
08-09-2009, 11:08 PM
|
|
Guest
|
|
Bài gởi: n/a
Thời gian online:
|
|
Nguyên bản chữ Hán và ý nghĩa hai câu thực trong bài thơ “Nghe tiếng sóng chùa Thiên Thai” của chúa Nguyễn Phúc Chu?
Trích:
Hỏi: Trong sách “Tự điển danh nhân văn hoá và thắng cảnh Việt Nam” (GSTS Nguyễn Như Ý chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, 2004), đoạn viết về Ngũ Hành Sơn (Đà Nẳng) có giới thiệu bản dịch bài thơ “Nghe tiếng sóng chùa Thiên Thai” của chúa Nguyễn Phúc Chu. Hai câu “thực” có tứ thơ rất lạ và khó hiểu:
Như Lai vượt biển nghe sóng xuân
Giữa sông hồ lảnh vang chuông đá.
Đề nghị cho biết nguyên bản chữ Hán và giải thích ý nghĩa hai câu thơ ấy. (Ông Phạm Văn Thiện, Đà Nẳng)
Trả lời: Các nhà biên soạn tự điển trên đã sử dụng bản dịch bài thơ “Tam Thai tự thính triều” của nhóm biên soạn do Nguyễn Đức Thọ chủ biên. Cụ thể như trong các sách Di tích lịch sử văn hoá Việt Nam (Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1990) và Từ điển di tích văn hoá Việt Nam (Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993 và Nbx Văn học, 2003), hai câu thơ ấy đều được phiên âm và dịch nghĩa thống nhất là:
Như Lai việt hải văn xuân lãng
Tự tại Bà Dương thính thạch chung.
(Như Lai vượt biển nghe sóng xuân
Giữa sông hồ lảnh vang chuông đá).
Nguyên văn chữ Hán bài thơ chép trong tập Minh Đô thi tuyển (MĐTT) lưu tại thư viện của Viện nghiên cứu Hán Nôn (Hà Nội, ký hiệu A. 2171. Hình bên là bản photocopy của cả bài ở trang 13a - 14a của MĐTT (có đánh dấu bài thơ). Ngoài tên Tam Thai ở nhan đề, trong bài không có dấu chỉ tên riêng; nhân danh, địa danh do người đọc tự hiểu.
Bài “Tam Thai tự thính triều” trong Minh đô thi tuyển.
 Trang ĐNTTC chép đoạn giới thiệu bài thơ
Người dịch bài thơ cho rằng “như lai” là tên hiệu đức Phật và “việt hải” là “vượt biển” thì hai câu “thực” đối không chỉnh vì hai cặp từ Như Lai/Tự tại và việt hải/Bà Dương không cùng từ loại. Hơn nữa, tứ thơ cũng không hợp với tác giả là đệ tử rất sùng đạo Phật, đã thọ giới bồ tát với pháp danh Hưng Long.
Hai câu thơ ấy phiên âm đúng như sau:
Như lai Việt hải văn xuân lãng,
Tự tại Bà Dương thính thạch chung.
Tạm dịch:
Đến miền biển Việt xuân nghe sóng,
Ngỡ chốn Bà Dương đá vọng chuông.
Hồ Bà Dương ở phía nam Trường Giang, thuộc miền bắc tỉnh Giang Tây. “Thạch chung” là tiếng vang dội như tiếng chuông từ những hang đá ở Thạch Chung Sơn trước cửa hồ Đà Dương. Tô Đông Pha trong bài “Thạch Chung Sơn ký” đã giải thích: “Phía dưới núi có nhiều hang đá, gió nước dội vào tạo thành tiếng vang như chuông lớn”. Chúa Nguyễn Phúc Chu viết hai câu “thực” như trên vì cho rằng núi Tam Thai có những đặc điểm giống với Thạch Chung Sơn: nhiều hang đá và đứng sát biển; do đó, tiếng sóng ở vùng biển này vào mùa xuân cũng nghe như tiếng sóng ở cửa hồ Bà Dương.
Trước đây, các tác giả sách Tản mạn Phú Xuân (Sđd, tr. 50-53) (1) đã giới thiệu bản in bài thơ này trên tô sứ Thanh Ngoạn xưa và đưa ra một bản dịch khác để đính chính bản dịch trên. Nhưng các tác giả này lại vấp một sai lầm khác ở câu thơ dưới: Bà Dương đọc thành Phiên Dương (không phải dị bản) và ghi chú là tên của tỉnh thành Quảng Đông tức Ngũ Dương thành, trong thành có hồ lớn phát ra tiếng chuông đá. Thực ra, hồ Bà Đương ở miền bắc tỉnh Giang tây, chứ không phải tỉnh Quảng Châu (tỉnh thành Quảng Đông); Ngũ Dương thành là biệt danh của thành Quảng Châu, không có liên quan gì đến hồ Bà Dương cả.
(KTNN số 650, ngày 01.09.2008)
|
|