Xem bài viết đơn
  #43  
Old 08-09-2009, 11:12 PM
A Lìn
Guest
 
Bài gởi: n/a
Thời gian online:
Nghĩa hai câu thơ: Thạch bích lăng không cổ thụ hoành/ Nhãn trung thiên địa tối phân minh

Trích:
Hỏi: Bài thơ “Huyền Không động” trong Lộc Minh Đình thi thảo của Ưng Bình Thúc Giạ Thị có hai câu khởi đề:

Thạch bích lăng không cổ thụ hoành,
Nhãn trung thiên địa tối phân minh.

Trước đây, trong sách Thơ ca tuyển Ưng Bình Thúc Giạ Thị (Nxb Thuận Hóa. 1992, tr.224), dịch giả Thanh Vân đã dịch:

Vách đá vươn cao cây chắn ngang,
Bao la đáy mắt nước mây ngàn.

Và trong sách Ưng Bình Thúc Giạ Thị - cuộc đời và tác phẩm (Nxb Văn học, 2008, tr.22), tiến sĩ Nguyễn Hữu Vinh cũng dịch tương tự.

Dịch nghĩa:

Vách núi cao ngất, cây lớn nằm chắn ngang.
Cảnh đất trời phân chia rõ rệt trước mắt.

Dịch thơ:

Vách núi cheo leo đá chắn cây
Rành rành đáy mắt nước trời mây.

Xin cho biết ý kiến các bản dịch hai câu thơ trên. (Ô. Hoàng Trọng Nghĩa – Tp Đà Nẳng)



Trả lời: Tác giả mở đầu bài thơ theo cách “Khởi như khai môn kiến sơn, đột ngột tranh vanh” (Khởi như mở cửa thấy núi, đột ngột cao dốc) bằng cảnh phác họa cảnh trí đặc trưng trong động Huyền Không. Sự cảm nhận của chúng tôi về hai câu thơ này có phần khác với các dịch giả trên.

Trước hết là hình ảnh “cổ thụ hoành” trong câu “phá”. Dịch giả Thanh Vân dịch “cây chắn ngang”, dịch giả Nguyễn Hữu Vinh dịch nghĩa: “cây lớn nằm chắn ngang” và chuyển thành thơ là “đá chắn cây” nhưng cũng bao hàm cả nghĩa “cây lớn nằm ngang” (vì bị “đá chắn”). Hai dịch giả đều hiểu chữ “hoành” trên theo nghĩa thông thường là “ngang”. Chúng tôi nghĩ rằng ở đây chữ “hoành” ấy nên hiểu theo nghĩa “giao”. Sách Từ Hải và sách Từ nguyên của Trung Quốc đều ghi chữ “hoành” này còn có nghĩa là “giao thác” tức là giao Trung Hoa, xen kẻ với nhau. Hiểu theo nghĩa này mới hợp với cảnh trí đặc trưng của động Huyền Không là trên vách đá cao có nhiều cây mọc bám, rễ thòng và cành rũ xuống; ở những lỗ hổng trên nóc có nhiều cây tỏa ngọn sum suê.

Ở câu “thừa”, từ “thiên địa” tuy chỉ cả bầu trời và mặt đất, nhưng nhà thơ đứng trong động nhìn lên những lỗ hổng (đường kính chừng vài mét) trên nóc cao (khoảng 30 mét) chỉ thấy được trời mây, chứ không thể thấy sông biển nên những hình ảnh “nước mây ngàn” và “nước trời mây” không đúng với sự quan sát thực tế. Hơn nữa, với câu “thừa”, nhà thơ chỉ muốn nói là thấy rõ được trời đất để chuyển xuống cập “thực”, chứ không miêu tả chi tiết.

Nhân đây, để thêm tài liệu đối chiếu, chúng tôi xin giới thiệu bản dịch hai câu thơ trên của giáo sư Trần Trọng San được nhà văn Phạm Đình Tân trích dẫn trong bài thuyết trình “Ưng Bình Thúc Gia Thị, từ thi sĩ đến chí sĩ” tại trường Quốc gia âm nhạc Sài Gòn năm 1973 (in lại trong Hồi ức về cha tôi, Tôn Nữ Hỷ Khương, Nxb Văn nghệ, TP Hồ Chí Minh, 2002):

Cây cổ nghiêng kề vách đá chênh,
Đất trời tươi mắt thắm tươi hình.


(KTNN số 654, ngày 10.10.2008)

------------------------
Ghi chú của Goldfish:
Chúng tôi xin chép lại bài thơ và bản dịch của Nguyễn Hữu Vinh từ website Hoài Hương:

Huyền Không Ðộng

Thạch bích lăng không cổ thụ hoành
Nhãn trung thiên địa tối phân minh
Dục cầu Ðỗ Phủ (1) thi nan trạng
Túng hữu Vương Duy (2) họa bất thành
Tự tiếu niên lai vô dị học
Mỗi đăng cao (3) xứ úy bình sinh
Danh đề động lý tu tri ngã
Tuy Lý (4) vương tôn Thúc Giạ Bình

Huyền không Ðộng

Vách núi cao ngút, cây lớn nằm chắn ngang
Cảnh đất trời phân chia rõ rệt trước mắt
Dù thơ Ðỗ Phủ cũng khó được hết ý
Dẫu Vương Duy vẽ chăng nữa cũng vẽ chẳng thành
Tự thẹn năm dài không học hỏi gì thêm điều mới lạ
Mỗi lần leo núi chơi ngắm cảnh thấy thỏa mãn cuộc đời
Trong động đề tên cho người đời biết
Ta là Thúc Giạ Ưng Bình cháu của ngài Tuy Lý Vương

Ðộng Huyền Không

Vách núi cheo leo đá chắn cây
Rành rành đáy mắt nước trời mây
Thơ dù Ðỗ Phủ lời đành cạn
Họa có Vương Duy vẽ cũng gay
Tự thẹn ngày không phương học mới
Mãi trèo non ngắm thỏa đời này
Tên đề trong động cho đời biết
Thúc Giạ cháu ngài Tuy Lý đây

Nguyễn Hữu Vinh dịch, Taiwan, 1995

Chú thích

Lời tác giả: Động tại Ngũ Hành Sơn thuộc Quảng Nam tỉnh, Ðiện Bàn phủ, Hoài Khái xã 洞在五行山屬廣南省奠磐府淮溉社 Động trong núi Ngũ Hành, thuộc xã Hoài Khái , phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Thử tác tại thiếu niên lãng du thời kỳ 此作在少年浪遊辰期 Thơ làm trong thời còn trai trẻ hay đi ngao du.
_____________
1) Đỗ Phủ (712-770) tự xưng là Ðỗ Lăng bố y 杜陵布衣 và Thiếu Lăng dã lão 少陵野老 một nhà thơ lớn đời Ðường.
2) Vương Duy (701-761) tự là Ma Cật 摩詰 giỏi thơ, họa và thư pháp. Ðược tôn là thủy tổ của phái họa đời Nam Tống 南宋. Tô Ðông Pha 蘇東坡 khen rằng "Thi trung hữu họa, họa trung hữu thi 詩中有畫,畫中有詩 Trong thơ có họa, trong họa có thơ. Một nhà thơ lớn đời Ðường.

3) Ðăng cao 登高 [TT] tr. 399, Leo núi ngắm cảnh. Thơ "Cửu nguyệt cửu nhật ức Sơn Ðông huynh đệ" 九月九日憶山東兄弟 Mồng 9 tháng 9 nhớ anh em ở Sơn Ðông của Vương Duy [ÐT] tr. 420.
Tài sản của A Lìn

Trả Lời Với Trích Dẫn