Xem bài viết đơn
  #32  
Old 08-09-2009, 11:05 PM
A Lìn
Guest
 
Bài gởi: n/a
Thời gian online:
Có phải bài thơ vịnh cửa biển Tư Dung là của chúa Nguyễn Phước Thái?

Trích:
Hỏi: Trong sách “Tản mạn Phú Xuận” (Trình Đình Sơn – Hoàng Anh, Nxb Trẻ, 2001, tr. 33-34) có giới thiệu bài thơ chữ Hán của chúa Nguyễn Phước Thái vịnh cửa biển Tư Dung với nguồn tài liệu: Sách Đại Nam nhất thống chí – Thừa Thiên phủ (tập thượng), dịch giả: Tu Trai Nguyễn Tạo (Sai Gòn: Nha Văn hoá Bộ QGGD – 1961), tr. 99-102. Cửa tấn Tư Hiền.

Xin cho biết: Thông tin trên có chính xác không? (Ông Trần Viết Đắc, TP Huế)

Trả lời: Trong bản dịch Đại Nam nhất thống chí (ĐNNTC) dẫn trên, phần giới thiệu bài thơ vịnh cửa biển Tư Hiền (tức Tư Dung) (1) như sau:

“Đầu niên hiệu Hồng Đức, vua Lê Thánh Tôn đi đánh Chiêm Thành ngang qua cửa biển Tư Dung, bùi ngùi than rằng: “Núi sông này khí thế hùng dũng lắm thay! Đời sau chắc có kẻ anh hùng chiếm cứ chỗ này”. Sau vua Thái Tổ (Nguyễn Hoàng) dựng cơ nghiệp ở miền Nam, Anh Tôn (Nguyễn Phước Trăn) đóng đô ở Phú Xuân, lời nói ấy quả có ứng nghiệm. Có bài thơ rằng: v.v.”

Tiếp theo, dịch giả chép bài thơ chữ Hán, kèm bản phiên âm và bản dịch:

Phiên âm: (không ghi nhan đề)

Lâu thuyền kích cổ đáo Ô Long,
Bách nhị sơn hà thử yếu xung.
Liệt chướng huyền nhai thanh súc súc,
Man thiên phách lãng bích trùng trùng.
Tiên triều sự nghiệp truyền di tích,
Nam quốc dư đồ chí cựu phong.
Nạp cấu tàn ô hà hải lượng,
Cử gian vô xứ bất triều tôn.


Dịch thơ:

Lầu thuyền đến cửa Ô Long,
Nhìn xem thiên hiểm non sông khác thường.
Núi cao xanh, dăng sườn đồ sộ,
Biển chập chồng, sóng vỗ dậy trời.
Tiên triều công nghiệp còn đời,
Dư đồ Nam quốc vẽ vời đã lâu.
Lượng hải hà tàng thâu ô cấu,
Cả tư bề bức tấu về đây.

Đối chiếu đoạn dịch trên với nguyên bản chữ Hán trong sách ĐNNTC (Bản in 1910, quyển 2, tờ 52a, hiện lưu tại Thư viện Khoa học Xã hội, TPHCM, ký hiệu HNv 200), chúng tôi thấy dịch giả dịch rất sát. Những sự kiện nêu dẫn về Thái Tổ Nguyễn Hoàng và Anh Tôn Nguyễn Phước Trăn (?) là để chứng tỏ lời tiên đoán của Lê Thánh Tông quả đã ứng nghiệm. Câu giới thiệu bài thơ (Hữu thi vân/ Có bài thơ vịnh rằng) không có chủ ngữ. Anh Tôn chỉ là chủ ngữ của một “tiểu cú” trong câu trước, nên không thể ngầm hiểu là chủ ngữ của câu ấy; chủ ngữ của câu đầu đoạn văn (là Lê Thánh Tông) thì có thể ngầm hiểu cũng là chủ ngữ của cây ấy. Nhưng cách diễn đạt như vậy rất dễ dẫn đến hiểu lầm bài thơ ấy là của một người nào khuyết danh, hoặc như trường hợp sách Tản mạn Phú Xuân nói trên.

Tuy vậy, qua tìm hiểu thơ văn Lê Thánh Tông, chúng ta biết được bài thơ trên chính là một trong số 14 bài của vua Lê Thánh Tông vịnh các cửa biển trên đường bình Chiêm mở nước vào những năm 1470-1471. Bài thơ này có nhan đề Tư Dung hải môn lữ thứ (Nghỉ lại ở cửa bể Tư Dung) chép trong tập Minh Lương cẩm tú. Sách này hiện lưu tại thư viện của Viện nghiên cứu Hán Nôm (Hà Nội). Trước đây trong sách Thơ văn Lê Thánh Tông (Mai Xuân Hải chủ biên, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1986, tr. 194-195) có in bài thơ này với bản dịch của Ngô Linh Ngọc.

Như vậy, bài thơ vịnh cửa biển Tư Dung đã ra đời 216 năm trước khi Anh Tông Nguyễn Phước Thái kế vị ngôi chúa (1687-1471) (2). Cũng cần nói thêm: Trước đây các sách đều nhầm chúa Ngước Thái tên “Trăn”, bản dịch ĐNNTC trên cũng vậy. Trong đoạn trích từ ĐNNTC, những chữ Tông đều viết thành chữ Tôn (Thánh Tôn, Anh Tôn) là do kiêng tên huý vua Thiệu Trị (Miên Tông).

(KTNN số 650, ngày 01.09.2008)

-----------------
Chú thích của Goldfish:
(1) Cửa biển Tư Hiền (tức Tư Dung) là “một trong hai cửa biển của tỉnh Thừa Thiên, ở về hướng đông bắc huyện Phú Lộc, cách kinh thành Huế về phía nam chừng ba mươi cây số. (…) cửa biển này xưa thuộc về đất nước Chiêm Thành, đời Lý gọi là Ô Long 烏 龍 . Đến đời Trần, vua Nhân Tông gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm là Chế Mân, đưa công chúa tới đây, nên đổi tên thành Tư Dung 思容 (…). Mãi đến năm Thiệu Trị nguyên niên (1841), cửa Tư Dung mới đổi tên thành cửa Tư Hiền 思 賢 ”(Theo Đoàn Khoách trong bài Thắng cảnh Tư Dung, http://www.nhohue.org/thangcanhtuhien.htm)
(2) Có lẽ do lỗi in ấn. Có tài liệu ghi: (1687–1691).
Tài sản của A Lìn

Trả Lời Với Trích Dẫn