Chương 8
Nhật ký của Mina Murray
11 giờ tối cùng ngày
Thật là buồn cười, người mệt nhoài sau cuộc đi dạo lại chính là tôi! Nếu không có thói quen viết nhật ký, thì chắc là đêm nay tôi sẽ chẳng viết gì cả. Chúng tôi đã có một cuộc đi dạo khá thú vị. Lucy có vẻ thanh thản hơn, cô cười rất thích thú về sự tò mò của những chú bò khi chúng lững thững đi lại gần hàng rào ngây ngô nhìn chúng tôi đi qua - điều này dường như đã làm cho cả hai chúng tôi quên đi mọi suy nghĩ phiền muộn nhất. Xuống tới vịnh Robin Hood, trong một quán nước cổ nhỏ nhỏ, nơi khách khứa có thể ngồi trông ra những mỏm đá phủ đầy tảo lục, chủ quán đã cho chúng tôi một bữa trà tuyệt hảo. Chắc chắn các mẹ, các chị vẫn tự xưng là “phụ nữ thời thượng sẽ cảm thấy bị sốc khi thấy chúng tôi thưởng thức một cách ngon lành đến thế. Còn giới mày râu, ơn Chúa, bao giờ họ cũng tỏ ra rộng lượng hơn! Sau đó chúng tôi tiếp tục trở về, nhưng thỉnh thoảng cũng dừng lại nghỉ một chút cho đỡ mỏi. Về tới khách sạn, Lucy kêu rất mệt, vì vậy chúng tôi định lên phòng nằm ngay. Song có vị phó linh mục trẻ vừa đến thăm, và bà Westenra đã mời ông nán lại ăn tối cùng với chúng tôi: Tôi thấy không được vui ... Lucy vẫn bình yên. Gương mặt cô trông thật dễ thương với đôi má ửng hồng. Nếu như Holmwood cảm thấy yêu cô lần đầu tiên sau cái nhìn đầu tiên trong phòng khách, thì tôi không hiểu anh ta sẽ có những cảm giác như thế nào khi được thấy cô trong giấc ngủ như đêm nay! Có lẽ một số “phụ nữ thời thượng” làm nghề viết lách sẽ nghĩ ngay ra một thứ mốt mới: họ sẽ gợi ý cho các nam thanh nữ tú, trước khi cưới nhau, phải tới ngắm nhau trong giấc ngủ! Nhưng tôi thì tôi cho rằng từ nay về sau, người “phụ nữ thời thượng” sẽ không còn bằng lòng với cái vai trò chỉ được phép nhận lời dạm ngõ của một người đàn ông nào đó nữa, mà có khi chính cô ta sẽ làm cái việc đó, làm hoàn hảo là đằng khác. Đó chỉ là một niềm an ủi...Tôi sẽ vui biết nhường nào nếu được thấy Lucy khỏe mạnh hơn. ,Tôi thực sự tin rằng cô đã vượt qua cái lúc nguy kịch nhất, và đêm nay cô sẽ có một giấc ngủ thật an lành: Còn tôi, tôi sẽ có một niềm vui trọn vẹn nếu biết rằng Jonatha... Cầu Chúa hãy ban phước lành và che che chở anh!...
* * * * *
Ngày 11 tháng 8, 3 giờ sáng
Tôi lại tiếp tục những dòng nhật ký sau khi không thể ngủ được nữa. Làm sao tôi có thể ngủ dược sau cuộc phiêu lưu đáng sợ ấy chứ?... Thú thực là lúc trước tôi cũng có ngủ được một giấc ngay sau khi gấp cuốn sổ lại. Tuy nhiên, tôi đã giật mình tỉnh đậy, người ướt đẫm mồ hôi, mà không hiểu tại sao. Tôi có cảm giác như đang ở trong phòng có một mình; căn phòng tối quá, tối đến nỗi tôi không thể nhìn thấy chiếc giường của Lucy.. Phải tới lúc ren rén bước lại gần, tôi mới nhận ra rằng chiếc giường trống không.- Lucy không còn ở đó nữa! Tôi đánh diêm soi: cô ấy không có ở trong phòng! Cánh cửa vẫn khép kín nhưng không khóa, tôi nhìn rất rõ mình đã vặn ổ khóa một vòng trước khi đi ngủ. Vậy là Lucy đã bỏ ra ngoài. Không muốn làm phiền giấc ngủ nhọc nhằn của bà Westenra, tôi vội vàng khoác thêm áo và chạy vội đi tìm con gái bà. Lúc ra khỏi phòng, tôi nghĩ bộ quần áo Lucy khoác lên người lúc bỏ ra ngoài có thể gợi cho tôi thấy mục đích mà cô đã dự định trong lúc mê ngủ. Nếu như cô mặc bộ váy ngủ thì có thể cô vẫn loanh quanh ở trong nhà, còn nếu như mặc áo dài, có nghĩa là cô đã đi ra ngoài. Nhưng bợ váy ngủ cũng như tất cả các loại áo váy của cô vẫn còn ở trong phòng. “Ơn Chúa!” – Tôi thầm nghĩ - “cô nàng không thể bỏ đi xa giữa đêm hôm như thế này nếu như chỉ khoác lên người chiếc áo ngủ!” Tôi lao xuống cầu thang vào phòng khách. Lucy không có ở đó. Tôi chạy xộc vào tất cả các phòng còn lại trong tâm trạng mỗi lúc một lo lắng hơn. Cuối cùng, tôi chạy tới cửa ra vào và chột dạ nhận thấy hai cánh cửa mở toang. Khi nhớ bình thường tối nào cánh cửa này cũng được khóa cẩn thận, tôi bắt đầu cảm thấy sợ rằng Lucy đã bỏ ra ngoài với độc một chiếc áo ngủ trên người. Nhưng tôi không thể mất thời gian vào cái việc nghĩ xem điều gì có thể xảy ra: một cảm giác lo sợ mồ hồ đang trào dâng trong con người tôi, khiến tôi không còn khả năng chú ý tới các chi tiết. Tôi hớt hải chạy ra khỏi cửa. Khi tôi chạy tới phố Trăng Lưỡi liềm cũng là khi chuông đồng hồ nhà ai đổ dài một tiếng, đường phố vắng tanh không một bóng người, Tôi cắm đầu chạy miết mà không để ý thấy một cái bóng màu trắng. Chạy tới bờ vách đá phía tây nằm chìa ra trên cây cầu, tôi dừng lại ngó nghiêng nhìn sang bờ phía đông, trong lòng vừa hy vọng lại vừa lo sợ quả thực là tôi không biết nói thế nào để diễn tả tâm trạng của mình khi nhận ra bóng Lucy đang ngồi trên chiếc ghế đá quen thuộc. Ánh trăng thanh trên bầu trời đang.bị những mây đen ùn ùn kéo đến che khuất, để lại phía dưới một thế giới khi sáng, khi tối mờ mịt. Có lúc tôi chẳng còn phân biệt được gì nứa, bởi có một đám mây đen khổng lồ đã kéo tới ôm gọn cả cái bóng của nhà thờ St. Mary và cả các khu vực xung quanh. Tuy nhiên, các đám mây cũng sớm tản đi bởi những cơn gió lộng, khiến ánh trăng lại soi tỏ các phế tích của tu viện, rồi đến nhà thờ và nghĩa địa. Sự chờ đợi của tôi dù là hy vọng hay lo sợ hẳn cũng sẽ không bị uổng công, vì trên trên chiếc ghế băng kia, ánh trăng bàng bạc soi rõ một cái bóng trắng toát như tuyết trong tư thế nửa nằm nửa ngồi. Một đám mây khác kéo đến quá nhanh một lần nữa đưa tất cả trở về với bóng tối, nhưng tôi vẫn có cảm giác rằng dường như có một cái gì đó thật đen tối đang đứng đằng sau chiếc ghế băng và cúi sát xuống cái bóng trắng. Tôi không thể khẳng định được đó là bóng người hay bóng một con vật. Không mất thời gian đợi đám mây trôi qua, tôi lẻn nhanh xuống dưới cảng, đi dọc theo chợ cá rồi leo lên cầu, bởi đây là con đường duy nhất dẫn tôi đến vách đá phía đông.
Thành phố vắng tanh khiến tôi cảm thấy dễ chịu hơn, bởi dù sao thì tôi cũng không muốn thiên hạ biết rõ tình trạng của cô bạn Lucy đáng thương của tôi. Thời gian, và cả khoảng cách nữa, cứ như kéo dài vô tận đối với tôi; hai đầu gối tôi bắt đầu run run, càng lúc tôi càng cảm thấy nghẹt thở khi leo lên các bậc đá dẫn tới tu viện. Tôi lấy hết sức bình sinh để leo lên tới đỉnh cao đó càng nhanh càng tốt, ấy vậy mà đôi chân cứ nặng như đeo đá. Mò mẫn gần tới nơi, tôi nhận ra ngay chìếc ghế đá và cái bóng trắng toát ở đó, bây giờ tôi đã ở một vị trí khá gần để có thể phân biệt được mọi vật trong bóng tối. Chẳng còn nghi ngờ gì nữa, rõ ràng là có một cái bóng tạo hóa dài và đen sẫm đang cúi sát xuống người cô bạn tôi. Tôi buột miệng kêu lên: “Lucy? Lucy” và lập tức trông thấy một cái đầu ngóc dậy cùng với bộ mặt nhợt nhạt, đôi mắt sáng quắc. Không thấy Lucy trả lời, tôi chạy bổ vào nghĩa địa. Cái bóng sừng sững của nhà thờ đã che khuất tầm mắt của tôi. Tôi chạy vòng qua nhà thờ. Cuối cùng, ánh trăng vắng bóng mây đã cho phép tôi trông thấy rõ Lucy đang ở tư thế nửa nằm nửa ngồi, dầu tựa vào lưng ghế đá. Chỉ có một mình cô ở đó, đằng sau chiếc ghế không còn dấu vết nào, dù là nhỏ nhất, của một sinh vật sống.
Lucy đang ngủ rất say, đôi môi hé mở, nhịp thở không êm ái như mọi khi. Dường như cô đang gắng sức với những nhịp thở khó nhọc để có thể hít không khí vào trong lồng ngực. Cô khẽ cựa quậy rồi kéo cao chiếc áo ngủ lên kín cổ trong trạng thái vô thức. Tôi chợt nhận thấy cô đang lạnh run từ đầu xuống chân. Tôi lấy chiếc khăn len của mình nhẹ nhàng quấn vào cổ bạn. Tuy nhiên, hình như bàn tay vụng về vì sợ hãi của tôi đã chọc mạnh vào cổ cô thì phải, vì sau đó tôi thấy cô đưa tay lên xoa cổ và khẽ rên lên một tiếng. Chiếc móng tay để dài ngoằng của tôi đã làm cô đau, song không vì thế mà cô tỉnh dậy. Sau khi xỏ vào chân bạn đôi giày của mình, tôi mới dám nhẹ nhàng đánh thức cô dậy. Cô lại khẽ rên một tiếng và trút một hơi thở thật dài, nhưng vẫn không hề động đậy thêm một chút nào. Nhận thấy một ngày mới đang sắp đến như vậy sẽ không tiện cho việc dẫn Lucy về khách sạn tôi buộc phải lấy cô bạn mạnh hơn một chút. Cuối cùng thì cô cũng mở mắt tỉnh dậy, nhưng không hề tỏ vẻ ngạc nhiên khi trông thấy tôi, rõ ràng là cô vẫn chưa biết mình đang ở đâu. Lúc mơ màng tỉnh dậy, trông Lucy vẫn xinh đẹp như thường. Kể cả khi cô vừa trải qua một đêm tối lạnh lẽo run người giữa một bãi thưa ma hoang vắng, và trên người chỉ có độc nhất một chiếc áo ngủ, trông cô vẫn không mất đi cái vẻ duyên dáng yêu kiều. Tỉnh dậy rồi mà người cô vẫn run run. Khi tôi bảo: “Về nhà ngay với tớ đi”, cô chỉ lẳng lặng đứng dậy và ngoan ngoãn vâng lời như một đứa trẻ. Trên đường về, sỏi đá đã làm đôi chân tôi trầy máu. Thấy vậy cô đã dừng lại nài nỉ tôi xỏ chân vào đôi giày mà tôi đã nhường cho cô. Tất nhiên là tôi không đồng ý. Ra khỏi nghĩa địa, tôi phải nhúng cả hai chân xuống bùn để khi có người bắt gặp họ sẽ không phát hiện ra tôi đang đi chân đất. Song cơ may đã mỉm cười với tôi và Lucy: chúng tôi về nhà mà không chạm trán bất cứ một người nào. Thực ra trên đường đi cũng có một người đang đi lấy cá thì phải, song chúng tôi đã kịp nấp vào một bên cổng nhà thờ đợi ông ta đi khuất. Thật uổng công khi phải nhắc lại rằng tôi không chỉ lo lắng cho sức khỏe của Lucy nếu cô ấy bị cảm lạnh, mà tôi còn rất sợ phải thấy cảnh thanh danh của cô bị bêu riếu như chuyện này bị vỡ lở. Về nhà rồi, sau khi rửa chân xong, tôi đưa ngay cô bạn vào phòng. Trước khi ngủ, cô đề nghị, nài nỉ tôi đừng kể gì với ai, kể cả với mẹ cô. Lúc đầu tôi cũng hơi do dự về việc có nên hứa với cô hay không, nhưng sau nghĩ đi nghĩ lại, tôi quyết định nhận lời, bởi tôi cũng rất lo cho sức khỏe của mẹ cô, chắc chắn bà sẽ không tránh khỏi một cú sốc khi biết chuyện. Hy vọng là tôi đã làm đúng. Tôi khóa cửa và cứ thế giữ chìa khóa trong tay mà đi nằm. Có lẽ tôi sẽ không bị rơi vào tình thế khó khăn nữa. Lucy lại nhanh chóng chìm sâu vào giấc ngủ. Ngoài kia, ánh bình minh đã lấp loáng trên mặt biển...
* * * * *
Cùng ngày, buổi trưa
Tất cả đều ổn thỏa. Lucy ngủ một mạch cho tới khi tôi tỉnh dậy, và dường như cô chỉ trở mình có một lần trên giường. Xem ra cuộc phiêu lưu đêm qua đã không làm cô mỏi mệt, trái lại, tôi có cảm giác cô còn có vẻ khỏe khoắn hơn vào sáng nay, khỏe khoắn hơn cả trước đó mấy tuần. Chỉ có điều trông cô vẫn buồn, rất buồn nữa là đằng khác. Chắc là cô đang hồi tưởng lại cái cảnh khủng khiếp mà cô đã phải trải qua trên vách đá đêm qua. Chúng tôi không muốn nhắc lại chuyện ấy nữa. Ăn tối xong, Lucy kêu đau đầu nên lại lên giường nằm. Đợi cô ngủ rồi tôi mới dám ra ngoài, tôi muốn đi dạo một mình trên các vách đá. Thú thực tôi cũng cảm thấy rất buồn, bởi tôi luôn nhớ tới Jonathan. Khi tôi quay về, ánh trăng soi sáng vằng vặc đến nỗi mặc dù khách sạn gần như nằm trong bóng tối hoàn toàn, tôi vẫn có thể phân biệt được từng sự vật nhỏ nhất. Ngước mắt nhìn lên cửa sổ phòng mình, tôi nhác thấy cái bóng nghiêng nghiêng của Lucy. Tôi lấy khăn tay ra vẫy vì nghĩ cô ấy đang tìm mình. Tuy nhiên, cô nàng vẫn không hề nhúc nhích, có vẻ như cô nàng không để ý thấy tôi. Lúc đó, ánh trăng thanh soi sáng cả góc nhà, do vậy mà ô cửa sổ phòng tôi cũng được chiếu sáng như ban ngày. Tôi thấy cô bạn hai mắt nhắm nghiền, đang ngả đầu lên gờ cửa sổ. Cô đang ngủ, và tôi có cảm giác như còn có một cánh chim lớn đang đậu bên cạnh cô. Sợ cơ cảm lạnh, tôi chạy vội lên, nhưng khi bước vào phòng, tôi thấy cô đã trở về giường nằm, vẫn ngủ say với những hơi thở khó nhọc, một tay ôm cổ như muốn tránh cái lạnh giá.
Tôi nhẹ nhàng kéo chăn đắp lên người cô. Bây giờ, cửa ra vào đã được khóa chặt, và cả cửa sổ cũng được tôi cài chốt cẩn thận.
Mặc dù trông vẫn rất xinh đẹp và dịu dàng, song nét mặt Lucy lúc này lại lộ rõ vẻ mệt mỏi với nước da tái nhợt. Dường như cô đang lo lắng một điều gì đó mà tôi không biết.
Giá như biết thì lòng tôi sẽ nhẹ đi rất nhiều?
* * * * *
Ngày 15 tháng 8
Chúng tôi dậy muộn hơn thường lệ. Lucy, có lẽ vì mệt mỏi, đã ngủ lại ngay sau khi có người đánh thức. Có một tin vui đến hất ngờ vào lúc chúng tôi dùng bữa điểm tâm: sức khỏe của ông bố Arthur đã khá hơn nhiều và ông muốn rằng đám cưới của con trai ông phải được tổ chức càng sớm càng tốt. Lucy vui hớn hở, còn mẹ cô thì buồn vui lẫn lộn. Bà đã tâm sự cùng tôi cảm xúc của mình. Bà rất buồn khi nghĩ tới cảnh phải chia tay với Lucy, nhưng bà cũng rất vui khi cô con gái mình có một tấm chồng chăm sóc tối ngày. Tội nghiệp bà quá! Lúc tâm sự với tôi, bà nói rằng bà sẽ chẳng còn sống được bao lâu nữa. Song bà không nói lên về điều này với con gái và bà bắt tôi phải giữ bí mật. Bà có thể chết như một định mệnh. Cũng may chúng tôi không nói gì cho bà biết về cuộc phiêu lưu của Lucy đêm hôm nọ!
* * * * *
Ngày 17 tháng 8
Tôi đã không viết một dòng nào kể từ hai hôm nay; thực chẳng còn bụng dạ nào... Vâng, dường như tất cả đều đang muốn làm tôi chán nản vào lúc này. Tôi không nhận được bất cứ một tin tức gì của Jonathan, còn Lucy thì càng ngày càng có vẻ tiều tụy hơn. Tôi không hiểu tại sao, bởi rõ ràng là cô vẫn ăn uống tốt, ngủ cũng yên giấc và thường xuyên đi dạo dưới không khí trong lành. Ấy vậy mà da cô trông cứ xanh rớt, còn hơi thở thì vẫn nặng nề khó nhọc. Đã lâu rồi tôi không thể ngủ mà không buộc chiếc chìa khóa phòng vào cổ tay. Lucy vẫn thường đứng dậy đi lại trong phòng hoặc ngồi tựa vào cửa sổ. Đêm hôm trước, tôi còn thấy cô thò cả đầu ra ngoài cửa sổ mà gọi mãi cũng chẳng thấy cô trả lời: cô đã bị ngất. Cuối cùng, khi được lay tỉnh dậy, cô đã khóc không ra tiếng trong những hơi thở nhọc nhằn. Khi tôi hỏi tại sao lại mò ra cửa sổ, cô chỉ lắc đầu rồi quay mặt đi. Tôi hy vọng sự khó ở của cô không phải là do những vết móng tay ở cổ gây nên. Trong lúc cô ngủ say, tôi đã lén kiểm tra cổ cô. Hai vết thương nhỏ ở đó vẫn chưa lành, thậm chí còn há rộng hơn nữa là đằng khác, các mép vết thương đều có một màu hồng nhờn nhợt. Nếu trong một hai ngày nữa các vết xước trên cổ bạn tôi không khá hơn, có lẽ tôi sẽ phải cho gọi một thầy thuốc tới.
Thư của nhóm tư vấn Samuel F. Billington & Fils ở Whitby
gửi Carter Paterson & Cie ở Luân Đôn
“Ngày 1 tháng 8
Thưa các ngài,
Chúng tôi rất hân hạnh được thông báo với các ngài về chuyến hàng gửi theo đường hỏa xa của nhóm Đại Bắc. Các kiện hàng sẽ được giao ở Carfax ngay sau khi chúng đến ga chợ Kings Cross. Nhà chưa có người ở, nhưng các ngài sẽ thấy tất cả các chìa khóa đều có mang một nhãn giấy ghi rõ số phòng.
Các ngài sẽ đặt toàn bộ năm mươi thùng hàng vào chỗ đổ nát và phần có đánh chữ “A” theo bản vẽ kèm theo đây của ngôi nhà. Nhân viên của các ngài sẽ dễ dàng nhận ra địa điểm khi biết chính xác đó là một nhà thờ cổ nằm trong trang viên. Chuyến tàu chở hàng sẽ rời Whitby vào chín giờ rưỡi tối nay và sẽ tới Kings Cross vào bốn giờ rưỡi chiều mai. Khách hàng của chúng tôi muốn các thùng hàng được gửi tới nơi càng sớm càng tốt, vì vậy chúng tôi đề nghị các ngài hãy nhận hàng ở Kings Cros thật đúng giờ và sau đó phải chuyển ngay tới Carfax. Mặt khác, để việe trả tiền không bị chậm trễ, các ngài cũng sẽ nhận được một tấm séc trị giá mười bảng như đã đề nghị kèm theo thư này. Nếu như các phí tổn chưa đến mức này thì xin các ngài hãy vui lòng gửi lại số tiền thừa cho chúng tôi. Ngược lại, nếu số tiền trên vẫn chưa thỏa đáng, chúng tôi sẽ gửi thêm một tấm séc nữa theo đề nghị từ phía các ngài. Chùm chìa khóa sẽ được để ở hành lang của ngôi nhà để chủ nhà có thể dễ dàng thấy ngay sau khi ông ta mở cổng bằng chìa khóa riêng.
Hy vọng rằng chúng tôi sẽ không bị mang tiếng là quá khó tính khi đề nghị các ngài thực hiện cẩn thận hợp đồng này. Chờ tin các ngài.
Chân thành cảm ơn Samuel F.Billington & Fils”.
Thư của Carter Paterson & Cie, Luân Đôn gửi Samuel F. Billington & Fils ở Whitby
“Ngày 21 tháng 8
Thưa các ngài, Chúng tôi đã nhận được tấm séc trị giá mười bảng. Các thùng hàng đã được trả theo đúng chỉ dẫn của các ngài và chùm chìa khóa được để đúng chờ trong hành lang.
Xin gửi các ngài lời chào trân trọng nhất.
Carter, Paterson & Cie”
Nhật ký của Mina Murray
Ngày 18 tháng 8
Tôi viết những dòng đây khi đang ngồi trên ghế nghĩa địa. Hôm nay trông Lucy có vẻ khá hơn. Đêm hôm qua, cô không thức dậy một lần nào. Dù vẫn còn xanh xao và yếu ớt, song đôi má cô đã có một chút ửng hồng. Cô cũng có vẻ vui hơn, rất vui nữa là đằng khác. Cô đã thoát khỏi cái vẻ lầm lì khó hiểu bấy lâu của mình và còn nhắc tôi nhớ lại cái sự cố xảy ra trong đêm nọ nữa chứ! Vừa nói, cô vừa thích thú nện nện gót xuống ngôi mộ đá.
- Đêm hôm ấy, không hiểu sao đôi bàn chân tội nghiệp của tớ lại bước êm đến thế chứ! Tớ cứ tưởng tượng ra cảnh ông lão Swales bảo tớ rằng sở dĩ tớ làm như vậy là vì không muốn làm cho anh chàng Georgie ở dưới này thức giấc!
Thấy cô trong bộ dạng vui vẻ tôi mới đám hỏi đêm hôm đó cô có ngủ mê không. Trước khi trả lời tôi, cô đã làm duyên theo đúng cái kiểu mà Arthur vẫn rất thích. Một lúc sau, cô bắt đầu kể lại câu chuyện bằng một giọng như mơ màng :
- Không, tớ đã không ngủ mê... Tất cả đối với tớ dường như đều là thực. Tớ cứ muốn tới đây, tôi chỗ này, mà không hiểu tại sao... tớ sợ một điều gì đó thật mơ hồ... tớ đang ngủ, tớ đã lọ mọ đi qua các nẻo phố, rồi qua cầu. Lúc đó, có một con cá nhảy vọt lên khỏi mặt nước khiến tớ phải cúi xuống nhìn, rồi khi tớ bắt đầu leo lên các bậc thang đá, lũ chó bỗng thi nhau sủa ầm lên - tớ có cảm giác là lũ chó của cả thành phố này cùng sủa lên một lúc. Tớ mơ hồ nhớ lại rằng sau đó, có một cái gì đấy vừa dài vừa đen, hai mắt sáng quắc, lảng vảng tội gần tớ. Cùng lúc ấy, trong tớ bỗng trào dâng một cảm giác vừa dịu êm lại vừa cay đắng. Rồi... tớ thấy mình đang lao xuống một vực nước xanh và sâu thẳm, hai tai ù đặc, người mê man như một kẻ sắp chết đuối. Tớ thấy mình dường như không còn tồn tại nữa... Hồn vía tớ bắt đầu lìa khỏi xác và bay lơ lửng, lang thang trong không khí... Tớ tin là tớ không quên cái ánh sáng loang loáng ở dưới do ngọn đèn pha phía tây quét tới. Rồi tớ cảm thấy đau, một cảm giác đau đớn khó tả, giống như cảm giác tớ lại rơi vào giữa một trận động đất. Và cuối cùng, tớ đã trở về với chính mình khi cậu lay tớ dậy. Tớ đã trông thấy mọi cử chỉ của cậu trước khi cảm nhận được chúng.
Nói tới đây cô bạn tôi bỗng bật cười khanh khách, thú thực là tôi bắt đầu cảm thấy lo trước nụ cười khác lạ của cô.
Tôi đã phải nín thở nghe cô cười. Điệu cười của cô thực sự làm tôi khó chịu.
Tất hơn là không nên để cô nghĩ tới cuộc phiêu lãng ấy nứa. Nghĩ vậy, tôi lập tức tìm cách lái câu chuyện sang một chủ đề khác để cô trở lại với chính mình.
Khi chúng tôi trở về khách sạn, những làn gió biển thoảng tới mát dịu khiến cho đôi má cô lại ửng hồng. Mẹ cô rất vui khi trông thấy cô hồng hào như vậy.
Cả ba chúng tôi đã có một buổi tối thật tốt lành.
* * * * *
Ngày 19 tháng 8
Tôi cảm thấy vui quá đi mất! Song đó đã phải là một niềm hạnh phúc chưa? Không, chưa phải là như vậy Nhưng cuối cùng thì tôi cũng đã nhận được tin của Jonathan... Thật tội nghiệp, anh đã bị ốm suốt thời gian qua, vì thế nên anh đã không muốn viết gì. Bây giờ tôi đã cảm thấy yên tâm phần nào. Ngài Hawkins vừa chuyển cho tôi là thứ mà bà xơ chăm sóc Jonathan đã gửi cho ông. Ngay ngày mai, tôi sẽ lên đường đi tìm anh, nếu cần, tôi sẽ phụ giúp cho việc chăm sóc anh, và rồi chúng tôi sẽ cùng trở về Anh. Ngài Hawkins khuyên tôi nên làm lễ cưới ở đó. Tôi đã không cầm được nước mắt khi đọc thư của bà xơ tốt bụng nọ. Đọc xong lá thư, tôi cất ngay vào túi áo ngực, nơi gần con tim mình nhất! Lá thư này sẽ là nguồn an ủi tôi cho tới khi gặp được Jơnathan. Mọi hành lý của tôi đã được chuẩn bị xong xuôi, tôi sẵn sàng 1ên đường đi tìm người chồng chưa cưới của mình.
Xơ Agatha ở viện Saint Joseph và Saint N Marie, Budapest, gửi Wilhel Mina Murray
“Ngày 12 tháng 8
Thưa bà,
Ơn Chúa, ơn thánh Joseph và thánh Marie, tình trạng sức khỏe của ông Jonathan đã hồi phục từng ngày. Tuy nhiên, ông vẫn còn rất yếu để có thể tự tay viết thư nên đã phải nhờ tôi viết những dòng này gửi bà. Ông đã nằm liệt ở chỗ chúng tôi gần sáu tuần lễ vì mắc một chứng bệnh não khá nặng. Ông đề nghị tôi viết cho bà rằng ông vẫn luôn nhớ tới bà, rằng cùng với lá thư này cho bà, tôi cũng viết một lá khác gửi cho ông Peter Hawkins, trong đó tôi phải bày tỏ những hối tiếc của ông nhà vì đã không thể thông báo tình hình của mình sớm hơn. Ông Jơnathan cần phải nghỉ thêm vài tuần nữa ở dưỡng đường của chúng tôi trước khi có thể quay về Anh quốc. Ông cũng nhờ tôi nói với bà rằng ông đang cần một số tiền cần thiết để đáp lại thịnh tình của dưỡng đường đối với ông trong những ngày lưu lại đây, bởi dưỡng đường cũng đang rất cần sự giúp đỡ để có thể chăm sóc cho các bệnh nhân khác.
Rất thông cảm cho bà, mong hãy nhận ở tôi một sự chia sẻ sâu sắc nhất.
Xơ Agatha.”
T.B. Bệnh nhân của tôi đã ngủ, tôi lại mở thư ra viết thêm cho bà vài dòng.
Ông đã kể với tôi rất nhiều về bà và cho tôi biết là hai người sẽ sớm làm lễ cưới. Xin thành thật chúc mừng bà và chúc mừng ông nhà! Theo bác sĩ, ông nhà đã trải qua một cú sốc khủng khiếp, và trong lúc mê sảng, ông chỉ toàn nói tới những điều thật đáng sợ. Chính tôi đã nghe thấy ông lảm nhảm nói về chó sói, thuốc độc, máu me; về những bóng ma và quỷ dữ; và còn nhiều điều khác mà tôi không dám nói ra... Tôi xin được khuyên bà rằng trong một thời gian dài nữa, bà không nên gợi nhắc lại những câu chuyện đáng sợ này với ông nhà; những gì đang hằn sâu trong suy nghĩ tới ông hẳn không thể dễ dàng bị xóa nhòa. Lẽ ra chúng tôi phải thông báo điều này từ lâu, nhưng khổ một nỗi chúng tôi không biết phải viết cho ai, bởi chúng tôi không có bất cứ một dòng địa chỉ nào của bạn bè, bà con hay bố mẹ bệnh nhân, và trong người ông cũng không hề có một thứ giấy tờ nào để chúng tôi có thể tìm ra địa chỉ liên lạc. Ông đến chỗ chúng tôi sau chuyến tàu đi từ Klausenburg, và người trưởng ga có kể lại rằng trước khi lên tàu, ông nhà đã lao như điên vào cửa mà hét lên rằng ông cần một vé trở về nước Anh. Biết ông là người Anh, viên trưởng ga đã cho ông một vé đến ga gần nhất.
Xin bà cứ yên tâm, ông nhà đã được chăm sóc rất chu đáo. Lòng tốt và nỗi đau của ông đã khiến mọi người ở đây thực sự cảm kích. Như tôi đã nói ở đầu thư, sức khỏe của ông nhà đang tiến triển rất tốt, nhưng cũng xin được nhắc lại rằng sau này, bà phải nên rất cẩn thận trong việc chăm sóc ông nhà, đặc biệt là sự ổn định về tinh thần của ông. Tôi đã cầu Chúa, cầu thánh Josephe và thánh Marie ban phước lành cho hai người cho tới lúc đầu bạc răng long”.
Nhật ký của bác sĩ Seward
Ngày 19 tháng 8
Tối hôm qua, trong con người Renfield đã có những thay đổi bất ngờ và kỳ lạ. Vào khoảng 8 giờ, hắn bỗng tỏ ra rất quá khích, hai tay bò xuống nền nhà, mũi hít đất khịt khịt như một con chó đánh hơi. Nhìn thấy cảnh lạ đời và biết là tôi rất quan tâm tới hắn, viên giám thị đã hỏi hắn nguyên do tại sao. Bình thường Renfield vẫn tỏ ra rất tôn trọng viên giám thị này, và đôi khi hắn còn phục tùng ông như một kẻ nô lệ. Nhưng theo những gì ông đã kể lại cho tôi nghe, thì lần này lại không có vẻ như vậy: hắn cứ khinh khỉnh và chẳng thèm đáp lại câu hỏi của ông. Hắn chỉ nói với ông đúng một câu :
- Tôi không muốn nói chuyện với ông. Đối với tôi, ông không còn tồn tại trên đời này nữa, ông chủ tôi đang ở gần đây.
Viên giám thị tin rằng hắn đã bắt đầu mắc một chứng bệnh điên bí ẩn. Nếu sự thật đúng là như vậy, thì chắc chắn sẽ có lúc chúng tôi phải chứng kiến những cảnh tượng không thể lường trước, bởi một gã đàn ông lực lưởng như hắn, nếu mắc phải một chứng bệnh tâm thần vừa bí ẩn vừa sát sinh, có thể trở thành một kẻ nguy hiểm, rất nguy hiểm nữa là đằng khác. Tôi tới thăm hắn vào lúc 9 giờ. Hắn xử sự với tôi đúng như đã xử sự với viên giám thị lúc trước. Dường như trong trạng thái tâm thần hiện nay, hắn không còn phân biệt nổi sự khác biệt giữa tôi và viên giám thị nữa. Có lẽ tới một lúc nào đó, hắn sẽ tự coi mình là Chúa Trời mất? Nhưng khả năng phân biệt kém cỏi sự khác nhau giữa hai con người của hắn đâu có xứng để hắn trở thành một đường tối cao!
Trong suốt nửa tiếng đồng hồ hoặc hơn nữa, Renfield càng lúc càng tỏ ra bị kích động hơn. Mặc dù bề ngoài luôn tỏ ra không thèm quan tâm tới hắn, nhưng thực ra tôi vẫn lặng lẽ theo dõi từng cử chỉ của hắn. Tôi chợt nhận ra trong ánh mắt của hắn có một cái gì đó thật xảo trá, cái xảo trá mà những thằng điên luôn có khi chúng đang âm mưu nghĩ về một điều gì đó - các giám thị ở bệnh viện tâm thần thường hiểu rất rõ khía cạnh này. Sau đó, hắn bỗng trở nên trầm lặng hẳn đi rồi ngồi phịch xuống mép giường, mặt lộ rõ vẻ cam chịu. Hắn bắt đầu nhìn về phía xa xăm với một ánh mắt mơ hồ khó hiểu. Tôi không biết cảm xúc của hắn là thật hay là giả, nên đã quyết định thử hắn bằng cách gợi cho hắn nói về những con vật bé nhỏ của hắn - một chủ đề mà bao giờ hắn cũng rất chú ý.
Lúc đầu, hắn không nói năng gì, nhưng cuối cùng thì hắn cũng bực mình lên tiếng :
- Quẳng mẹ nó hết đi! Bây giờ chúng chẳng còn có nghĩa lý gì với tôi...
- Sao cơ? - Tôi ngắt lời hắn. - Anh sẽ không nói với tôi rằng anh không còn quan tâm tới lũ nhện nữa chứ? (Bởi vì sở thích của hắn mấy ngày hôm nay vẫn là đàn nhện, và cuốn sổ tay của hắn thì đã đầy ắp những con số).
Nghe tôi hỏi vậy, hắn đã đáp lại bằng một giọng thật khó hiểu :
- Các quý cô danh giá lúc nào cũng làm vui mắt những kẻ đang ngồi đợi sự xuất hiện của cô dâu, nhưng khi cô đâu xuất hiện rồi, thì các quý cô danh giá lại chẳng còn quan trọng đối với những khách mời ấy nữa. Hắn không giải thích gì thêm và cứ ngồi lì ở mép giường suốt thời gian tôi còn lưu lại trong phòng hắn. Tối nay tôi cảm thấy mệt mỏi quá, người cứ rũ ra như một tàu lá héo. Ý nghĩ về Lucy liễn tục ám ảnh tôi, và cứ mỗi lần nghĩ tới cô là tôi lại không thể không tự nhủ rằng biết đâu tình thế rồi có thể sẽ đổi khác?
Đêm nay, nếu như không thể sớm chợp mắt ngay sau khi ngả lưng, có lẽ tôi sẽ phải tặc lưỡi mà nuốt mệt liều thuốc ngủ mới ra đời - loại C2HCL3O.H2O? Tất nhiên tôi phải cố gắng không để cho điều ấy biến thành một thói quen. Không, tối nay tôi sẽ dứt khoát không dùng thuốc an thần. Thú thực tôi đã nghĩ nhiều tới Lucy, và tơi cũng không định gạt bỏ cái kỷ niệm êm đềm về cô bằng mọi giá. Đêm nay, tôi sẽ lại không ngủ...
Tôi vừa nằm thao thức được một lúc thì chuông đồng hồ ngân dài hai tiếng - vậy là mới có 2 giờ sáng! Tôi vừa trở mình mệt mỏi thì chợt nghe thấy có tiếng gõ cửa, người trực đêm đến báo cho tôi biết rằng bệnh nhân Renfield đã trốn mất! Tôi vội vàng mặc qủần áo và chạy tức tốc xuống cầu thang. Quả thực sẽ rất nguy hiểm nếu để bệnh nhân của tôi tự do lang thang ra các khu vực xung quanh. Các nếp nghĩ ngoan cố của hắn có thể sẽ là một hiểm họa thực sự đối với những người hắn gặp trên đường. Viên giám thị đang đứng đợi tôi. Khoảng gần mười phút trước, qua một lỗ nhỏ trên cửa phòng, ông vẫn còn trông thấy Renfield đang nằm dài trên giường, vẻ như đã ngủ. Nhưng sau đó, ông chợt giật mình khi nghe có tiếng động ngoài cửa sổ. Ông chạy tới cửa phòng Renfield thì không còn thấy hắn ở đó nữa: hắn đã nhảy cửa sổ trốn ra ngoài? Ông cho người đi gọi tôi ngay lập tức. Theo viên giám thị thì Renfield, với duy nhất một chiếc áo ngủ trên người, chưa thể bỏ đi xa được. Ông khẳng định rằng hắn đã chạy về phía tay trái rồi đi thẳng. Tôi cũng vội nhảy đại qua cửa sổ xuống sân, tất nhiên là có sự trợ giúp của viên giám thị, và tức tốc chạy về phía đó. Chạy gần tới các lùm cây, tôi chợt phát hiện ra một cái bóng trắng lờ nhờ đang trèo lên bức tường chia cắt khu vườn của chúng tôi với khu vườn của một ngôi nhà hoang.
Tôi chạy về bảo người trực đêm gọi thêm ba bốn người nữa cùng tôi sang nhà Carfax, đề phòng trường hợp Renfield đổi tính hung hăng nếu chúng tôi phải dẫn hắn về. Tôi lấy thang leo qua tường nhảy sang bên kia. Chân vừa chạm đất, tôi nhận ngay ra bóng Renfield vừa biến mất sau ngôi nhà. Tôi vội vàng đuổi theo. Chạy tới dầu hồi nhà, tôi thấy hắn đang hùng hục đẩy vào cánh cửa gỗ sồi của gian nhà thờ. Dường như hắn đang nói chuyện với ai đó, nhưng tôi không dám lại gần vì sợ hắn nhận ra tôi rồi bỏ trốn. Trêu ong cũng không khó bằng việc đi bắt một thằng điên đang âm mưu bỏ trốn! Tuy nhiên, sau vài phút quan sát, tôi nhận ra hắn chẳng hề để ý tới những gì đang xảy ra xung quanh, vì Vậy tôi mạnh dạn tiến lại gần hơn khi trong lòng đã yên tâm rằng mấy người tôi vừa cho gọi thêm lúc này chắc cũng đã vượt tường sang đây và đang chuẩn bị bao vây hắn rồi. Lúc này tôi đã có thể nghe rõ những gì hắn nói :
- Tôi xin phục tùng ngài, thưa Ông chủ. Tôi là nô lệ của ngài và tôi biết rồi ngài sẽ ban thưởng cho tôi, bởi tôi là người luôn trung thành với ngài. Tôi ngưỡng mộ ngài từ lâu, rất lâu rồi! Bây giờ ngài đã tới đây, tôi sẽ chờ đợi mệnh lệnh của ngài, và ngài sẽ không quên chia của cải cho tôi chứ, Ông chủ?
Đúng là giọng của một kẻ ăn mày! Tính gàn dở của hắn quả là hết chỗ nói. Bị chúng tôi xốc nách, hắn vùng vẫy điên cuồng như một con cọp, bởi hắn giống một con thú hoang hơn là một con người. Chưa bao giờ tôi gặp một bệnh nhân tâm thần khỏe và hung hãn đến thế, hy vọng đây sẽ là lần cuối cùng? Cũng may là tôi lường trước được sự việc và kịp gọi thêm người. Tôi không dám nghĩ tới những gì hắn có thể phạm phải nếu như chúng tôi không rước được hắn về? Trên đường về, thỉnh thoảng hắn lại rống lên thật đáng sợ, nhưng sự im lặng khép lại sau mỗi tiếng kêu của hắn cũng làm chúng tôi lo lắng không kém, bởi chúng tôi đã đoán được những mưu toan chết người của hắn.
Lần đầu tiên tôi nghe thấy hắn nói những câu đứt đoạn :
- Tôi sẽ kiên nhẫn, thưa chủ nhân! Tôi sẽ chờ... chờ... chờ...
Tôi cũng vậy, tôi sẽ chờ đợi!
Xem tiếp chương 9