượng cặp thiết chùy này nặng không dưới bốn mươi cân, thầm khen ngợi sức lực của đứa trẻ sơn cước.
Tuy bộ dạng rách rưới như vậy, nhưng cậu ta vào đây chẳng để xin ăn, mà lại dõng dạc nói:
- Bẩm chư vị anh hùng! Vãn bối là Đồng Phỉ, Thiếu Sơn Chủ Kỳ Liên Sơn, có việc mong được chư vị thỉnh giáo!
Mọi người đang cười cợt, giật mình ồ lên, không ngờ cậu bé đen đúa kia lại là hậu duệ của Kỳ Liên Sơn Chủ, Đại Lực Thần Quân Từ Lộc, người có thần lực thiên sanh nổi tiếng võ lâm. Đồng Phỉ hắng giọng nói tiếp:
- Vãn bối là ngoại tôn của Đại Lực Thần Quân, lần này từ Cam Túc vào đây cốt để tìm cha!
Quần hào cảm động trước cảnh vạn lý tầm huyên, gật gù lắng tai nghe, một người hỏi ngay:
- Danh tự và hình dáng lệnh tôn thế nào, thiếu hiệp cứ nói ra xem bọn lão phu có giúp gì được hay không?
Đồng Phỉ buồn rầu đáp:
- Gia phụ họ Đồng, tên Ngân Tú năm nay ba mươi bảy tuổi. Mười năm năm trước, người đến Kỳ Liên Sơn tầm bảo, bị độc xà cắn phải và được gia mẫu cứu mạng. Hai người chung sống với nhau được ba tháng thì gia phụ bỏ về Trung Nguyên thăm nhà, không quay lại nữa, và không biết rằng gia mẫu đã mang thai vãn bối. Nay gia mẫu đã thất lộc, vãn bối chỉ còn có một mình nên lặn lội đi tìm thân phụ. Khi đi qua Nga Mi Sơn này, nghe nói có đại lễ khánh thọ chưởng môn nhân, nên ghé vào xem thử, vì gia phụ là đệ tử của phái Nga Mi!
Phiêu Trần nghe xong toát mồ hôi, đoán rằng người cha bạc tình của Đồng Phỉ có thể là Cửu Châu Thần Kiếm Đồng Kim Tuấn. Hai chữ Ngân Tú và Kim Tuấn đối nhau rất chỉnh!
Lúc này, một hán tử nóng tính đã ngoác miệng ra chửi:
- Cái gã họ Đồng kia quả là đốn mạt, vậy dung mạo gã ra sao?
Đồng Phỉ tư lự:
- Gia mẫu bảo rằng gia phụ có bẩy nốt rỗ nằm theo phương vị Thất Tinh Bắc Đẩu!
Bọn người xôn xao, cùng nhìn về phía Phiêu Trần. Chàng ngồi ở trong nên Đồng Phỉ không nhìn thấy! Một lão già áo gấm, tuổi lục tuần, ngồi gần bàn Phiêu Trần, liền nghiêm giọng gọi:
- Đồng thiếu hiệp thử vào đây xem người này có phỉa là lệnh tôn hay không?
Lão ta không dám quả quyết dù trên mặt Phiêu Trần có đủ bẩy nốt rỗ Thất Tinh, vì chàng còn rất trẻ, trong khi Đồng Ngân Tú đã ba mươi bảy! Đồng Phỉ nghe gọi, mừng rỡ bước vào, chăm chú nhìn Phiêu Trần, rồi quỳ ngay xuống bật khóc ồ ồ:
- Phụ thân! Lẽ nào người lại không chịu nhận hài nhi là giọt máu của mình? Thanh Tru Thiên Tiểu Kiếm người đang giắt ở bụng kia chính là vật mà gia mẫu đã tặng. Hài nhi thường được xem bức họa chân dung và tiểu kiếm nên không thể nào lầm được!
Phiêu Trần chết đứng người, không biết phải biện bạch thế nào cả! Nếu chàng lộ mặt, nói ra sự thật thì còn gì danh dự của Đồng Kim Tuấn? Hơn nữa, cảnh ngộ côi cút của Đồng Phỉ khiến chàng động lòng thương, không muốn làm nó thất vọng ngay!
Chàng thở dài đỡ cậu bé dậy, ngượng ngùng tìm lời an ủi:
- Năm xưa, ta trở lại Hà Nam thăm nhà, tình cờ gặp bằng hữu rủ ta đi Đông Hải tìm Bất Lão Trường Xuân Quả. Nào ngờ giữa đường gặp bão, đắm thuyền, dạt vào đảo hoang suốt mười mấy năm, vừa mới được thuyền buôn cứu thoát, đưa về đất liền hai tháng nay, nên chưa thể đi Kỳ Liên Sơn thăm mẫu thân ngươi được!
Phiêu Trần bịa ra thiên cố sự này để Đồng Phỉ được vui và không oán hận người cha bạc bẽo! Quả nhiên, cậu bé hoan hỉ hẳn lên:
- Thế mà bao năm qua, hài nhi cứ tưởng phụ thân chê gia mẫu xấu xí nên rời bỏ!
Truyền Thuyết về Bất Lão Trường Xuân Quả ở Đông Hải đã tồn tại hàng trăm năm, ai cũng biết cả. Vì vậy, quần hùng nhìn Phiêu Trần với ánh mắt ngưỡng mộ! Họ đoán rằng chàng đã tìm được linh quả nên mới trẻ trung như mới hai mươi dù tuổi thực đã ba mươi bẩy?
Phiêu Trần sợ mọi người hỏi han sẽ lộ ra sơ hở, nên gọi tiểu nhị tính tiền, dẫn Đồng Phỉ đi ngay!
Quần hào nhìn theo, xì xầm bàn tán không hiểu chàng là đệ tử của cao thủ nào trong phái Nga Mi?
* * *
Giờ Thìn sáng hôm sau, quan khách lũ lượt kéo nhau lên Vạn Niên Tự dự lễ. Cha con họ Đồng cũng có mặt.
Đồng Phỉ giờ đây như lột xác, y phục bảnh bao, mặt tươi rói, ríu rít cười nói với phụ thân. Phiêu Trần không nỡ nói ra sự thật, cố kéo dài cho đến lúc đưa được Đồng Phỉ về Kiếm Bảo. Chàng tận tâm chăm sóc cậu bé bất hạnh, dù luôn phải toát mồ hôi trước những câu hỏi của nó. Chàng đã mua lễ vật, định sẽ dùng thân phận đồ đệ của Kim Nhãn Điêu Sở Quyền để dâng lễ.
Phiêu Trần đảo mắt nhìn khắp nơi, xem Sở Lão và Sách Siêu có đến đây hay không. Đó chỉ là vì cẩn thận, chứ thực ra hai người ấy đi Chiết Giang, không thể xuất hiện ở đây được.
Địa điểm bày bàn tiệc là sân gạch ở mé hữu đại điện của Vạn Niên Tự. Đây là chỗ luyện võ của đệ tử Nga Mi nên rất rộng rãi, mát mẻ. Những cây long não cổ thụ vươn tán sum xuê và tỏa mùi thơm dìu dịu.
Giờ đây, trên mảnh sân ấy bày đến ba trăm bàn tiệc, vì khách mời và đám đệ tử tục gia không dưới hai ngàn người. Giữa giờ Tỵ, quan khách đã tựu vị đông đủ. Tiệc chay được bày lên bàn bởi đám nữ đệ tử Nga Mi ngoài hai chục ni cô áo xanh xám, số còn lại đều là đệ tử tục gia, y phục hoa lệ, diêm dúa, cười nói như hoa nở, khiến thực khách khoan khoái tâm hồn.
Đạo quân phục vụ ấy được thống lĩnh bởi một nữ lang tuổi độ hai mươi lăm, hai mươi sáu, xinh đẹp tuyệt trần. Nàng tất bật ngược xuôi, điều động đồng môn, mồ hôi lấm tấm trên mặt nhưng miệng luôn điểm nụ cười quyến rũ. Đám khách ngồi cùng bàn với Phiêu Trần bàn tán:
- Cửu Châu Thần Kiếm đâu không thấy, mà lại để cho vợ y là Tiêu Tương Thần Nữ Tư Đồ Lan đứng ra cáng đáng sự vụ.
Phiêu Trần giật mình khi gặp Thần Nữ ở đây. Quả nhiên Tư Đồ Lan nhận biết dung mạo giả của phu tướng, nàng hơi sửng sốt, nhưng chỉ mỉm cười và khẽ nháy mắt với Phiêu Trần! Sợ nàng hô hoán hay bước đến hỏi han, Phiêu Trần bảo đứa con bất đắc dĩ:
- Phỉ nhi ngồi yên đây, ta đi một vòng ngoạn cảnh rồi sẽ quay lại!
Cậu bé phụng phịu:
- Hài nhi chẳng hề muốn rời xa phụ thân một khăc nào cả! Cha con ta cùng đi vậy!
Câu nói này có thể xuất phát từ tấm lòng yêu thương, quyến luyến và cũng có thể cậu bé sợ cha mình lén bỏ đi, như ngày xưa đã từng rời xa Kỳ Liên Sơn vậy.
Phiêu Trần gượng cười:
- Ừ! Chúng ta cùng đi!
Hai người rời bàn, bước ra ngoài. Tư Đồ Lan nhìn theo, tự hỏi đứa bé đen đủi đang đi cạnh chồng mình là ai? Hơn nữa, vì sao Cửu Châu Thần Kiếm lại mang mặt nạ đến dự lễ khánh thọ, sau mấy tháng trời biệt tích?
Phiêu Trần dẫn Phỉ nhi rời khu bàn tiệc, đi quanh Vạn Niên Tự. Lần đầu đến Nga Mi Sơn, chàng thực sự bị cuốn hút bởi cảnh vật kỳ tú nơi đây về lối kiến trúc của Vạn Niên Tự!
Ngôi chùa này được xây dựng không theo kiểu kiến thức chùa chiền Phật Giáo, cũng không giống Phật Tự của phái Lạt Ma. Vạn Niên Tự mang dáng dấp kiến trúc đạo giáo lão, trông rất rõ nét. Đỉnh của nó hình tròn, bốn vách tường hình vuông, như biểu hiện nguyên lý trời tròn đất vuông của người Trung Hoa cổ.
Bên trong chùa là pho tượng đồng Phổ Hiền Bồ Tát cỡi voi cao hai trượng, hai thước, một tấc, nặng đến hơn mười vạn cân, được đúc từ thời Bắc Tống. Pho tượng khổng lồ này là chứng tích cho một thời kỳ lẫy lừng của Phật Giao Trung Hoa.
Nhắc lại, Phiêu Trần quanh quẩn ở ngoài cho đến lúc chuông chùa trầm hùng vang lên, báo giờ khai mạc. Chàng vội dắt Đồng Phỉ trở vào khu bàn tiệc, may mà vẫn còn bàn trống!
Phật Quang Thần Tăng, Chưởng môn phái Nga Mi, đã xuất hiện. Tuy tuổi đã tròn trăm nhưng trông chỉ như mới hơn bảy mươi, với vài nếp nhăn trên trán và đuôi mắt. Cặp nhãn thần sáng như sao và bộ râu bạc năm chòm tạo vẻ tôn nghiêm của một bậc chân tu.
Tổ Sư Thiền Tông Trung Hoa là ngài Đạt Ma. Người này có bộ râu quai nón rất rậm, nên sau này, các tăng lữ cao niên vẫn thường để râu mà không sợ phạm giới luật. Thần Tăng nở nụ cười hiền hòa, cất giọng trầm ấm:
- Lão nạp xin cảm tạ chư vị đồng đạo đã giá lâm, dự lễ khánh thọ này!
Các chưởng môn, long đầu, nhân sĩ võ lâm lần lượt đứng lên nói lời chúc tụng, đến cuối giờ Tỵ mới xong! Tuy là tiệc chay nhưng nhờ tài nghệ của Tiêu Tương Thần Nữ Tư Đồ Lan nên ai cũng khen ngon. Họ chỉ tiếc là không có rượu.
Thần nữ cùng các cô nương xinh đẹp kia lượn lờ khắp nơi, luôn miệng mời chào khiến thực khách đắm say. Với nhan sắc tiên nga của nàng thì dẫu họ có phải ăn cám heo cũng vẫn thấy ngon! Nhưng nàng là gái có chồng nên chẳng chàng trai nào dám buông lời bỡn cợt. Thỉnh thoảng, nàng đi ngang bàn Phiêu Trần, liếc tình tứ! Đồng Phỉ hậm hực hỏi:
- Phụ thân! Sao vị cô nương xinh đẹp kia cứ cười với người hoài vậy? Phỉ nhi trông thật ngứa mắt.
Phiêu Trần gượng cười:
- Ta với người ấy quen biết, nên nàng mới có thái độ như thế. Phỉ nhi để ý làm gì?
Cậu bé buông đũa, buồn rầu nói:
- Nữ nhân Trung Nguyên ai cũng xinh đẹp hơn tiên mẫu, hèn gì phụ thân chẳng muốn trở về Kỳ Liên Sơn nữa!
Phiêu Trần chưa kịp biện bạch thì đã nghe tiếng xướng danh:
- Võ lâm minh chủ quang lâm!
- Khổng Tước Bang phó bang chủ quang lâm!
Mọi người giật mình buông đũa nhìn ra, còn Phật Quang Thần Tăng và bốn sư đệ cũng rời bàn để đón thượng khách!
Minh chủ võ lâm đương nhiệm là Liên Vân Thần Kiếm Hà Tự Lưu, tuổi tròn sáu chục. Ba năm trước, họ Hà đại diện cho hào kiệt đất Giang Tô đến Hoa Sơn tranh chức minh chủ, và đã thắng oanh liệt mấy chục cao thủ Trung Nguyên.
Liên Vân Thần Kiếm tuy giành được tước vị minh chủ nhưng không có nghĩa là võ công của lão vô địch thiên hạ. Vì chưởng môn và trưởng lão các phái Thiếu Lâm, Võ Đang… là những bậc Chân Trượng Tăng Đạo nên không bao giờ đứng ra tranh danh đoạt lợi. Chính họ mới là những cao thủ thượng thặng của võ lâm.
Tuy nhiên, ai cũng phải công nhận rằng Hà Tự Lưu có bản lãnh cao cường, xứng đáng làm minh chủ! Hơn nữa, dung mạo của lão đoan chính, anh tuấn, phong thái ung dung, điềm đạm, tỏ rõ đức độ một bậc tôn sư, khiến đồng đạo ngưỡng mộ và kính phục!
Nhưng không hiểu vì sao cậu bé sơn dã Đồng Phỉ lại buột miệng bảo:
- Phụ thân! Hài nhi thấy lão râu đen ba chòm kia có vẻ gian xảo và ác độc!
Phiêu Trần giật mình chăm chú quan sát gương mặt Hà Minh Chủ, bâng khuâng gật đầu:
- Phỉ nhi nói phải! Ta cũng có cảm giác ấy!
Phỉ nhi hoan hỉ nắm lấy tay chàng cười hì hì:
- Hài nhi nghĩ sao nói vậy, không ngờ lại trúng ý phụ thân! Té ra cha con ta lòng dạ giống nhau!
Từ ngày gặp được phụ thân, Đồng Phỉ trở lại là một đứa trẻ con bé bỏng, vui cười thỏa chí, chẳng còn phải giữ vẻ trang nghiêm của một thiếu sơn chủ làm gì nữa! Nó đã chán ngắt những câu sáo rỗng mà người lão bộc già nua hay dạy cho!
Còn Phiêu Trần thì ngao ngán tự cười mình, khi chàng chỉ hơn đứa con hờ này bốn năm tuổi!
Lúc này, phó bang chủ Khổng Tước Bang bật cười ghê rợn, nói với Phật Quang Thần Tăng:
- Chẳng hay chưởng môn có nhận ra lão phu không vậy?
Phiêu Trần thấy lão có gương mặt trắng bệch như xác chết, khá anh tuấn và nho nhã, tuổi độ đã sáu mươi. Chàng tự hỏi lão là ai mà lại sánh vai với Hắc Diêm La Hân Tốn để làm phó bang chủ Khổng Tước Bang? Có lẽ trong đám thực khách có người nhận ra lai lịch vị khách không mời này, nên xầm xì bàn tán, còn Phật Quang Thần Tăng thì điềm tĩnh đáp:
- Té ra Cát thí chủ vẫn khang kiện!
Lời nói của ông đã xác nhận nghi vấn, nên có người rú lên:
- Bạch Phán Quan Cát Dự!
Họ Cát gật đầu, ngửa cổ cười dài:
- Ðúng vậy! Ba mươi năm trước lão phu bị lão trọc Phật Quang dùng niệm châu ám toán, rơi xuống khe núi. May mà lão phu không chết, nên hôm nay nhờ minh chủ võ lâm đứng ra chứng kiến cho cuộc rửa hận!
Liên Vân Thần Kiếm Hà Tự Lưu tỏ vẻ ngượng ngùng, cao giọng phân bua:
- Kính cáo đồng đạo, lão phu là người giữ gìn công đạo giang hồ, nên không thể từ chối yêu cầu của Cát tiền bối. Lão phu có đề nghị dời sang ngày khác, nhưng Cát tiền bối lại muốn nhiều người chứng kiến, nên khăng khăng đến đây, vô tình làm gián đoạn lễ Khánh Thọ của chưởng môn phái Nga Mi.
Phật Quang Thần Tăng thản nhiên nói:
- Lão nạp gieo nhân tất phải gặp quả báo, dẫu hôm nay hay ngày mai thì cũng chẳng khác gì! Năm xưa Cát thí chủ vô cớ giết người nên lão nạp mới ra tay trừng trị. Nay thí chủ muốn đòi nợ, lão nạp xin phụng mệnh!
Bạch Phán Quan mỉm cười âm hiểm, lấy ra một chiếc lông công:
- Lão phu học thuật phóng ám khí của Khổng Tước Thần Ma, muốn dùng mũi Khổng Tước Mao này trả lại hạt niệm châu ba mươi năm trước. Dẫu Thần Tăng tránh được hay không thì món nợ này cũng xem như đã trả!
Toàn Trường chấn động, lo lắng cho Phật Quang Thần Tăng. Bạch Phán Quan tuy dung mạo trẻ trung nhưng thực ra đã gần chín mươi tuổi. Với hơn bảy mươi năm công lực, thủ pháp phóng Khổng Tước Mao của lão còn đáng sợ hơn bản thân Khổng Tước Thần Ma năm nào! Ngày ấy, Thần Ma ở tuổi bảy mươi, có không đến hoa giáp tu vi mà thiên hạ chưa ai tránh nổi chiếc lông công ma quái của lão. Cao thủ các phái Bạch Đạo phải lén lót thép vào ngực rồi cùng nhau liên thủ, mới dám truy sát Thần Ma!
Như vậy, giờ đây chưởng môn phái Nga Mi hoàn toàn không có khả năng thoát chết. Vì Khổng Tước Mao được rèn bằng huyết thiết, mũi nhọn như đầu kim khâu, khắc tinh của các loại cương khí hộ thân. Dù không trúng chỗ nhược, chất độc của Khổng Tước Mao cũng đủ sức lấy mạng Thần Tăng!
Hơn ngàn đệ tử Nga Mi chết điếng người, nhìn Bạch Phán Quan bằng cặp mắt oán hận. Nhưng lão đến đây cùng minh chủ của võ lâm, khiêu chiến theo đúng luật giang hồ, nên phái Nga Mi chẳng thể nào làm sao được?
Phật Quang Thần Tăng là một Thiền Sư đắc đạo, không bị chuyện tử sinh chi phối. Ông mỉm cười:
- Lão nạp có chết cũng là điều hạnh phúc, vì đã được nhìn mặt đồng đạo và đệ tử Nga Mi lần cuối! Xin Cát thí chủ cứ ra tay!
Một đệ tử trẻ tuổi không nén nổi thương tâm, bật khóc thút thít. Lập tức tiếng khóc lan ra khắp nơi! Phật Quang Thần Tăng cau mày, nghiêm giọng:
- Chúng ta đều là đệ tử Phật môn, xem đời là bể khổ, cứu cánh ở niết bàn, sao lại bi lụy vì sinh tử như vậy?
Tiếng khóc liền ngưng bặt, chỉ còn lại những giòng lệ và đôi vai run rẩy! Không khí nặng nề bỗng bị phá tan bởi giọng non nớt, trong trẻo của Phỉ nhi:
- Phụ thân! Sợi lông công kia có gì đáng sợ mà ai cũng phải lo lắng cho lão hòa thượng vậy?
Phiêu Trần cười nhạt:
- Mọi người không hiểu nên khiếp sợ đấy thôi. Ðối với ta thì Khổng Tước Mao chỉ là sợi lông gà vô hại!
Bạch Phán Quan biến sắc, quay sang nhìn chàng trai mặt rỗ, cất giọng nham hiểm:
- Ngươi có muốn thử không?
Phiêu Trần gật đầu:
- Tại hạ sẵn sàng đón một mũi Khổng Tước Mao. Nếu tôn giá phóng không trúng thì hãy bỏ qua mối hận cũ với phái Nga Mi!
Phật Quang Thần Tăng chính sắc bảo:
- Thí chủ chớ nên sính cường mà uổng mạng. Tuyệt học của Khổng Tước Thần Ma chẳng phải tầm thường đâu!
Phiêu Trần bước ra, cung kính vòng tay:
- Xin chưởng môn sư tổ yên tâm, đệ tử quyết chẳng dám liều lĩnh, làm tổn hại thanh danh bổn phái! Thực ra, lão Bạch Phán Quan này chỉ được bang chủ Khổng Tước Bang dạy cho chút vỏ ngoài của thủ pháp Hư Không Tích Diệp Phi Hoa, nên chẳng có gì đáng sợ cả!
Bạch Phán Quan cười rộ:
- Nói hay lắm! Vậy thì lão phu sẽ lấy mạng ngươi trước rồi đến lão trọc Phật Quang!
Hà minh chủ hắng giọng xen vào:
- Vị thiếu hiệp kia hãy suy nghĩ cho kỹ, kẻo uổng mạng một đời trai trẻ!
Phiêu Trần cười mát:
- Tôn giá mới là người cần phải cân nhắc trước sau, kẻo thân bại danh liệt vì tội tiếp tay với tà ma. Nay Khổng Tước Bang chủ là truyền nhân của Khổng Tước Thần Ma, lại vào được cả Toàn Cơ Cốc, trở thành ác ma lợi hại nhất võ lâm. Dã tâm của Khổng Tước Bang sẽ sớm bộc lộ, khi lần lượt diệt trừ các phái Bạch Ðạo. Lúc ấy, tôn giá chẳng còn đất để làm minh chủ đâu!
Hà Tự Lưu tái mặt còn mọi người thì rúng động trước lời cảnh báo của Phiêu Trần. Toàn Cơ Cốc là nơi mà cả võ lâm khao khát truy tìm! Bạch Phán Quan gằn giọng:
- Ngươi là ai mà dám đặt điều vu khống bổn giáo như vậy?
Ngay cả người của phái Nga Mi cũng thắc mắc về lai lịch của chàng trai mặt rỗ kia. Phiêu Trần ung dung đáp:
- Tại hạ là Bạt Tước Mao kiếm khách, tên gọi Ðồng Ngân Tú, đệ tử tục gia đời thứ ba của phái Nga Mi!
Ðồng Phỉ cười khanh khách:
- Vậy thì hài nhi sẽ lấy danh hiệu là Thực Tước Nhục Ðồng Tử. Nghe nói thịt công ăn ngon lắm phải không cha?
Câu nói dí dỏm của cậu bé đã khiến mọi người phì cười, quên cả nỗi lo lắng. Hà Tự Lưu nghe Phiêu Trần nói vậy, sinh dạ nghi ngờ, quay sang hỏi Bạch Phán Quan:
- Cát tiền bối! Có đúng là quý bang chủ đã tìm được Toàn Cơ Cốc hay không?
Cát Dự giận dữ đáp:
- Làm gì có chuyện ấy! Xin minh chủ đừng nghe lời sàm bậy của tiểu tử kia!
Phiêu Trần nói ngay:
- Nếu quý bang chủ không thu được tuyệt học thượng thừa của Toàn Cơ Thượng Nhân, thì đâu dại gì dạy thủ pháp Khổng Tước Mao cho tôn giá và Hắc Diêm La?
Cử tọa ồ lên tán thành, và kinh ngạc khi cả Hắc Diêm La cũng trở thành phó bang chủ Khổng Tước Bang! Lập luận của Phiêu Trần rất hữu lý, khiến Hà Minh Chủ phải bối rối. Ông ta nghiêm giọng:
- Lão phu sẽ vì an nguy của võ lâm mà để ý đến hành vi của Khổng Tước Bang. Giờ đây, Cát phó bang chủ cứ giải quyết ân oán với phái Nga Mi cho xong đi!
Nãy giờ, Phật Quang Thần Tăng đã hội ý với các trưởng lão và cao tăng chủ chốt, và xác định rằng phái Nga Mi không có đệ tử tục gia nào là Đồng Ngân Tú cả. Kim Đính Thượng Nhân suy nghĩ một hồi rồi nói:
- Lão nạp đoán rằng họ Đồng là đệ tử của Thiên Xảo Chân Nhân. Chỉ có thân pháp Huyền Huyền Ảo Bộ mới dám coi thường Khổng Tước Mao!
Các lão tăng tán đồng, để cho chàng đối phó với Bạch Phán Quan. Cát lão ma giận tím mặt, không ngờ âm mưu của Khổng Tước Bang lại sớm bị vạch trần trước võ lâm như vậy. Lão trút giận lên đầu Đồng Ngân Tú:
- Ngươi dám xưng là ngươi chuyên nhổ lông chim, ý chẳng coi bổn bang ra gì. Hãy bước ra đây!
Phiêu Trần bình thản cử bộ, đến đứng đối diện với Bạch Phán Quan. Chàng nghiêm giọng:
- Sau khi tại hạ đón xong mũi Khổng Tước Mao, phiền tôn giá nhận lại một chiêu kiếm của phái Nga Mi!
Bạch Phán Quan hậm hực:
- Được! Nếu ngươi vẫn còn sống!
Mọi người vội lùi ra xa, sợ mũi ám khí khủng khiếp kia bay lạc trúng mình.
Phiêu Trần rút kiếm dựng trước mặt, khiến đối phương tưởng chàng sẽ dùng vũ khí để chặt Khổng Tước Mao! Cát lão ma nhếch mép cười âm độc, vẫy nhẹ bàn tay phải. Chiếc lông công bằng Huyền Thiết bay ra với tốc độ của ánh chớp. Nhưng khi còn cách Phiêu Trần một tầm kiếm, mũi ám khí sựng lại, chuyển hướng, bay chếch vào bụng dưới của chàng.
Quần hùng kinh hoàng trước thủ pháp kỳ tuyệt của Bạch Phán Quan. Có tiếng rú thất thanh trong trẻo của Tiêu Tương Thần Nữ Tư Ðồ Lan.
Thường thì ám khí rời tay người ném, bay thẳng đến mục tiêu và không còn điều khiển được nữa, nếu không thì thuật phi kiếm đâu có thất truyền! Nhưng mũi Khổng Tước Mao kia lại là ngoại lệ, có thể đổi hướng bay tùy ý của chủ nhân. Bảo sao Khổng Tước Thần Ma không trở thành con người đáng sợ nhất võ lâm?
Nhưng Phiêu Trần không vung kiếm đón ám khí, mà biến mất khi mũi Khổng Tước Mao còn cách người độ gang tay!
Thân hình chàng đột ngột dời sang mé tả, như vì sao đổi ngôi. Và từ vị trí mới, chàng lao đến tấn công Bạch Phán Quan bằng chiêu kiếm Hải Cô Chu!
Như đã nói ở trên, kiếm pháp Nga Mi chịu ảnh hưởng của cả hai tôn giáo Phật, Lão, nên kiếm ý không khác tuyệt học của Thiên Xảo Chân Nhân là bao. Chỉ có các bậc cao thủ Vạn Niên Tự mới biết ẩn tình, còn người ngoài đều tưởng Ðồng Ngân Tú đánh một chiêu trong pho Nga Mi Kiếm Phổ!
Bạch Phán Quan Cát Dự đinh ninh đối phương không thoát nổi mũi Khổng Tước Mao nên lơi lỏng phòng vệ. Khi phát hiện ra thì đã bị nuốt chửng trong biển kiếm ảnh. Lão kinh hoàng múa tít song thủ, vỗ liền mấy đạo Tồn Tâm chưởng thành danh. Nhưng bao nhiêu lực đạo đều tan biến cả trong kiếm kình. Thân hình lão chao đảo, lắc lư như chiếc thuyền con giữa biển khơi. Bạch Phán Quan khiếp vía, vội tung mình về phía sau, cố đào vong.
Diễn tả thì lâu nhưng sự việc xấy ra rất nhanh. Mũi kiếm của Phiêu Trần đâm thủng bẩy lỗ trên thân trước Bạch Phán Quan. Nhưng do chàng chưa đủ công lực, và cũng chưa rèn luyện chiêu kiếm được bao lâu, nên không giết được đối phương. Vết thương không sâu đến phủ tạng, và Cát lão ma còn đủ sức đào tẩu. Lão rú lên vì đau đớn, phi thân như bay xuống núi, để lại sau lưng những giọt máu hồng!
Toàn trường hoan hỉ vỗ tay reo hò, tán dương bản lĩnh của Ðồng Ngân Tú! Ðồng Phỉ là người vui sướng nhất. Nó vô cùng hãnh diện vì có một người cha thần dũng, oai hùng. Chờ cho tiếng ồn ào lắng xuống, Phỉ nhi cười hì hì:
- Phụ thân quả là anh hùng cái thế! Vậy mà lúc đầu hài nhi cứ tưởng người còn thua cả Phỉ này!
Lời thú nhận thực thà đã khiến mọi người được phen ôm bụng cười. Duy có Tiêu Tương Thần Nữ Tư Ðồ Lan là chau đôi mày liễu, suy nghĩ miên man.
Phương Trượng chùa Thiếu Lâm Tự, Tuệ Nghiêm Thiền Sư, cao giọng nói:
- Thiện tai! Thiện tai! Không ngờ phái Nga Mi lại sản sinh được một đệ tử kiệt xuất như Ðồng Ngân Tú thí chủ đây! Lão nạp xin chúc mừng Thần Tăng!
Phật Quang Phương Trượng không chắc Đồng Ngân Tú có phải là đệ tử phái Nga Mi hay không, nên chỉ ậm ừ cho phải phép!
Chưởng môn Võ Đang, Thành Tâm Tử, cũng nói vài câu tán dương rồi cáo từ. Thế là thực khách nhất tề rời Vạn Niên Tự. Tuy bụng chưa no nhưng họ đều hài lòng vì được chứng kiến sự cố vừa qua. Danh tự Khổng Tước Bang và Đồng Kim Tuấn sẽ được lan truyền khắp võ lâm. Và uy danh của Phái Nga Mi cũng lẫy lừng hơn trước, vì họ thắng được loại ám khí ác độc đã thống trị võ lâm suốt mấy chục năm qua.
Khi khách đã đi cả, Tiêu Tương Thần Nữ Tư Ðồ Lan liền thì thầm với Kim Đính Thượng Nhân, nhị Trưởng lão phái Nga Mi. Lão tăng giật mình, bảo Phiêu Trần:
- Mời thí chủ vào khách xá, lão nạp có đôi điều muốn hỏi!
Phiêu Trần biết Tiêu Tương Thần Nữ Tư Ðồ Lan đã sinh lòng nghi hoặc, tổ cáo chàng với thượng nhân. Vào đến khách xá, Phiêu Trần quì xuống lột mặt nạ, cung kính bái kiến:
- Đệ tử Sở Phiêu Trần, nam tử của Kim Nhãn Điêu Sở Quyền, xin ra mắt chưởng môn và chư vị trưởng bối!
Tiêu Tương Thần Nữ Tư Ðồ Lan nóng nảy hỏi ngay:
- Vì sao Sở thiếu hiệp lại mang tấm mặt nạ của chuyết phu?
Đồng Phỉ bối rối gãi đầu suy nghĩ, đứng ngẩn người ra nhìn Phiêu Trần! Kim Đính Thượng Nhân cười ha hả:
- Té ra ngươi là đồ tôn của lão nạp! Ta có nhận được thư của Sở Quyền xin phép được dạy công phu Nga Mi cho con trai! Không ngờ hôm nay Trần nhi lại trở thành cứu tinh của bổn phái! Nhưng vì sao ngươi lại có được tấm mặt nạ của Ðồng Kim Tuấn?
Phiêu Trần tuần tự trình bày rõ ràng những việc đã qua. Tư Ðồ Lan ôm mặt khóc nức nở. Lát sau, nàng lau nước mắt, cắn răng nói:
- Cảm tạ Sở thiếu hiệp đã mang dùm hài cốt của vong phu về. Nhưng xin hỏi đứa bé này là ai vậy?
Phiêu Trần ngượng ngùng đáp:
- Có lẽ Ðồng Phỉ chính là giọt máu của Ðồng sư huynh đấy!
Tiêu Tương Thần Nữ Tư Ðồ Lan bèn hỏi han Phỉ nhi, nghe nó thuật lại việc mười lăm năm trước. Nàng biết đứa bé sơn dã này không nói dối, liền đau đớn than:
- Không ngờ Kim Tuấn lại là nam nhân bạc hạnh như vậy! Quả thực là ta đã nhìn lầm người rồi!
Phiêu Trần bảo Phỉ nhi:
- Nữ nhân này chính là Nhị Nương, Phỉ nhi mau bái kiến!
Cậu bé sa lệ lắc đầu:
- Phỉ này không có một người cha xấu xa, bạc bẽo như vậy! Hài nhi chỉ muốn làm con của phụ thân thôi!
Nói xong, nó nắm chặt tay chàng, chẳng chịu buông ra, ánh mắt cương quyết. Phiêu Trần ngượng ngùng nói:
- Ta chỉ hơn ngươi bốn tuổi, làm sao có thể là cha ngươi được?
Phỉ nhi lắc đầu quầy quậy, tỏ vẻ không bao giờ đổi ý! Phật Quang Thần Tăng mỉm cười:
- Lão nạp cho rằng Trần nhi và cậu bé này có duyên từ kiếp trước. Hãy vì đức từ bi của Phật Tổ mà mang lại hạnh phúc cho đứa trẻ côi cút này!
Phiêu Trần nhìn đôi mắt đẫm lệ, tràn đầy niềm hy vọng của Phỉ nhi, chợt nghe lòng bất nhẫn, nên kính cẩn đáp:
- Đệ tử xin tuân theo chỉ dụ của chưởng môn!
Phỉ nhi mừng rỡ ôm chặt chàng cười hì hì:
- Cha con ta sẽ cùng nhau sánh vai hành hiệp, vặt trụi lông và ăn thịt đám Khổng Tước Bang!
Thì ra Đồng Phỉ mang dòng máu hiệp khách, muốn được đánh Đông dẹp Bắc, trừ gian diệt bạo. Vì vậy, nó cần có một người cha anh hùng cái thế, chứ không cần một gã Đồng Kim Tuấn lòng lang dạ sói, nỡ bỏ một người vợ xấu xí để lấy một mỹ nhân như Tư Ðồ Lan. Nay được toại ý, Phỉ nhi bỗng cảm thấy nên làm Phiêu Trần hài lòng, bèn quì xuống vái Tiêu Tương Thần Nữ Tư Ðồ Lan:
- Phỉ nhi xin bái kiến Nhị Nương!
Nhưng giờ đây, hành động này lại khiến Tiêu Tương Thần Nữ Tư Ðồ Lan thẹn thùng khôn xiết, Phỉ nhi gọi Phiêu Trần là cha, gọi nàng là mẹ hai, hóa ra nàng là vợ Phiêu Trần hay sao?
Nàng chưa hết hổ thẹn thì Phỉ nhi lại cười bảo:
- Hài nhi rất sung sướng vì giờ đã có cả cha lẫn mẹ!
Các lão tăng tủm tỉm cười, còn Phiêu Trần và Tư Ðồ Lan ngượng chín người, bất giác liếc đối phương. Vô tình hai ánh mắt chạm nhau, khiến họ càng thêm lúng túng.
Tiêu Tương Thần Nữ Tư Ðồ Lan là một trong những người đẹp nhất thiên hạ, so ra, nhan sắc nàng hơn cả Tiểu Quận Chúa Hà Vân Bích.
Ba năm trước, Tư Ðồ Lan đến thăm Hoàng Hạc Lâu ở thành Vũ Xương bị tên dâm tặc hai hoa Thái Tuế Thạch Ðức trêu ghẹo. Tình cờ, Cửu Châu Thần Kiếm Đồng Kim Tuấn đi ngang qua, ra tay đánh đuổi họ Thạch giải nguy cho Thần Nữ. Vì cảm ân nghĩa ấy, Tư Ðồ Lan nhận lời cầu hôn của Ðồng Kim Tuấn, dù gã hơn nàng đến mười ba tuổi.
Nhưng Cửu Châu Thần Kiếm háo danh hơn háo sắc, thường xuyên bỏ nhà đi lang bạt, hành hiệp cứu đời, nên tình nghĩa phu thê cũng không lấy gì làm thắm thiết. Nay Đồng Phỉ xuất hiện, Cửu Chân Thần Kiếm lộ rõ bản chất bạc bẽo, vô tình, khiến Tư Ðồ Lan càng thêm tủi phận, sinh ra chán ghét vong phu!
Trong lúc mang tâm trạng cay đắng của một kẻ bị lừa dối như vậy, thì dung mạo và nhân phẩm của Sở Phiêu Trần càng khiến Tiêu Tương Thần Nữ Tư Ðồ Lan ngưỡng mộ! Nàng chua xót nghĩ rằng Phiêu Trần mới là người đáng để mình tôn thờ! Nhưng hai người gặp nhau đã quá muộn màng, chàng lại trẻ hơn nàng đến sáu tuổi! Tiêu Tương Thần Nữ Tư Ðồ Lan buồn bã nói:
- Phỉ nhi là người thừa kế Kiếm Bảo! Thiếp sẽ giao lại cơ nghiệp, trở về Hồ Nam hương khói song thân!
Phỉ Nhi buột miệng:
- Hay là Nhị Nương bán quách cái bảo gì đó, rồi về sống chung với thân phụ và hài nhi cho xong. Hài nhi chẳng muốn dính dáng đến cái lão họ Đồng kia chút nào cả!
Phiêu Trần giật bắn mình, khẽ quát:
- Ngươi nói nhăng gì thế, có im đi không?
Phỉ nhi sợ hãi le lưỡi, rụt cổ, gãi chiếc đầu trọc lóc. Phật Quang cố giấu nụ cười, điềm đạm bảo:
- Đồng Kim Tuấn còn một bào đệ, Phỉ nhi bất tất phải về Kiếm Bảo nữa, vì lòng nó không muốn vậy. Lan nhi trở về Nam Dương thu xếp và tổ chức tang lễ cho Kim Tuấn. Lão nạp sẽ cho người đến lập đàn siêu!
Ðại Huệ Thiền Sư, thủ tòa giới đường Vạn Niên Tự, chính là sư tổ của Ðồng Kim Tuấn. Ông buồn rầu nói:
- Dẫu sao Phỉ nhi cũng phải về chịu tang cha ruột mới phải đạo chứ! Hay là Trần nhi đưa cậu bé đến Kiếm Môn dự đám ma rồi hãy về Hồ Nam?
Phiêu Trần vội nói:
- Bẩm sư thúc tổ! Ðệ tử phải đi Chiết Giang ngay để tìm gia phụ!
Chàng quay lại bảo Đồng Phỉ:
- Dẫu sao ngươi cũng là giọt máu của Đồng sư huynh, phải chịu tang mới tròn đạo làm người. Nếu Phỉ nhi không chịu đi Kiếm Bảo, ta sẽ rất buồn và hổ thẹn!
Phỉ nhi suy nghĩ rồi đáp:
- Hài nhi không dám cãi lời phụ thân, nhưng Nhị Nương phải hứa đưa Phỉ này về Sở gia trang gặp phụ thân cơ!
Tiêu Tương Thần Nữ Tư Ðồ Lan thẹn quá hóa liều:
- Ðược rồi! Nhị Nương xin hứa! Muộn lắm là đầu tháng chạp ngươi sẽ có mặt ở Sở gia trang!
Nói xong nàng xin phép vào trong thu xếp hành lý.
Hồi 5
Lộ bán phùng Khổng Tước
Dạ thâm thượng vu sơn
Sau khi trao hộp đựng cốt hôi của Ðồng Kim Tuấn cho Tư Ðồ Lan, Phiêu Trần rời Nga Mi Sơn, đi về hướng Ðông. Chàng cũng trả luôn tấm mặt nạ rỗ hoa, để lộ chân diện mục, vì dung mạo kia đã quá nổi tiếng, sau trận đấu với Bạch Phán Quan. Từ nay, nhân vật Đồng Ngân Tú sẽ không còn tồn tại nữa!
Dọc đường gió bụi hình bóng của Hà Vân Bích là bạn đồng hành nhưng thỉnh thoảng dung nhan của Tiêu Tương Thần Nữ Tư Ðồ Lan lại hiện ra. Phiêu Trần giật mình hổ thẹn vì hai nữ nhân ấy đều bất khả xâm phạm. Một người là dì ruột, một người là goá phụ mới chết chồng. Chàng cố quên họ và nghĩ đến cậu bé Ðồng Phỉ. Phiêu Trần tủm tỉm cười hoài khi nghĩ đến việc mình mới đôi chín mà đã có con nuôi!
Bẩy ngày sau, Phiêu Trần đến cánh rừng ở chân rặng Kinh Sơn, cách thành Giang Lăng mười mấy dặm. Nghe trong rừng có tiếng quát tháo, tiếng đao kiếm chạm nhau chan chát, Phiêu Trần rẽ vào xem. Chàng còn rất trẻ nên hiệp tâm cao vạn trượng, chẳng bao giờ bỏ qua việc nghĩa. Trong hai phe giao đấu kia, biết đâu có một bên là người lương thiện, đang cần sự giúp đỡ? Ðất nước loạn lạc, giặc cướp nổi lên khắp nơi, là dịp để người hiệp sĩ thi thố sở học.
Phiêu Trần được Kim Nhãn Điêu và Dạ Tri Thù dạy dỗ chu đáo nên hành động rất thận trọng. Lúc đến gần trảng cỏ trống trong rừng, nơi xảy ra xung đột, chàng xuống ngựa, nhẩy lên cây quan sát.
Đã là oan gia thì luôn chạm mặt, phe đang thắng kia chính là người của Khổng Tước Bang. Phiêu Trần nhận ra chúng nhờ những bộ trường bào xanh, trước ngực thêu hình chim công bằng chỉ ngũ sắc. Như vậy, sáu lão già này có cấp bậc thấp hơn Hắc Diêm La và Bạch Phán Quan, có lẽ là hộ pháp hay đường chủ gì đó!
Sáu cao thủ ấy đều sử dụng trường đao, một loại vũ khí không thông dụng trên giang hồ. Nhờ vậy, Phiêu Trần nhận ra họ xuất thân từ Trường Ðao phái ở đất Trung Châu, Hồ Bắc. Thế là Khổng Tước Bang đã thu phục được phái võ này!
Đối thủ của Trung Châu Lục Hán là ba lão nhân, hai nam một nữ tuổi độ thất tuần. Lão bà kia mặc cung trang màu lục, tóc bới cao, gương mặt phúc hậu, hiền hòa và tái xanh. Thanh trường kiếm trong tay bà có vẻ yếu ớt nên phải nương tựa vào sự che chở của hai vị lão nhân áo trắng.
Phiêu Trần đặc biệt chú ý đến lão nhân cao gầy, mặt vàng. Kiếm pháp của lão lợi hại và ảo diệu tuyệt luân, phong thái lại đường bệ ung dung, ra dáng một tôn sư.
Lão nhân thứ hai thì hoàn toàn trái ngược. Ông ta thâm thấp, to ngang, tóc xỏa đến lưng, đôi vai rộng gấp rưỡi người thường nên trông càng lực lưỡng. Vũ khí của lão là một cây Đại Phủ cán dài, lưỡi hình trăng khuyết nặng không dưới sáu mươi cân. Thế mà lão múa tít cây búa ấy rất nhẹ nhàng, biểu lộ một thần lực kinh hồn.
Lại thêm đấu pháp của lão nhân tóc ngắn ấy cực kỳ dũng mãnh, như không hề biết sợ chết là gì. Do vậy, ba người mới cầm cự được với đao trận lừng danh vũ nội của Trung Châu Lục Hán! Võ lâm đã xưng tụng rằng Trường Ðao Trận của đất Trung Châu lợi hại không thua gì La Hán Trận của Thiếu Lâm và Thất Tinh Bắc Đẩu Kiếm Trận của Võ Đang.
Bản lãnh của từng người trong Lục Hán thì không bằng Phiêu Trần, nhưng khi sáu người hợp thành đao trận, uy lực tăng lên gấp bội, và chưa ai thoát chết. Trận này cũng vậy, ba người kia dù bản lãnh cao cường cũng không địch lại đao trận. Huống hồ, họ lại phải bảo vệ phụ nhân mặc cung trang?
Lão nhân tóc xõa giận dữ gầm vang, múa tít Đại Phủ cố phá vòng vây. Nhưng cây búa nặng nề bị ba thanh trường đao đánh bật lại, và còn bị vạch một đường dài trên vai của lão. Một người trong Lục Hán cao giọng khuyến dụ:
- Vương Giáo chủ đừng chống cự vô ích. Nếu thức thời thì hãy đem Ma Giáo đầu phục Khổng Tước Bang, sau này cùng hưởng vinh hoa phú quý!
Lão nhân cao gầy cười nhạt:
- Phế ngôn! Bổn giáo tuy bị võ lâm xa lánh, nhưng quyết không làm tay sai cho bọn vô lại!
Phiêu Trần giật mình, không ngờ ông ta lại là Giáo Chủ Ma Giáo Vương Nam Ðiền! Hai mươi năm trước, tiền nhiệm Giáo chủ Ma Giáo Chữ Lam Kiều hóa điên, đến Tổng Ðàn Võ Lâm ở Hứa Xương, giết cố Minh Chủ là Long Ðao Tư Mã Cách, cùng mấy chục cận vệ, vì lý do này, các phái đã hội quân tấn công Quang Minh Đỉnh, phá hủy Tổng Đàn Ma Giáo. Từ ấy, Ma Giáo âm thầm hoạt động chứ không lộ diện nữa.
Đương nhiên giáo chủ Vương Nam Ðiền chỉ lo việc trượng hành, chấn hưng Thánh Hỏa Giáo, không nghĩ đến việc giang hồ. Ông không xây dựng tổng đàn cố định mà đi khắp nơi để truyền bá tôn giáo thờ thần lửa! Nhờ vậy, tín đồ Ma Giáo ngày càng đông đảo. Nếu Khổng Tước Bang thu phục được Ma Giáo thì xem như bá nghiệp của họ đã thành công một nửa phần!
Phiêu Trần cũng biết vậy nên không thể để Giáo Chủ Ma Giáo bị khống chế! Chàng rút kiếm, từ ngọn cây lao vút xuống bìa trận, tấn công lão già đầu hói. Lão này đang quay lưng về phía chàng, nhưng năm người kia đều phát hiện ra đòn tập kích. Họ kinh hãi kêu lên:
- Đại ca! Có kẻ đánh trộm!
Lão hói lập tức quay lại cử đao đón chiêu kiếm của Phiêu Trần. Vương giáo chủ mừng rỡ cùng lão nhân cầm búa tấn mạnh để phá vây. Nhưng trường đao trận biến hóa khôn lường, đã dự liệu trước trường hợp có người ở ngoài tấn công vào, nên năm thanh đao còn lại lồng lên như thần long, khoá chặt ba tù nhân.
Họ chỉ tính sai một điều là đại ca của họ không thể đỡ nổi đòn của người lạ mặt.
Phiêu Trần đã dồn toàn lực vào chiêu kiếm La Hán Lạc Tĩnh (La Hán té giếng). Tuy cái tên của chiêu kiếm có hơi khôi hài, nhưng uy lực rất phi thường. Kiếm kình bổ xuống đầu đối phương mãnh liệt như núi đổ, kiếm ảnh tua tủa tựa bàn chông, phủ kín mục tiêu. Ðao kiếm chạm nhau tinh tang vài tiếng rồi tắt lịm. Trường kiếm của Phiêu Trần đã trượt theo thân đao, lướt xuống đâm thủng trán lão hói. Lão ta rú lên, chưa kịp ngã xuống thì chàng đã đạp vào vai lão để lấy đà, bay sang tấn công lão lùn bên cạnh.
Đối tượng cửa chàng đang phải đối phó với cây Đại Phủ nên không thể trở tay kịp trước chiêu kiếm bất ngờ và mãnh liệt. Chiêu Bát Tiên Trạch hoa tuy chỉ có tám thức kiếm, nhưng lại là chiêu sát thủ khi cận chiến. Phiêu Trần vung kiếm điểm liền tám nhát. Ðối phương chỉ tránh được năm, ngực thủng ba lỗ nằm thành hình chữ phẩm.
Vương Giáo chủ thấy áp lực của Ðao Trận tan biến, hiển lộng thần uy lao vào đối thủ trước mặt. Ðây mới là lúc biểu lộ bản lãnh tuyệt luân của một bậc Tôn Sư. Thanh trường kiếm trong tay họ Vương rít lên vo vo, khoá chặt trường đao, tiện đứt hai bàn tay cầm đao, rồi lướt ngay vạch toang bụng đối phương.
Phần lão già cầm Đại Phủ cũng không chịu kém, hung hãn nhẩy xổ vào lão một mắt trong Trung Châu Lục Hán. Lưỡi búa chặt gẫy trường đao và chẻ dọc thân hình địch thủ. Cùng lúc ấy, Phiêu Trần hạ thủ luôn lão thứ năm, không phải bằng kiếm mà bằng một mũi Bát Túc Phi Tiền. Khổng Tước Bang lừng danh bởi ám khí Khổng Tước Mao, thì có chết bởi ám toán cũng chẳng trách được ai.
Thực ra Phiêu Trần bắt buộc phải tàn nhẫn, quyết liệt để Trung Châu Lục Hán không có thời gian thi thố tuyệt học Phi Mao Đoạt Mệnh của Khổng Tước Thần Ma! Nhưng dẫu sao cuối cùng trong Lục Hán đã kịp dở trò, và mục tiêu của lão lại là phụ nhân áo xanh đang đứng ở ngoài.
Vương Giáo chủ và lão già cầm búa vừa lao đến, đã thấy đối phương vẫy tay, phóng ám khí. Vương Giáo chủ thừa biết uy lực của Khổng Tước Mao, đau đớn thét lên:
- Phu nhân hãy coi chừng!
Nhưng ông đã biết là không còn kịp nữa, nên dồn hết lòng căm giận vào lưỡi kiếm, thọc vào năm đại huyệt từ vai đến rốn kẻ thù. Lão ta không tránh được cái chết, vì lưỡi Ðại Phủ cũng đồng thời ập đến.
Hạ xong địch thủ Vương giáo chủ quay lại xem tình hình người vợ thân yêu. Ông dụi mắt khi thấy bà vẫn đứng yên, còn chàng trai lạ kia đang từ từ khuỵu xuống, vì trên vai trái cắm chặt mũi Khổng Tước Mao! Vương giáo chủ thức ngộ được rằng chàng trai kia đã liều mình hứng lấy mũi ám khí, chịu chết thay cho vợ mình!
Lúc này, giáo chủ phu nhân đã ngồi xuống thăm mạch Phiêu Trần, mắt bà đẫm lệ. Vương giáo chủ đến nơi, buồn bã nói:
- Chưa ai thoát chết dưới chất độc của Khổng Tước Mao cả! Ơn này phu thê chúng ta đành nợ đến kiếp sau mới trả được!
Giáo chủ phu nhân bật khóc:
- Chàng trai xinh đẹp này là ai mà lại liều thân để cứu chúng ta như vậy nhỉ? Tính danh không biết, làm sao ghi mộ chí và thờ phụng được đây!
Vương Giáo chủ rút mũi ám khí, điểm huyệt xung quanh vết thương, lau nước mắt, bảo lão già tóc xõa:
- Tứ đệ hãy thủ tiêu tử thi của Trung Châu Lục Hán rồi bồng ân nhân của chúng ta lên núi!
Thì ra lão già vạm vỡ này là Lôi Phủ Thiên Vương, một trong bốn hộ pháp của Ma giáo. Lão tên gọi Thôi Quỳ, được xem là người có sức mạnh cử đỉnh bạt sơn, chỉ kém Ðại Lực Thần Quân Từ Lộc ở Kỳ Liên Sơn một bậc.
Thôi Quỳ móc lọ sành, rắc Hủy Thi Tán vào sáu xác chết, rồi bước đến bồng Phiêu Trần lên. Còn Vương giáo chủ thì ẵm phu nhân vì bà đã bị kiệt lực sau trận đấu vừa rồi. Hơn nữa, Vương phu nhân mắc bệnh đã tám năm nay nên cơ thể hư nhược. Tuy tuổi mới hơn năm mươi nhưng căn bệnh đã khiến tóc bà bạc đi nhiều và nhan sắc kém tươi. Nằm ngửa trên tay trượng phu bà tư lự bảo:
- Tướng công là người thông tuệ sao không tìm cách cứu được chàng trai này? Chẳng lẽ Ma Giáo chúng ta chịu thua chất độc của Khổng Tước Mao hay sao?
Bà dừng lại, nuốt lệ rồi nói tiếp:
- Không hiểu sao thiếp lại cảm thấy dung mạo của chàng trai này rất quen thuộc và thân thiết lạ lùng!
Vương giáo chủ gật đầu:
- Lão phu cũng đang tính xem có phương cách nào không. Nhưng chỉ sợ cậu ta không sống đến lúc vào sơn cốc. Chất kỳ độc của Khổng Tước Mao phát tác rất nhanh!
Thôi Quỳ bỗng nói:
- Giáo chủ đại ca! Tiểu đệ thắc mắc vì sao Trung Châu Lục Hán lại biết chúng ta sẽ về đến Kim Đỉnh Sơn mà mai phục!
Vương giáo chủ chua chát đáp:
- Việc chúng ta rời Hán Khẩu để đi Kinh Sơn chỉ có phó giáo chủ biết. Như vậy đủ suy ra ai là nội gián của Khổng Tước Bang!
Thôi Quỳ gầm lên:
- Mẹ kiếp! Không ngờ nhị ca lại là kẻ chó má như vậy! Phen này tiểu đệ sẽ chẻ sọ lão ra!
Vương Phu nhân thỏ thẻ:
- May mà giáo chúng chỉ tuân mệnh tướng công, nếu không thì cơ nghiệp Ma Giáo đã rơi vào tay Khổng Tước Bang rồi!
Vương giáo chủ đau đớn nói:
- Cũng nhờ có chàng trai thần dũng này, nếu không thì chúng ta khó thoát với Nhiếp Hồn Thuật của Khổng Tước Thần Ma, đối phương khống chế lão phu khó khăn gì!
Giáo chủ phu nhân buột miệng ao ước:
- Giá mà cậu ta thoát chết, chịu làm nghĩa tử của chúng ta thì hay biết mấy! Thiếp rất thèm có một đứa con như chàng trai này!
Tứ Thiên Vương nhăn mặt:
- Ðại tẩu định thu cậu bé này làm nghĩa tử thì con nha đầu Vệ Yên Hà sẽ tủi thân lắm đấy! Nó mù lòa nên hay nhõng nhẽo!
Lúc này, họ đã vượt hết đoạn sơn đạo cao hai chục trượng, đến một sơn cốc nằm trên sườn núi. Trước cửa cốc là một bãi loạn thạch ngổn ngang, mù mịt sương thu. Ðây chính là một tận kỳ môn rất ảo diệu, do Tàn Tẩu, sư thúc của Vương Giáo chủ bày ra, để bảo vệ chốn ẩn cư của mình. Sau khi Tàn Tẩu qua đời, Vệ Yên Hà, nghĩa nữ của vợ chồng Giáo chủ, đã chọn nơi này để luyện võ. Ba năm trước, Vệ Yên Hà đang luyện công phu Ma Nhãn Đại Pháp thì chân khí chạy sai đường, khiến nàng trở nên mù lòa, Yên Hà dũng cảm chấp nhận định mệnh, sống đời tăm tối với hai tỳ nữ.
Thỉnh thoảng, phu thê giáo chủ lại đên đây để an ủi nàng. Họ dễ dàng vượt qua Thạch Trận, vào cốc và bước nhanh đến gian nhà gỗ ở cuối. Một ả tiểu tỳ đang quét lá trước sân, mững rỡ buông chổi:
- Ðệ tử bái kiến giáo chủ cùng phu nhân!
Thôi Quỳ trừng mắt:
- Sao tiểu nha đầu không chào ta!
Ả che miệng cười:
- Thôi Hộ Pháp còn thiếu nợ đệ tử mười lượng tiền rượu, lại còn dám lên mặt nữa sao?
Thôi Quỳ ngượng ngùng:
- Ừ nhỉ! Ðể lát nữa ta xin đại tẩu trả cho ngươi!
Vệ Yên Hà và nữ tỳ thứ hai bước ra, nếu không có cây gậy trúc trong tay, chẳng ai dám bảo nữ lang xinh đẹp này là kẻ đui mù. Gương mặt trái xoan trắng trẻo nổi bật giữa mái tóc xõa đen huyền điểm thêm đôi mắt to tròn và đôi môi đỏ thắm! Nàng mỉm cười khoe hàm răng trắng đều:
- Nữ nhi bái kiến phụ mẫu và Tứ thúc!
Bỗng nàng hít mạnh rồi hỏi:
- Còn ai khác đi theo tam vị vậy?
Vương Giáo chủ cười khổ:
- Chàng trai này đã liều mạng cứu chúng ta thoát khỏi trận mai phục của Trung Châu Lục Hán. Y sắp bỏ mạng vì chất độc của Khổng Tước Mao!
Ông buông phu nhân đứng xuống đất rồi cùng Lôi Phủ Thiên Vương đưa Phiêu Trần vào nhà, đặt chàng xuống trường kỷ! Vương giáo chủ thăm mạch bệnh nhân. Thấy chàng vẫn còn sống nhưng mạch yếu như tơ nhện.
Lần này mũi Khổng Tước Mao cắm sâu vào lưng, xuyên thủng phổi phải nên chất kỳ độc phát tác rất nhanh và công phá não bộ dữ dội. Nếu là người khác thì đã chết ngay rồi! Vương Giáo chủ quay sang hỏi hai ả nữ tỳ:
- Dược thất phía sau có được dọn sạch sẽ hay không?
Một ả vội đáp:
- Bẩm giáo chủ! Ðệ tử mới quét sáng nay!
Tuy ở vai nô tỳ nhưng họ cũng là giáo chúng Ma Giáo nên xưng hô như vậy! Vương giáo chủ đích thân bồng Phiêu Trần đi ra phía sau. Trên vách sơn cốc có một động khẩu, dẫn đến nơi luyện linh đan của Tàn Tẩu. Tiếng là luyện linh đan chứ thực ra là bào chế thuốc độc và thuốc chữa thương. Do đó, nơi này cách khá xa căn nhà gỗ.
Giáo chủ đặt chàng xuống thạch sàng, là một tảng Vân Thạch đỏ và ấm như có lò lửa bên trong. Loại thạch này rất hữu ích chẳng những người luyện nội công và cả những người mắc bệnh. Họ Vương cởi hết y phục của Phiêu Trần, dùng kim vàng cắm đầy người và cho uống viên linh đan màu đỏ rực. Ông trở ra ngoài ăn bữa tối rồi lại thăm chừng bệnh trạng của Phiêu Trần. Ðến đầu canh ba, giáo chủ nhổ hết kim, thấy mạch chàng vượng hơn một chút, yên tâm về căn nhà gỗ để nghỉ ngơi.
Vệ Yên Hà phải ngủ chung với hai ả tỳ nữ nhường phòng mình cho phụ mẫu. Nàng giả vờ ngủ say nhưng tai vẫn nghe tiếng bàn bạc thì thầm của hai ả Tiểu Cúc, Tiểu Quỳnh. Chúng hết lời tán dương vẻ anh tuấn phi phàm của chàng trai sắp chết kia, khiến nàng nổi tính hiếu kỳ!
Cuối canh ba, chờ bọn nữ tỳ ngủ say, Yên Hà cầm gậy, rời phòng tìm đến dược thất trong động đá. Nàng ở đây bốn năm, trước khi mất đi thị giác nên thuộc lòng địa hình, đi lại dễ dàng. Ngoài tính hiếu kỳ, Yên Hà còn bị thôi thúc bởi lòng nhân. Nàng bất nhẫn khi nghĩ đến cảnh cô đơn của người bệnh trong dược thất. Chàng ta đã liều mình cứu phụ mẫu nàng, thì nàng có bổn phận chăm sóc để biểu lộ lòng biết ơn!
Hơn nữa, Tứ thúc Thôi Quỳ đã hết lời khen ngợi bản lĩnh tài nghệ của chàng, càng khiến Yên Hà thêm ngưỡng mộ! Yên Hà không hề e ngại vấn đề danh tiết, vì nàng tự hiểu mình tàn tật chẳng thể lấy ai được.
Vào đến nơi, đầu gậy chạm phải thạch sàng, Yên Hà mừng rỡ đặt gậy xuống rồi đưa tay mò mẫm. May thay, nàng chạm phải búi tóc bệnh nhân.
Yên Hà nén thẹn thùng, vuốt ve gương mặt, cố tưởng tượng ra dung mạo của chàng! Thấy da chàng lạnh toát, Yên Hà kinh hãi, áp tai vào ngực xem tim chàng còn đập hay không? Nàng hân hoan nhận ra chàng trai vẫn còn sống, Yên Hà như bị lồng ngực săn chắc, vạm vỡ kia hút chặt, nằm im mãi, hít thở mùi nam nhân nồng nàn. Giòng lệ hạnh phúc và hổ thẹn trào ra như suối. Đây là giây phút kỳ diệu duy nhất của đời nàng. Dẫu chàng trai này có sống sót cũng chẳng bao giờ thuộc về một cô gái mù lòa!
Bỗng nàng nhận ra da thịt chàng ấm hẳn lên, và nhịp tim mạnh mẽ, rộn rã hơn. Thế rồi, đôi cánh tay thép kia vươn ra, đưa nàng lên hẳn trên giường, lần cởi xiêm y.
Yên Hà đang say sưa với cảm giác êm nhu nên không hề phản kháng. Nàng tự nhủ rằng mình có hiến thân cho chàng thì cũng là cách để báo ân! Sợ đôi bàn tay mạnh bạo kia xé rách áo, Yên Hà tự trút bỏ y phục.
Trong tâm trạng thoải mái, cam chịu ấy. Yên Hà dễ dàng vượt qua đau đớn, tận hưởng cảm giác hoan lạc tột cùng. Nàng không hề oán trách chàng trai mà vẫn cảm kích về cuộc ái ân nồng thắm này! Kỷ niệm đêm nay sẽ sưởi ấm lòng nàng trong suốt quãng đời còn lại!
Yên Hà nhắm mắt thả hồn theo những đợt sóng tình cao vút, liên tiếp rùng mình vì sự bền bỉ của chàng trai kiên dũng. Bỗng nàng có cảm giác rằng dường như bóng đêm quanh mình có ánh hồng, liền mở mắt ra. Ánh đèn tọa đăng vàng vọt ở vách động khiến nàng chói mắt, phải nhắm lại ngay.
Sau vài lần nhắm mở, Yên Hà mới tin rằng mình đã hồi phục một nửa thị lực! Nàng hân hoan khôn xiết, ngắm nhìn gương mặt anh tuấn của người đàn ông đang ân ái với mình. Chàng thật xinh đẹp vô cùng! Và chính chàng đã xóa tan màn đêm trong đôi mắt của nàng! Những cảm giác rung động mãnh liệt đã khai thông được bế tắc trong nhãn mạch, trả lại chút ánh sáng cho đôi mắt Yên Hà. Nàng chợt nghe lòng biết ơn vô hạn, vuốt ve tấm lưng rộng của tình quân.
Lát sau, Phiêu Trần lăn ra ngủ vùi. Yên Hà mau chóng mặc xiêm y rời dược thất.
Sáng hôm sau, Vương Giáo chủ vào thăm bệnh nhân nhìn thây cây gậy của Yên Hà. Giáo chủ cau mày, thăm mạch tượng, thấy chàng trai kia đã bình phục hoàn toàn.
Ông nghe rõ mùi phấn son của nữ nhân vương vấn trên da thịt chàng, liền quan sát kỹ. Những sợi tóc óng ả và dấu vết để lại đã tố cáo một cuộc ái ân cuồng nhiệt!
Vương Giáo chủ toát mồ hôi lẩm bẩm:
- Lỗi tại ta! Vì không còn cách nào khác, ta đã dùng phép Dĩ Độc Công Độc cho cậu bé uống Hỏa Dược Đan. Tuy cứu được mạng sống, nhưng hai chất độc tương tác nhau, biến thành dâm dược. Nếu có Hà nhi không có mặt ở đây thì cậu ta đã hóa điên rồi! Nhưng mối duyên tình này sẽ giải quyết sao đây?
Ông mặc y phục vào cho Phiêu Trần rồi rời dược thất, tìm đến phòng Yên Hà. Nàng biết việc đã lộ nên hổ thẹn, giả như còn khiếm thị. Vả lại, nàng muốn chờ cho phục hồi hoàn toàn rồi mới thổ lộ. Hiện nay, trừ những vật ở gần trước mắt, còn xa hơn thì vẫn lờ mờ chưa rõ! Vương Giáo chủ nhét cây gậy trúc vào tay nàng rồi buồn rầu bảo:
- Ta biết con đã thất thân với chàng trai kia. Nhưng lỗi là do ở lão phu phục dược, gây ra hậu quả ấy! Con định thế nào?
Yên Hà thản nhiên đáp:
- Hài nhi tự nguyện hiến thân và không hề dám đòi hỏi lương duyên. Nếu chàng không phát giác thì phụ thân cũng đừng tiết lộ! Hài nhi tàn tật, đâu xứng đáng làm vợ một bậc anh hùng tài mạo!
Vương Giáo chủ bối rối:
- Việc này để ta bàn với mẫu thân Hà nhi xem sao?
Ông ra khách sảnh kể mọi chuyện cho phu nhân và Tứ đệ nghe! Thôi Quỳ nói ngay:
- Xem như Hà nhi đã hy sinh danh tiết để cứu mạng cậu ta, phải cử hành hôn lễ ngay thôi!
Vương phu nhân bác bỏ:
- Không được! Việc này phải để hai đứa trẻ giải quyết với nhau, chúng ta nên rời khởi đây thôi! Tính Hà nhi rất cương liệt, không thể ép uổng được đâu!
Bà sai Tiểu Cúc ra gọi Yên Hà đến, rồi bày kế sách của mình! Nàng thẹn thùng nói:
- Mẫu thân quả là hiểu thấu lòng con trẻ! Hà nhi thà chết chứ không ép uổng chàng phải gượng ép lấy một cô gái không quen!
Bàn bạc một hồi, phu thê Vương giáo chủ và Lôi Phủ Thiên Vương rời sơn cốc. Còn Vệ Yên Hà chống gậy vào dược thất. Nàng lay gọi Phiêu Trần:
- Công tử! Công tử!
Phiêu Trần mở mắt ngồi dậy. Nhìn cây gậy trúc và ánh mắt xa xôi chàng nghi hoặc hỏi:
- Phải chăng cô nương bị tật nguyền?
Yên Hà mỉm cười gật đầu:
- Thưa phải! Thiêp luyện công sai đường nên bị mù lòa!
Phiêu Trần thở dài, liếc quanh rồi hỏi:
- Dám hỏi cô nương đây là địa phương nào và vì sao tại hạ ở chốn này?
Yên Hà vui vẻ đáp:
- Đây là một sơn cốc trên sườn núi Kinh Sơn. Công tử vì cứu gia mẫu mà trúng Khổng Tước Mao. Gia phụ đem chàng lên đây chữa trị. Khi biết công tử đã thoát nạn, người giao lại cho thiếp và phải về ngay Hán Khẩu để trừng trị kẻ phản bội. Họ tha thiết yêu cầu chàng ở lại tĩnh dưỡng vài ngày, chờ họ quay lại!
Nàng lại cười và hỏi:
- Thiếp là Vệ Yên Hà, nghĩa nữ của Vương Giáo chủ. Dám hỏi phương danh công tử?
Phiêu Trần đáp:
- Tại hạ là Sở Phiêu Trần, quê đất Trường Sa, đang trên đường đi Chiết Giang vì có chút việc cấp bách, chắc không thể lưu lại đây được!
Yên Hà lộ vẻ buồn rầu:
- Thiếp mù lòa, chẳng có ai là bằng hữu. Nay nhận lời song thân phụng hầu công tử, nếu chàng bỏ đi ngay thì thiếp tủi thân lắm!
Phiêu Trần tưởng nàng mù thật, tha hồ ngắm nghía gương mặt đẹp tuyệt trần, thầm tiếc cho nỗi bất hạnh của một nữ nhân. Chàng băn khoăn nói:
- Tại hạ phải đi Chiết Giang để tìm gia phụ! Hay cô nương đã nói vậy, tại hạ xin ở lại ba ngày để bầu bạn!
Yên Hà mỉm cười:
- Chiết Giang là trọng địa của Ma Giáo, đệ tử đông đến hàng vạn. Nếu công tử muốn tìm người thì thiếp sẽ giúp cho! Chẳng hay Sở lão bá đi đến địa phương nào vậy?
Phiêu Trần lúng túng đáp:
- Tháng chín vừa rồi tại hạ trúng Khổng Tước Mao, mê man như sắp chết. Vì vậy, gia phụ và gia nghĩa thúc mới rời Trường Sa để đi Chiết Giang tìm thuốc, nhưng không biết rõ là đến đâu!
Yên Hà cười mát:
- Phủ Chiết Giang rộng đến mấy chục dặm vuông, không biết rõ mục tiêu, công tử có đi cũng chỉ vô ích thôi! Chàng cứ yên tâm ở lại đây, thiếp hứa sẽ huy động giáo chúng tìm cho ra Sở lão bá!
Phiêu Trần nghe có lý gượng cười:
- Thế thì tại hạ xin tuân mệnh!
Chàng bỗng nghe thân thể nhớp nhúa vì dơ bẩn, nhất là vùng hạ thể, liền ấp úng nói:
- Phiền cô nương chỉ cho mỗ chỗ tắm gội!
Yên Hà gật đầu:
- Hành lý và ngựa của công tử đã được mang lên núi. Mời chàng theo thiếp!
Nàng đứng lên, chống gậy lần đi. Sau ba năm mù lòa, nàng chẳng cần giả đò thì cử chỉ cũng giống hệt như người mất thị giác! Phiêu Trần thở dài, bước theo người con gái tật nguyền Ra khỏi thạch động, nàng chỉ về mé tả:
- Vách trái sơn động có một hồ nước, công tử cứ đi về hướng này sẽ đến nơi! Thiếp vào phân phó thủ hạ đi Giang Lăng truyền tin về Chiết Giang, rồi sẽ mang y phục đến cho công tử!
Phiêu Trần hơi chột dạ, nhưng nghĩ nàng chẳng nhìn thấy gì nên thôi không ngăn cản! Chàng lướt nhanh về hướng trái, đến một hồ nước trong xanh, được vây kín bởi hàng rào mộc cẩn dày đặc!
Phiêu Trần yên tâm trút bỏ y phục, ngạc nhiên trước những sợi tóc mềm mại của nữ nhân còn dính trên ngực. Và dường như thân chàng thoang thoảng mùi hương nhè nhẹ của loại nước hoa.
Phiêu Trần rùng mình kinh hãi bởi một ý niệm loé lên trong đầu. Hình như đêm qua chàng đã có một giấc mộng vu sơn, nhưng sao giờ lại có những dấu vệt thực này? Chàng nhảy ùm xuống hồ, xõa tóc tắm gội. Cơ thể sách sẽ, sảng khoái thì đầu óc minh mẫn, và giấc mộng đêm qua càng hiện rõ mồn một. Chàng đã nhớ ra gương mặt của người tình trong mơ! Đó chính là cô gái mù lòa Vệ Yên Hà!
Cảm giác đau rát nhẹ ở dương vật càng khẳng định tính chân thực của cuộc ái ân. Phiêu Trần nghe người lạnh toát, tự phỉ nhổ mình là một kẻ khốn nạn!
Nhưng nghĩ đến thái độ vui vẻ hồn nhiên của Yên Hà, chàng bỗng nghi ngờ lập luận của mình. Nếu quả thực rằng nàng đã bị chàng chiếm đoạt, sao chẳng hề oán giận hoặc nói ra?
Phiêu Trần quyết hỏi cho ra lẽ rồi sẽ tính. Chàng lên bờ, thẫn thờ giặt giũ bộ y phục hôi hám, lòng suy nghĩ miên man! Lát sau, Vệ Yên Hà mang quần áo sạch của chàng đến, đứng ngoài gọi vọng vào:
- Công tử, thiếp đã mang y phục đến!
Phiêu Trần đáp:
- Cô nương cứ ném vào!
Yên Hà nghe theo lời chàng. Phiêu Trần mặc y phục xong, đi ra, thì thấy nữ lang mù vẫn đứng bên ngoài hàng rào, mân mê hoa Mộc Cẩn trắng! Chàng bước đến, dịu giọng hỏi:
- Vệ cô nương! Phải chăng đêm qua ta đã tiết mạn nàng? Nếu đúng như vậy, xin cô nương cứ nói ra, ta quyết không phụ rẫy nàng!
Yên Hà cười nhạt:
- Quả là đêm qua thiếp có đến thạch động chăm sóc công tử nhưng hoàn toàn không có gì xảy ra cả! Mong công tử đừng suy nghĩ vẩn vơ!
Phiêu Trần ngượng chín người:
- Tại hạ thất ngôn, mong Vệ cô nương lượng thứ!
Yên Hà mỉm cười:
- Công tử là đại ân nhân của Ma Giáo, thiếp nào dám trách móc gì!
Hai người trở vào tòa nhà gỗ dùng điểm tâm. Phiêu Trần ngạc nhiên hỏi:
- Chẳng lẽ cô nương sống ở đây một mình?
Nàng cười đáp:
- Có ả tiểu tỳ, nhưng thiếp đã sai đi Giang Lăng lo việc tìm kiếm lệnh tôn rồi. Công tử đừng lo, thiếp tuy tật nguyền nhưng cũng có thể nấu nướng, không để chàng đói đâu!
Trong những ngày sau đó, hai người quấn quýt bên nhau không rời. Phiêu Trần vì lòng nhân hậu, cố đem lại niềm vui cho cô gái bạc mệnh. Chàng dắt nàng đi khắp sơn cốc, cố diễn tả lại cảnh vật, cỏ cây. Tuy đã là cuối thu nhưng trong sơn cốc khí hậu ấm áp, trồng nhiều loại cây thường xanh nên đỡ tiêu điều. Đó là những cây Đông Thanh, Hoài Dương lá xanh quanh năm, dẫu giữa mùa đông rét mướt tuyết phủ đầy cũng vẫn tràn trề sức sống.
Nhưng cảnh đẹp của mùa thu lại nằm ở màu lá đỏ rực của đám cây Phong, cây Thích, điểm xuyến cho màu vàng cố hữu của tiết thu!
Phiêu Trần đã đem hết chuyện của mình ra kể cho Yên Hà nghe. Đối với nàng chàng hoàn toàn không e ngại giấu giếm gì cả. Khoảng cách giữa hai người mỗi ngày một ngắn lại, có thể thản nhiên nắm tay nhau mà không bối rối. Đến ngày thứ bảy, Phiêu Trần chợt phát giác ra lòng mình quyến luyến Yên Hà.
Giữa chàng và nàng không có hàng rào luân lý ngăn cách như với Tiểu Quận Chúa. Hơn nữa, chàng chưa bao giờ gần gũi với nữ nhân nào nhiều hơn cô gái mù này. Yên Hà lại kiều diễm, thông tuệ và rất nhu thuận, bảo sao tình cảm không mau chóng đâm chồi, nảy lộc?
Nhưng nghĩ đến kẻ địch hùng mạnh nhất là Khổng Tước Bang, chàng chẳng dám dấn thân vào lưới tình, sợ Yên Hà sớm trở thành góa phụ! Phiêu Trần quyết định rời núi Kinh Sơn để đi Chiết Giang. Trưa ngày đầu tháng mười một, chàng ra hồ tắm gội để lên đường. Phiêu Trần vừa cởi y phục thì Yên Hà từ dưới nước trồi lên, chàng đứng chết lặng, nhìn đôi ngực mơn mởn và bờ vai trắng muốt.
Phiêu Trần rón rén nhặt áo quần rời khỏi hồ nước, vì người đẹp đã tiến dần lên bờ. Thân hình nàng tuyệt mỹ, lộ dần theo mực nước. Yên Hà thấy chàng bỏ chạy, mỉm cười thích thú. Nàng đã yêu chàng tha thiết, và đã từng dâng hiến nên chẳng có gì phải thẹn thùng! Khi nàng vào đến khách sảnh thì thấy Phiêu Trần đã để sẵn tay nải và trường kiếm trên bàn. Chàng điềm đạm nói:
- Tại hạ chờ ở đây bảy ngày mà không thấy phu thê giáo chủ trở lại. Tại hạ xin phép cáo từ để đi Chiết Giang!
Yên Hà ai oán đáp:
- Chẳng lẽ công tử nỡ để thiếp ở lại đây một mình?
Phiêu Trần lúng túng:
- Quả thực là tại hạ cũng không nhẫn tâm như vậy. Nhưng lòng này nóng như lửa đốt khi không nhận được tin của gia phụ và gia thúc!
Yên Hà gật đầu:
- Thiếp cũng đang băn khoăn về song thân! Hay là công tử khai ân đưa thiếp về Vũ Xương xem tình hình thế nào? Sau đó công tử đi Chiết Giang cũng thuận đường mà?
Phiêu Trần nghe hữu lý, tán thành ngay!
- Tại hạ xin tuân mệnh! Vệ cô nương vào thu xếp hành lý đi!
Nàng cười đáp:
- Còn công tử thì ra hồ tắm gội đi, ngoài ấy không còn ai đâu!
Phiêu Trần giật mình, đỏ mặt, đoán rằng nàng đã phát hiện ra mình nhìn trộm!
Last edited by kedatinh1974; 19-07-2008 at 02:25 PM.
|