Hoằng Trị nhìn thấy Tạ Thiên liền vui vẻ nói:
- Ái khanh tới thật đúng lúc, trẫm cũng đang muốn cho người tới Thái tử cung tìm ngươi.
Tạ Thiên gặp hai người Lưu Kiện, Lý Đông Dương ở đây cũng không khỏi ngạc nhiên nói:
- Bệ hạ, đã xảy ra đại sự gì sao?
Lưu Kiện ở một bên liền đem chuyện tiểu vương tử Bá Nhan Khả Hãn vừa mới lui bước, Hỏa Si lại tới cướp bóc, đem các tin tức kể lại, rồi lại đem ý kiến bất đồng của mấy người nói hết một lượt, Tạ Thiên nghe xong lắc đầu, hướng Hoằng Trị đế nói:
- Bệ hạ, binh giả, đó là hung khí thiên hạ; dũng giả, cũng là hung đức của thiên hạ. Hai loại người này đều không có cái đức mà quân vương nên có!
- Người Mông man rợ, lấy giết tróc làm mưu sinh. Nước ta là Thiên triều thượng quốc, nếu cũng theo như bọn người đó triển khai chiến tranh, tới lúc đó khó tránh khỏi trăm họ lầm than, ruộng đất bỏ hoang, cây bụi đua nhau mọc, như thế chẳng phải là vô nhân đạo sao?
- Hễ nghĩ tới Đại Minh ta là nghĩ tới nền văn minh của lễ nghĩa, chúng ta chẳng cần cướp đoạt của cải của bọn man di, cũng không cần bắt bọn chúng làm nô dịch, vậy hà tất phải xuất binh viễn chinh làm gì? Hôm nay thiên hạ yên bình, chính trị trong sạch, quốc thái dân an, sợ nhất chính là thiên tai, theo thần thấy chỉ cần gia tăng quân đội phòng thủ nghiêm ngặt ở phần biên giới, ngăn không cho bọn man di vào là được rồi.
- Hỏa Si đã theo đường nhỏ tập kích Duyên Khánh nghĩa là phòng tuyến biên giới đã có sơ hở, thần cho rằng nên củng cố trường thành của Duyên Khánh kéo dài nối liền cả tám ngọn núi, xây dựng thêm thành thị ở biên giới, cho thêm quân binh đóng tại các vùng biên tuyến, vậy thì việc lớn cũng thành rôi.
Hoằng Trị nghe xong ý kiến của hắn trong lòng cảm thấy không vui, binh sĩ là hung khí giết người? Không có cái hung khí giết người này, Đại Minh từ đâu mà có. Dũng giả không phải là đức của thiên hạ? Nhưng các triều đại hoàng đế khai quốc, ngay cả Thái Tổ, Thành Tổ có ai không dùng võ để bình thiên hạ, lẽ nào chỉ có các vị đế quân đời trước mới được dùng hay sao?
Thế nhưng lời của Tạ Thiên đều là lời thánh nhân để lại, ngay cả Hoằng trị thân là quân vương cũng không thể phản bác lại, trong thiên hạ, trong mắt người đọc sách lời của thánh nhân là khuôn vàng thước ngọc không thể thay đổi. Hắn rầu rĩ không vui nói:
- Thôi, trẫm đã tuyên Binh bộ Thương thư vào cung, tạm thời xem hắn có ý kiến gì không, lúc đó sẽ quyết định nên hành động như thế nào.
Chờ một lúc, bên ngoài Ngự thư phòng, một thanh âm già nua vang lên như tiếng chuông:
- Thần, Binh bộ Thượng Thư Lưu Đại Hạ, phụng chỉ tấn kiến.
Hoằng Trị nghe vậy vội vàng cho vào. Lưu Đại Hạ đã 70 tuổi, râu tóc bạc trắng, nhưng trông tinh thần quắc thước, lời nói, cử chỉ mạnh mẽ dứt khoát, vẻ mặt kiên nghị, rất có uy phong của một bậc võ giả. Triều vua Hoằng Trị có hai vị lão thần cũng tựa như thượng tướng quân rất trung thành, một vị là Lưu Đại Hạ, một vị là Vương Việt, đều là những củ gừng già.
Chức vị và tài nghệ của Vương Việt còn trên cả Lưu Đại Hạ, năm xưa từng làm chức Binh bộ Thượng thư, về sau cai quản ba vùng biên giới, lúc 70 tuổi đích thân mang binh viễn chinh, dưới chân núi Hạ Lan tập kích 10 doanh trại của Tiểu vương tử, lấy được vô số ngựa tốt dê béo cùng nhiều binh khí, trăm mưu ngàn kế đánh cho Tiểu vương tử nghe thấy phải chạy xa, luận công lao tấn lên đến chức Thiếu Bảo. Một người nắm trong tay quân binh của cả ba vùng biên giới, cả Đại Minh sau này cũng chỉ có mình hắn.
Đáng tiếc chính lúc đó lại có lời đồn về chuyện trường sinh bất lão, triều chính do hoạn quan Lý Nghiễm nắm quyền, Vương Việt biết mình là tướng viễn chinh, đánh Thát Đát ở xa ngàn dặm, không khỏi lo sợ có người ở phía sau cản trở, chỉ cần lương thảo không kịp, hậu cần gián đoạn, hắn sẽ rơi vào cục diện bị cô lập.
Để được Lý Nghiễm ủng hộ, không để viễn chinh rơi vào cảnh khó khăn, Vương Việt phái người hối lộ lấy lòng Lý Nghiễm, mang chiến công chia cho hắn một phần, Lý Nghiễm được chỗ tốt, lại có công lao đến tay, từ đó mới hết lòng hướng về Hoàng Đế cùng các quan trong triều ủng hộ hắn.
Nhưng là, khi Lý Nghiễm bệnh chết, lục xoát nhà hắn mới thấy vô số tài bảo, châu báu nhiều không kể xiết, lúc đó tất cả vây cánh của Lý Nghiễm mới bị tan rã sụp đổ. Vương Việt cũng không thoát khỏi, rất nhiều văn kiện đều chứng minh rằng hắn và Lý Nghiễm có quan hệ mật thiết. Quan ngự sử đã kết tội hắn cũng là một tên đại gian thần.
Trong mắt rất nhiều người đọc sách, một khi bọn hoạn quan lên nắm quyền thì chúng chỉ lo cho lợi ích bản thân, đây đều là lời thánh nhân mà bọn họ lúc nào cũng tin tưởng tuyệt đối, dù là vô tư giao tiếp hay có mục đích cũng đều không thể được. Huống hồ bây giờ mặc cho ngươi có mười cái miệng giải thích, cũng chẳng có ai biết lúc trước ngươi đã nghĩ cái gì? Ngươi không phải luôn miệng nói ta không vào địa ngục thì ai vào sao? Vậy bây giờ ngươi vào địa ngục được rồi?
Vương Việt mang quân rong ruổi ngàn dặm thế như trẻ tre, lấy 70 tuổi mà đánh cho thiết kỵ Mông Cổ tả tơi rơi rụng, kết quả lại không có đất chôn thân, cuối cùng bị đám quan của Đốc Sát viện quy cho một bè, mắng cho tới uất ức mà chết.
Lưu Đại Hạ là trọng thần trong triều, trước sau phụ tá Anh, Hiến, Hiếu ba vị Hoàng Đế, là nguyên lão tam triều đức cao vọng trọng, một thân làm việc dũng cảm, sở trường thống lĩnh quân đội, đủ cả công chính vô tư, đó là lý do vì sao ba người Lưu Kiện luôn xem thường mấy vị võ tướng, nhưng đối với vị này lại có vài phần tôn kính
Lưu Đại Hạ nhìn tấu chương quân tình, liền trầm ngâm cả nửa ngày, lắc đầu nói:
- Bệ hạ, thần cũng cho rằng … nên canh phòng cẩn thận, không nên đánh ở biên giới xa xôi.
Lưu Kiện, Tạ Thiên, Lý Đông Dương nghe vậy cũng nhẹ nhõm thở ra. Miêu Quỳ ngửa mặt nhìn trời, cực kỳ phẫn nộ, hắn tất nhiên biết Lưu Đại Hạ nói vậy đa phần là vì việc công, nhưng bên trong vị tất không có một chút tư tâm, Lưu Đại Hại cùng hoạn quan đấu nhau nhiều năm, coi hoạn quan đều như rắn rết bọ cạp, chỉ cần là ý kiến của hoạn quan thì bất kể đúng sai, trong lòng đều có ba phần phòng bị.
Năm xưa, Trịnh công công bảy lần tiến Tây Dương, thế lực hoạn quan rất ủng hộ, Lưu Đại Hạ lại cho rằng viễn dương phải điều động binh lực rất lớn của quốc gia mà không có chút ích lợi nào, hắn càng sợ hoạn quan trong triều mượn việc này mà phát triển thế lực sẽ là tai họa của triều đình, bởi vậy Anh Tông vừa muốn viễn dương, hắn đã liền hết sức tìm mọi cách ngăn cản, nghe nói công cụ đi biển của Trịnh công công đều bị hủy trong tay người này.
Năm Thành Hóa thứ 17, nước An Nam đánh Lào thất bại, Lúc ấy Uông công công muốn thừa cơ thu phục nước Nam, không nghe theo chính sách của Đại Minh đối với An Nam, yêu cầu Bộ binh đưa ra bản đồ An Nam.
Lưu Đại Hạ cho rằng nếu chiến tranh nổ ra, thua thì tổn thất to lớn, thắng thì bọn hoạn quan lại được thế, bởi vậy liền đem bản đồ An Nam giấu kín không chịu đưa ra. Chính sách bế quan tỏa cảng của hắn được rất nhiều sĩ phu trong thiên hạ tán đồng, vì vậy Uông công công quyền nghiêng triều chính, cũng hoàn toàn không có biện pháp với hắn.
“Hắn làm như vậy không phải là sợ hoạn quan chúng ta sẽ đắc thế sao?”
Miêu Quỳ nghĩ vậy lạnh lùng liếc hắn một cái, trong mắt vô vàn hận ý. Nhưng Lưu Đại Hạ là thần tử rất được Hoàng Thượng sủng ái, hắn trị thủy Hoàng Hà, thanh trừng thổ phỉ phản quốc, giám sát binh quyền, làm quan thanh liêm, trong triều và ngoài thiên hạ, già trẻ tốt xấu không ai không ca ngợi hắn, Miêu Quỳ tuy được sủng ái nhưng cũng không dám khinh thường danh tiếng này của hắn.
Hoằng Trị nghe ý kiến của vị kiêu thần này, trong lòng càng không khỏi thất vọng, hắn ấm ức nói:
- Năm xưa Thái Tổ, Thành Tổ mấy lần viễn chinh, đánh cho quân Mông tơi bời, khiến bọn chúng về sau thấy cờ xí Đại Minh liền phóng ngựa chạy xa, quân ta hiện nay muốn tìm một trận đánh lập uy cũng khó, hà cớ vì sao bây giờ không đánh?
Lưu Đại Hạ chắp tay nói:
- Bệ hạ uy phong thần vũ không kém gì Thái Tổ, Thành Tổ, có điều hiện nay binh mã tướng sĩ không thể bằng lúc trước. Huống chi ngày ấy cứ động một tý là mang mười vạn hùng binh ra sa mạc, mà hiện giờ quân ta giỏi thủ không giỏi công, chiến sự không thể coi thường, kế sánh ngày nay lấy thủ làm thượng sách, chiến chỉ là hạ sách.
Bọn Lưu Kiện ba vị đại học sĩ mỉm cười biểu thị tán thành. Hoằng Trị bùi ngùi than thở:
- Ái khanh hiểu rõ việc quân, ái khanh nói như thế tất có đạo lý của mình, nếu không phải ái khanh nói lời can gián, trẫm nhất thời xúc động, suýt nữa làm hỏng đại sự rồi.
Lưu Kiện cúi đầu nói:
- Bệ hạ chịu nghe lời can gián như vậy, đúng là bậc minh quân.
Hoằng Trị cười khổ khoát tay nói:
- Theo ái khanh thấy trẫm nên xử lý việc này ra sao?
Lưu Đại Hạ có chút suy tư nói:
- Ba vị đại học sĩ nói rất có lý, thần cũng cho rằng bây giờ nên ra lệnh cho các tướng trấn thủ biên giới nghe ngóng tình hình địch quân, gia tăng phòng ngự, lấy chính sách thủ làm đầu. Ngoài ra ở Duyên Khánh thì trấn thủ tại chỗ tám ngọn núi liền nhau, tu sửa lại trường thành, xây dựng thêm các cửa ải ngăn địch. Đồng thời đóng trọng binh tại các vùng lân cận, ở cửa thành lấy Bắc Sơn làm đường giao thông liên lạc, trên các thông đạo quan trọng xây dựng bệ đốt để nổi khói lửa báo động, nếu cứ theo vậy thi hành nhất định phòng thủ như vách sắt thành đồng, kinh thành vững như bàn thạch.
Hoằng Trị chậm rãi ngồi xuống long ỷ, gật đầu nói:
- Cứ làm theo ý của ái khanh, ba vị đại học sĩ thay ta viết thánh chỉ.
- Tuân mệnh, chúng thần xin cáo lui.
Hoằng Trị khoát khoát tay, nhìn mấy vị trọng thần nối nhau đi ra, buồn bực nghĩ:
“Tiểu vương tử đêm giao thừa tập kích vùng biên giới, ba lộ đại quân của ta nháy mắt đã giành lại phần đất đai bị mất, ta khó mà có thể viễn chinh biên giới, cứ như vậy chẳng phải mãnh hổ biến thành con mèo sao? Ai, có lẽ bọn họ nói đúng, thành tựu văn hóa giáo dục, quân công một nửa do sức người, một nửa là do ý trời, gây dựng sự nghiệp đã gian nan, giữ gìn sự nghiệp cũng khó khăn không kém…”
*****
Thái y quả nhiên không dám xem thường cho là Thái tử không có bệnh, lại càng không dám tùy tiện dùng thuốc, liền tùy ý cho Thái tử vài đơn thuốc an thần, dặn Thái tử cố gắng nghỉ ngơi rồi lui xuống. Dương Lăng mỉm cười hướng Thái tử nói:
- Điện hạ, sáng sớm mai cứ y như kế hoạch mà hành sự, vi thần cáo lui trước.
- Hảo, sáng sớm mai ngươi ở ngoài cửa cung chờ ta.
Chu Hậu Chiếu không để tâm phất phất tay. Hắn đêm qua xem một nửa vở kịch của La Tường, Cao Phượng, hiện tại có chút nghiện, Tạ đại học sĩ đi rồi, hắn liền gọi bọn họ đến diễn tiếp.
Dương Lăng đem thần sắc của hắn thu vào trong mắt, mặt không đổi sắc cúi đầu thi lễ, vừa hướng về bên cạnh Cốc Đại Dụng gật đầu tỏ ý chào, rồi chậm rãi lui ra ngoài. Hai ngày nay gặp gỡ, hắn cũng không thấy đám người gọi là Bát Hổ này có dã tâm chính trị gì, nhưng bọn họ lựa ý hùa theo Thái tử, tìm mọi cách làm hắn vui vẻ, dù có như thế nào cũng không thể tránh khỏi phải tiến bước theo huớng đi này.
Hiện giờ hắn và Thái tử mới kết giao, Bát Hổ lại chăm sóc từ bé, nhìn Chu Hậu Chiếu lớn lên, luận về cảm tình tuyệt đối không thể bằng bọn chúng, nếu Bát Hổ biết tâm tư mình như thế hẳn bọn chúng không khỏi sinh lòng cảnh giác, bọn chúng mà ở trước mặt Thái tử nói xấu vài câu, cái công việc này của mình cũng không cần phải làm nữa. Huống hồ Thái tử đang lúc thiếu niên tâm lý phải trái còn chưa rõ, nếu mình cũng bắt chước bọn trung thần liều mình can gián, sợ rằng còn bị phản tác dụng.
Dương Lăng nét mặt không dám có ý không vui, hắn chỉ hy vọng bằng nỗ lực của mình làm cho mọi việc hướng theo dòng chảy lịch sử từ trên người vị hoàng đế hoang đàng này, có thể cùng lịch sử có chút bất đồng, chỉ là … tuy nói thời kỳ niên thiếu là thời kỳ dễ uốn nắn nhất, nhưng …vẻn vẹn chỉ có thời gian hai năm, ai, thời gian không đợi người, ta cũng chỉ biết cố hết sức mà thôi.
*****
Trên đường quốc lộ, một bình dân áo vải tóc tai bù xù cưỡi trên con ngựa gầy yếu. Hà tham tướng dọc đường hỏi thăm cuối cùng cũng tìm được nhà Dương Lăng
Hắn bị áp giải vào đại lao Hình bộ, tính đến nay đã qua nửa tháng, đến lúc này hắn mới được phóng thích, bị giáng xuống làm Phó Thiên tổng, mấy ngày nữa đi tới nơi Quảng Tây xa xôi nhậm chức.
Hơn nửa tháng này, hắn cũng đã trải nghiệm nhân tình thế thái, cũng biết cái gì là lòng người dễ đổi. Năm xưa trên quan trường hắn cũng có không ít bạn bè thâm giao, thế nhưng không có lấy một người có dũng khí đứng ra thay hắn nói một lời công đạo.
Trong nhà biết tin, tam đệ của hắn đã mang theo rất nhiều vàng bạc vào kinh đút lót, nhưng là vụ án này do đích thân Hoàng Thượng truyền lệnh xuống, lại dây dưa tới Binh bộ, Công bộ, Hộ bộ, Ngũ Quân Đô Đốc phủ, toàn bộ đều liên quan trong đó, lúc này tránh còn không kịp, có ai tình nguyện lao vào cái mớ hỗn loạn này chứ? Lúc này, thậm chí chỉ muốn tìm một lý do để giảm tội còn không nổi.
Lão mẫu ở nhà năm nay gần 70 tuổi vừa nghe hắn bị tội vào đại lao đã quá lo âu mà ngã bệnh, hiện giờ bệnh tình ngày càng nghiêm trọng, trong nhà ngay cả áo quan cũng đã chuẩn bị, lòng lại càng như lửa đốt, bi phẫn đau thương muốn chết.
Giám quân Diệp ngự sử là quan văn, hơn nữa đã chết trên chiến trường, không ai mạo hiểm thân bại danh liệt, mang tiếng đê tiện để vạch tội một người đọc sách đã chết trên sa trường, huống hồ hắn còn có nhiều người cầm bút hò reo ủng hộ.
Mà vị quan đại nội Lưu công công kia là tâm phúc của Thái tử, tuy rằng bây giờ không có quyền thế, nhưng lại được Thái tử nể trọng, hơn nữa còn được Hoàng Thượng khâm điển làm nội quan giám quân, chỉ trích hắn không phải là bảo Hoàng Thượng hồ đồ sao, bởi vậy lại càng không có ai dám vạch tội hắn, đến lúc này mọi tội danh đều do Hà tham tướng gánh chịu.
Hà tham tướng trước kia cho rằng chỉ nhiều lắm là nói hắn tham công liều lĩnh, hành động có chỗ sai lầm, cùng lắm là mất chức, về sau hắn thấy quan cai ngục đầu tiên còn có chút thiện ý, sau càng ngày càng lạnh nhạt, người thân muốn vào gặp cũng không cho, tam đệ của hắn đút lót quan cai ngục mới len lén gặp được hắn, hắn mới biết nửa số quan viên trong triều đều bị cuốn vào trong quá trình điều tra vụ việc này.
Hà tham tướng nhất thời chán nản, hắn ở trong quan trường nhiều năm, làm sao lại không biết quy củ quan trường? Chuyện này nếu huyên náo như vậy, nghị tội không tránh khỏi cái kết cục chết thảm, muốn giải quyết việc này, tám chín phần mười sẽ dùng hắn khai đao, như vậy mọi chuyện mới yên ổn.
Hà tham tướng rưng rưng nghẹn ngào dặn tam đệ không cần ở lại kinh thành đút lót hao phí tiền bạc, mau về chiếu cố lão mẫu, buồn bã bảo hắn chuẩn bị một cỗ quan tài, nói:
- Mẹ già đau ốm ở nhà, ta thân là trưởng tử lại không ở trước mặt người tận hiếu, chỉ có thể phụng dưỡng người dưới suối vàng mà thôi.
Tam đệ rơi nước mắt chia tay, từ đó Hà tham tướng một lòng chờ chết, đã nhiều ngày làm mái tóc đen trở thành hoa râm. Hôm nay Cẩm y vệ mang theo thánh chỉ tới, nghĩ mình cũng đến ngày chết, không ngờ lại nghe được chiếu chỉ xá tội, ra khỏi đại lao.
Hà tham tướng vừa mừng vừa sợ, liền hướng Cẩm y vệ hỏi thăm mới biết dịch thừa Dương Lăng vào kinh làm Thái tử Thị độc, không để ý cái chức dịch thừa nho nhỏ của mình, công nhiên trượng nghĩa liều chết can gián, trước mặt Hoàng Thượng biện giải cho hắn, do đó mới xin được thiên ân.
Tuy nói Bộ binh giáng xuống làm Phó Thiên tổng, phải tới Quảng Tây xa xôi, nhưng so với tâm lý phải chết không nghi ngờ trước kia, thì đã là một kết cục không thể tốt hơn.
Đường dài mới biết sức ngựa, ở lâu mới biết lòng người. Hiện tại trong lòng Hà tham tướng, Dương Lăng như sinh ra hắn lần nữa, một võ tướng như hắn, cố nhiên còn nhiều khuyết điểm, tật xấu, nhưng việc ngay thẳng trung nghĩa, có ân tất báo chính là tín niệm của hắn, phẩm hạnh đó từ bé đã ăn sâu vào con người hắn.
Hà tham tướng đến Quảng Tây nhậm chức cũng không vội, nhưng ở nhà lão mẫu bệnh tình nguy kịch, nếu lúc sắp chết hắn không về gặp được thì sẽ ăn năn suốt đời, vì vậy lòng hắn đang rất muốn về nhà, tiếp nhận công văn bổ nhiệm của Bộ binh xong, hắn lập tức tìm đến Dương phủ để lạy ân nhân một lạy rồi mới hồi hương.
Hà tham tướng đi tới trước cửa nhà Dương Lăng, thấy chiếc khóa đồng khoá trên cửa ngoài, Hà tham tướng không khỏi ngẩn ra, nghe Cẩm y vệ nói Dương Thị độc vào kinh có phu nhân hắn đi cùng, vì sao trong nhà lại không có ai?
Trong ngõ có một cửa hàng dựng dưới gốc táo lớn bán lót hài, khăn thêu có bán cả hạt dưa, ông già bán quán nhìn thấy hắn liền cất giọng hỏi:
- Này, ngài là ai? Là khách nhân của Dương Thị độc Dương đại nhân phải không?
Hà tham tướng dắt ngựa tới, ôm quyền nói:
- Đúng vậy, lão ca biết Dương gia sao? Người của Dương phủ hiện giờ đang ở đâu?
Lão chủ quán dương dương tự đắc nói:
- Biết chứ, thế nào lại không biết? Nhà của ta ở ngay cạnh Dương gia, Dương đại nhân là Thị độc của Thái tử gia, cũng là cận thần bên cạnh Hoàng Thượng, hàng ngày đều vào trong cung, ta thế nào lại không biết?
- Ta phải cố ý thức dậy thật sớm mới có thể thấy bộ dáng Dương đại nhân vào cung, chậc chậc, thiên tử ta không thấy được, nhưng người bên cạnh Thái tử ta cũng muốn biết dáng dấp thế nào? Nghe người ta nói, hoàng đế là chân long, là tinh quân hạ phàm …
Hà tham tướng nhíu nhíu mày:
“Thiên hạ sao lại có người lắm chuyện vậy? Cứ để hắn nói một lúc nữa không biết sẽ nói tới đâu!”
Hà tham tướng liền cắt lời tiểu lão nhi:
- Như vậy xin hỏi người của Dương phủ hiện nay ở đâu?
Lão đầu bị cắt lời tỏ ra không vui, liền khoát tay nói:
- Dương đại nhân đương nhiên là ở trong cung Thái tử, sao còn phải hỏi? Dương phu nhân đang trên đường phố mua thức ăn, Dương đại nhân là người bên cạnh Thái tử gia vậy mà thật thanh liêm, ngay cả kiệu cũng không mướn, hàng ngày vẫn là đi bộ tới Tử Cấm thành, Dương phu nhân lại là người vợ hiền lành đảm đang, xinh đẹp như hoa như ngọc, thật xứng đôi với Dương đại nhân khôi ngô anh tuấn ………..
Hà tham tướng thi lễ nói:
- Đa tạ lão ca.
Hắn xoay người bước tới trước cửa nhà Dương lăng, đứng lặng một lát, bỗng quỳ hai gối xuống đất, mái đầu lộ ra đằng sau bụi cây.
Trong quán, lão chủ quán mở to mắt nhìn, chỉ thấy mái đầu tóc đã hoa râm, hán tử thân hình xấu đen, râu ria rối bù, cung kính dập đầu ba cái, sau đó lên ngựa, quất roi phóng đi.
Lão đầu cả nửa ngày sau mới tỉnh lại, há mồm đến rớt cả răng, trăm ngàn khả năng cố sự nổi lên trong sự tưởng tượng phong phú của hắn.