Thái Sơn (*) ngày xưa còn có tên là Đại Sơn, thế núi hùng vĩ tráng lệ, khí thế bàng bạc, được xem là cột chống trời cho cả một lục địa Hoa Hạ rộng lớn ở phương đông. Dãy núi Thái Sơn do tất cả một trăm năm mươi sáu đỉnh núi hợp thành.
Riêng phần trung tâm có ba mươi tám đỉnh, bảy mươi hai hang động, bảy mươi hai khối kỳ thạch và ba mươi hai sơn cốc. Ngoài ra phải kể thêm sáu mươi tư thác nước, bảy mươi hai con suối nổi tiếng, Cổ thụ phải lên đến hơn vạn gốc. Trong quần núi Thái Sơn thì Ngọc Hoàng Phong là đỉnh núi trung tâm, các đỉnh núi khác phân bố từ ngọn núi trung tâm này ra xa hơn.
Những ngọn núi của dãy núi Thái Sơn đều cao vút đến tận chân mây, mà trong đó đỉnh Ngọc Hoàng là là nơi cao nhất trong quần núi Thái Sơn. Từ trên đỉnh núi Ngọc Hoàng người ta có thể thấy bốn kỳ quan lớn của thiên nhiên : Cảnh mặt trời ló dạng ở phương đông khi bình minh, ánh nắng chiều rơi rớt lúc hoàng hôn, sông Hoàng Hà như một dải lụa bằng vàng uống khúc qua những thung lũng xanh ngát, biển mây mênh mông như cái mâm bằng ngọc phủ xuống nhân gian. Cây cối ở Thái Sơn lại càng nguy nga sừng sững, rừng cây trải dài một màu xanh ngát, xen lẫn đâu đó là những khe suối tạo nên một pong cảnh thiên nhiên mỹ lệ mênh mang đến tận chân trời. Mây mù sà xuống làm khung cảnh trở nên mờ ảo, tạo thành một dãy núi thâm ảo thần bí. Khu vực ở chân núi chính là những nơi đẹp nhất ở Thái Sơn, nơi yên tĩnh nhất là những sơn cốc tịch mịch, nơi thoáng đãng nhất là những vùng đồng bằng trống trải, có những nơi mờ ảo như tiên cảnh, lại có những chỗ âm u nơi vực sâu. Lại có thạch ổ tùng đào, đối tùng tuyệt kỳ, đào viên tinh xá, linh nham thắng cảnh tất cả chính là mười đại thắng cảnh nổi tiếng, được tôn là đứng đầu Ngũ Nhạc(**)
Thủy tổ hoàng đế của Hoa Hạ là Hiên Viên hoàng đế cùng Viêm Hoàng đã từng cúng tế trời đất tại nơi này. Con cháu dân Hoa Hạ cũng xem việc lên đỉnh Thái Sơn là một giấc mơ mà ai cũng muốn được thực hiện một lần trong đời. Các bậc đế vương chính tại nơi đây cúng tế trời đất, văn nhân thi sĩ cũng ở nơi đây đề thơ viết chữ, các hiệp khách chí sĩ cũng lưu lại đây những câu chuyện hào hùng. Thái Sơn vì vậy cũng được coi là nơi tượng trưng cho tinh thần của dân tộc Trung Hoa, là hình ảnh hùng vĩ của lịch sử và nền văn hóa Hoa Hạ.
Kỳ thật Thái Sơn cũng là trọng địa của Phật, Đạo lưỡng giáo. Cho đến một ngàn năm trước Đổng Uyên Minh đứng lên thay mặt các học giả uyên thâm của Nho giáo mà khai tông lập phái, sáng lập nên Thần Kiếm Môn.
Đổng Uyên Minh có thể nói là một vị nhất đại thiên kiêu, ngay từ nhỏ đã bộc lộ trí tuệ tuyệt vời, tám tuổi có thể xuất khẩu thành thơ, được thế gian bấy giờ xưng tụng là thần đồng. Đến năm mười tám tuổi đã có thể xưng là học giả uyên bác, dương danh thiên hạ.
Vào năm hai mươi tám tuổi lên Thái Sơn khiêu chiến với nho sĩ trên khắp thiên hạ, biện luận suốt bảy ngày bảy đêm làm cho nho sĩ khắp thiên hạ đều phải kính phục. Cảm thán trước thế gian vốn không thể có sự bình yên vĩnh cửu, trong lúc uất ức đi du sơn ngoạn thủy thì gặp bọn sơn tặc chặng đường. Một vị kiếm hiệp đã ra tay cứu giúp, từ đó Đổng Minh Uyên tập trung tinh thần nghiên cứu võ đạo.
Đến năm ba mươi tám tuổi từ kinh điển của Nho gia (Kinh Dịch) mà ngộ ra võ học kinh điển (Đại Thanh Minh Dịch Kinh). Tự mình nghĩ ra tuyệt thế kiếm pháp (Thiên Nhân Cửu Kiếm) từ đó hành tẩu giang hồ không có địch thủ, được thiên hạ xưng danh là thần kiếm.
Vào năm bốn mươi tám tuổi tìm được thanh thần kiếm lưu truyền từ thời thượng cổ là “Trạm Lô”, tại Thái Sơn khai tông lập phái, thu nhận môn đồ sáng lập nên Thần Kiếm Môn.
Năm năm mươi tám tuổi tự mình rèn kiếm, rèn được vô số bảo kiếm, sáng lập Chú Kiếm Chi, từ đó Thần Kiếm Môn, Chú Kiếm Chi vang danh thiên hạ.
Một ngàn năm trôi qua, Thần Kiếm Môn tuy có lúc chìm nổi, nhưng uy danh không hề mai một, đặc biệt vào hai trăm năm trước, lúc Huyết Ma xuất thế, Thần Kiếm Môn nhân tài cường thịnh, hơn nữa Chú Kiếm Chi lại xuất hiện một vị đại sư rèn kiếm tài nghệ tuyệt đỉnh là Phong Dã Tử. Vị đại sư rèn kiếm này vốn tên gì thì người trong thiên hạ không biết, nhưng vì lập chí sẽ vượt qua trình độ của đại sư rèn kiếm nổi danh thời cổ đại là Âu Dã Tử nên lấy tên là Phong Dã Tử. Lão dốc hết tâm huyết trong vòng mười năm rèn được một cây bảo kiếm vang danh thiên hạ tên là “Phong Thiên”. Công sức của lão cuối cùng cũng được đền đáp, Phong Thiên kiếm đã vượt qua Thuần Quân kiếm do Âu Dã Tử rèn, trở thành thanh thần binh hàng thứ sáu trong mười cây thần binh đương thế. Thành ra Thần Kiếm Môn sở hữu đến hai tuyệt thế thần kiếm, quả là không hổ với danh xưng Thần Kiếm Môn.
Theo truyền thuyết Huyết Ma xuất thế có quan hệ rất lớn với Thần Kiếm Môn, nhưng chuyện đã xảy ra từ rất lâu, Thần Kiếm Môn lại cố ý phong bế tin tức có liên quan đến chuyện này, nên bây giờ cũng không còn mấy người biết nữa. Chuyện xảy ra đã là hai trăm năm trước, đến nay thiên hạ đã trải qua hai trường Huyết Ma đại chiến.
Hai trăm năm trước, khi Huyết Ma cầm Huyết Kiếm xuất thế thì trên Hoa Hạ đại địa phong vân biến sắc, người người lâm nguy. Điểm đặc biệt nguy hiểm của Huyết Ma là hắn có thể làm cho ma tính trong mỗi người đại phát mà tự tàn sát lẫn nhau. Chỉ trong một thời gian ngắn, khắp nơi trên Hoa Hạ đại địa máu tươi chảy thành sông, xương cốt chất thành núi, sinh linh đồ thán … Cuối cùng các ạnh hùng hiệp nghĩa trong thiên hạ vứt bỏ hiềm khích trước kia, cùng nhau tụ hội ở Phiêu Miễu Phong. Thái Sơn Thần Kiếm Môn xuất ra hai thanh thần kiếm là Trạm Lô và Phong Thiên cùng với Hiên Viên thần kiếm của Hiên Viên Môn, Thái A kiếm của Mặc Gia Cực Quang Cốc, Thuần Quân kiếm của Đạo Gia Đại Thượng Thanh Cung hợp thành ngũ đại thần binh lại có thêm thánh vật của phái Nga My là Xá Lợi Tử trợ uy. Sáu đại thần binh triệu hoán ngũ đại thần thú là Hoàng Long, Chu Tước, Thanh Long, Bạch Hổ, Huyền Vũ hợp lực bao vây tiêu diệt Huyết Ma. Những người chứng kiến cuộc đại chiến này đến nay đã không còn ai sống sót trên cõi đời, nhưng theo truyền thuyết kể lại hai bên đánh nhau đến trời đất tối sầm, nhật nguyệt lu mờ, đến lúc tối hậu Huyết Ma bị một chiêu hợp kích của lục đại thần vật là Hạo Nhiên Chánh Khí chém chết trên lăng mộ Vu Hoàng Đế. Thanh kiếm của Huyết Ma là Huyết Kiếm từ không trung rơi xuống, từ đó mất tích. Chánh đạo giành chiến thắng hoàn toàn trong cuộc chiến kinh thiên động địa này.
Một trăm năm trước, Huyết Ma nguyên thần bất diệt lại lần nữa xuất thế. Nhưng lần này Huyết Ma không có Huyết Kiếm tương trợ, chánh đạo nhân cơ hội Huyết Ma nguyên thần còn bất ổn, phát động tấn công giết chết được Huyết Ma ở Huyết Ma động trên Vô Vọng Phong. Vì vậy thiên hạ thoát được một trận hạo kiếp. Theo truyện kể lại, trong trận chiến ở Vô Vọng Phong, Thánh Nữ của Hiên Viên Môn là Ôn Trác Dật dùng Hiên Viên thần kiếm chỉ một chiêu lấy đầu Huyết Ma tạo thành một giai thoại được lưu truyền rộng rãi trong giang hồ.
Một ngàn năm đã trôi qua từ ngày khai sơn lập phái nhưng Thần Kiếm Môn vẫn là môn phái độc nhất vô nhị trên giang hồ. Truyền thuyết kể lại có tất cả mười tuyệt thế thần binh, trong đó bốn đại thần binh đã thất lạc từ lâu, hiện nay chỉ còn sáu đại thần binh thì Thần Kiếm Môn đã chiếm hai, danh tiếng thực là có một không hai. Thái Sơn Thần Kiếm Môn cùng với Phiêu Miễu Phong Hiên Viên Môn, Nga My phái, Đại Thượng Thanh Cung, Cực Quang Cốc được xưng là năm môn phái lớn của chánh đạo.
Hiên Viên Môn trên Phiêu Miễu Phong là môn phái do Hiên Viên hoàng đế truyền lại, bảo vật trấn phái chính là Hiên Viên thần kiếm, đứng đầu trong thập đại thần binh. Trong hai đại chiến với Huyết Ma đều có sự đóng góp to lớn của đệ tử Hiên Viên Môn. Tại giang hồ Hiên Viên Môn mang uy danh cao vút, cũng được tôn là môn phái đứng đầu ngũ đại phái. Nhưng Hiên Viên Môn tuyển đồ đệ cực kỳ nghiêm khắc, môn hạ đệ tử rất ít. Cứ năm mươi năm một lần Hiên Viên Môn lại phái một đệ tử ra hành tẩu giang hồ, trừ ma vệ đạo. Trái lại Thái Sơn Thần Kiếm Môn đệ tử kiệt xuất rất đông, lại sở hữu hai đại thần binh trấn sơn, thật sự mới là thủ lĩnh phía sau của ngũ đại phái.
Đến đây xin lạc đề một chút kể về chuyện Thánh Nữ của Hiên Viên Môn. Hiên Viên Môn này cứ mỗi năm mươi năm lại xuất ra một đệ tử, không những võ công cao tuyệt, phẩm hạnh đoan trang mà dung mạo như thiên tiên, được thiên hạ tôn là chánh đạo Thánh Nữ. Mỗi lần Hiên Viên Môn Thánh Nữ xuất đạo là giang hồ lại như xuất hiện một đợt phong ba ào ạt, các công tử anh tuấn, tài cao của hắc bạch lưỡng đạo đều tìm đến quỳ lụy, trông mong ngày được tiếp kiến bóng hồng trong mộng,
Có thể được nhìn thấy một nụ cười của Thánh Nữ quả thực so với quang tông diệu tổ còn vinh diệu hơn gấp trăm lần. Có thể được đồng hành cùng Thánh Nữ so với việc giết được Huyết Ma còn làm người trong thiên hạ ngưỡng mộ hơn nhiều. Được ngồi uống rượu nói chuyện cùng Thánh Nữ thật là chết không hối tiếc. Còn nếu có thể cùng Thánh Nữ nói chuyện hôn nhân thì quả thực không phải là người. Bởi vì các đời Thánh Nữ đều phát tâm tu hành, nhất định làm bạn với Hiên Viên.
Mỗi lần Thánh Nữ xuất đạo thì các nam nhân có cùng độ tuổi trong giang hồ đều phấn đấu khổ luyện, đọc sách mong mỏi sẽ được lọt vào mắt xanh của mỹ nhân, ngạo thị thiên hạ đồng lứa. Mỗi khi Thánh Nữ xuất thế thì trên giang hồ lập tức lần lượt xuất hiện những thanh niên cùng độ tuổi có tài năng tuyệt thế. Điều này quả thực là sức mạnh của Thánh Nữ, sức mạnh của cái đẹp và là sức mạnh của chánh nghĩa tối cao trên thế gian.
Tuy nhiên khi Thánh Nữ xuất đạo cũng có nhiều ảnh hưởng phụ không tốt cho lắm. Ví như những đệ tử lớn tuổi hơn một chút đều có ý trách mắng cha mẹ bọn hắn đã không sinh hắn ra đúng năm. Chuyện này làm sao mà cha mẹ bọn hắn biết được chứ, thật là một bọn bất hiếu. Ngoài ra còn có bọn giang hồ đệ tử xấu xa thường bàn luận những đề tài đáng khinh bỉ (Ví như hôm nay nội y của Thánh Nữ màu gì, …) nếu bị nhân sĩ chính trực phát hiện thì đổ tội cho đồng môn huynh đệ, thật là mất hết nghĩa khí. Phàm là chuyện gì liên quan đến Thánh Nữ mà dẫn đến gây gổ đánh nhau thì cả hai bên đều nóng máu, xuất thủ rất nặng tay, không quan tâm đến thương thế của đối phương, thì đó đúng là bất nhân. Vì ngưỡng mộ danh tiếng của Thánh Nữ, rất nhiều đệ tử của hắc đạo từ bỏ Ma Môn, thực là lũ bất trung (Chuyện này đối với chánh đạo mà nói thì lại là chuyện tốt, có điều đệ tử chánh đạo vì Thánh Nữ mà rời bỏ môn phái của mình cũng không phải là không có)
Trên giang hồ xuất hiện một lũ bất trung, bất hiếu, bất nhân, bất nghĩa như thế quả thực là nàm ngoài ý tưởng của Thánh Nữ, thế nhưng bọn chúng cũng chỉ là tự chuốc lấy phiền nhiễu mà thôi.
(*) Thái Sơn tự cổ xưng là Đại Sơn, đến sau thời Xuân Thu thì đổi tên thành Thái Sơn, từ cổ chí kim đứng đầu trong Ngũ Nhạc, là một tấm bia vĩ đại của dân tộc Hoa Hạ. Cuốn sách này không theo chính sử, nói đến Thái Sơn không dùng tên khác.
(**) Thái Sơn đứng đầu Ngũ Nhạc là do theo truyền thuyết khai sinh Hoa Hạ lục địa. Trong truyền thuyết, Hoa Hạ Thủy Tổ là Bàn Cổ khai thiên tích địa mà tạo thành thế giới, sau khi xong việc, đầu biến thành Đông Nhạc Thái Sơn, bụng biến thành Trung Nhạc Tung Sơn, tay trái biến thành Nam Nhạc Hành Sơn, tay phải hóa thành Bắc Nhạc Hằng Sơn, hai chân cuối cùng hóa thành Tây Nhạc Hoa Sơn. Hai mắt trở thành ngày và đêm, lông biến thành cỏ cây, mồ hôi chảy thành sông suối. Vì đầu của Bàn Cổ hóa thành Thái Sơn nên được xưng là thiên hạ đệ nhất sơn địa vị chí cao vô thượng, đứng đầu trong Ngũ Nhạc.