Hỏi: Trong phần trả lời cho ông (bà?) Thi Ngọc ở Cao Lãnh về từ “lai căn” (KTNN số 644, ngày 1.7.2008), ông Liêu Hân có nêu một ý như sau:
“Có ý kiến cho rằng “lai căn” là cách đọc trệch của “ly căn” là “xa rời gốc rễ”, hoặc là cách đọc trại của một từ tiếng Pháp, song dù rất cố gắng, chúng tôi vẫn chưa tra cứu được từ “ly căn” trong cuốn tự điển Hán Việt nào, cũng như chưa tìm được từ tiếng Pháp nào tương tự như “lai căn” nên chưa dám khẳng định, mà chỉ ghi thêm lại đây cho rộng đường dư luận, để độc giả tham gia ý kiến” (1).
Với tư cách là bạn đọc, tôi đóng góp một ý nhỏ: Tôi thấy ý kiến ly căn đọc trại thành lai căn cũng có lý, vì tôi tra trên mạng vẫn thấy chữ “ly căn” 離 根. Hơn thế nữa, tôi thấy có mối tương quan cách phát âm giữa i và ay. Ví dụ mi trong tiếng Hán đọc thành mày (lông mày) trong tiếng Việt, thì li cũng có thể đọc thành lai lắm chứa sao không? Nếu ông chưa cho là phải, thì thử hỏi “ly căn” trong tiếng Hán có nghĩa là gì, ngoài nghĩa “lìa gốc” hay “xa rời gốc rễ”? (Ông Lê Thiên Minh – Q.5, TP HCM)
Trả lời: Cám ơn ông đã đóng góp một ý kiến lý thú cho diễn đàn Chuyện Đông Chuyện Tây. Từ phát hiện của ông, chúng tôi tìm hiểu thì thấy có thêm một số trường hợp chuyển đổi giữa i/y trong tiếng Hán sang ai/ay/ây trong tiếng Việt, như sau:
vi 圍 => vây (bao vây)
mi 眉 => mày (lông mày)
quí 貴 => quái (quí nhân phò hộ => quới nhân phò hộ)
thi 屍 => thây (xác chết) v.v.
Song các trường hợp trên chưa thể là cơ sở ngữ âm để chúng ta đoán được rằng ly đọc trại thành lai, và do đó ly căn đọc trại thành lai căn được. Đã đành là trong tiếng Hán có từ “ly căn”, đặc biệt là trong kinh sách Phật giáo, song lại dùng theo nghĩa hoàn toàn khác. “Ly căn” ngoài nghĩa đen là “lìa gốc”, thì trong thuật ngữ Phật học có nghĩa là “lìa các căn”. Trong triết học Phật giáo thì “căn” được dùng để chỉ lục căn hay “sáu gốc rễ”, tức sáu cơ quan dùng để nhận thức sáu đối tượng là lục trần, tức thế giới ngoại lai. Lục căn gồm: nhãn căn (mắt), nhĩ căn (tai), tỵ căn (mũi), thiệt căn (lưỡi), thân căn (thân thể), và ý căn (ý thức); còn lục trần gồm: sắc (màu sắc), thanh (âm thanh), hương (mùi thơm, thối), vị (mùi vị), xúc (tiếp xúc, chạm), và pháp (các sự vật hiện hữu).
Lục căn Lục trần
Nhãn --=> Sắc
Nhĩ ----=> Thanh
Tỵ -----=> Hương
Thiệt --=> Vị
Thân --=> Xúc
Ý ------=> Pháp
Do đó, ly căn ở đây, như thường dùng trong kinh điển Phật giáo, hàm nghĩa ly căn thoát trần 籬 根 脫 塵 , nghĩa là lìa xa lục căn, xả bỏ lục trần để giữa cho tâm thân được thanh tĩnh mà nhận ra chân tướng của thế gian, chứ không phải theo nghĩa là lai căn mà chúng ta đang tìm hiểu.
Vừa rồi, chúng tôi có nhận được thư đóng góp ý kiến của bạn đọc Nguyễn Văn Thuấn (TP Cao Lãnh, Đồng Tháp) cho biết, căn cứ vào tư liệu nghiên cứu của học giả An Chi thì từ lai căn đã có trong các tự điển từ trước năm 1930. Chúng tôi xin ghi nhận thiếu sót của mình và chân thành cám ơn ông.
(KTNN số 653, ngày 01.10.2008)
|