Chương 20
Nhật ký của Jonathan Harker
Ngày 1 tháng 10, buổi tối
Tôi gặp Thomas Snelling tại nhà, nhưng thật không may, ông ta lại là một kẻ rất chóng quên. Mặc dù tôi đã báo trước, nhưng ông ta vẫn bỏ đi uống bia đến say mèm và chẳng cần biết tôi có đến hay không.
Nhưng bù lại, ông ta lại có một bà vợ rất tử tế. Sau khi nghe tôi trình bày, bà đã khuyên tôi đến nhà Joseph Smollet tìm hiểu. Vậy là tôi lại phải ngược lên phố Walwort. Tôi đến khi Smollet đang ngồi uống trà. Đó là một anh chàng công nhân tất tính và thông minh, đủ để người khác tin cậy và tâm sự về công việc riêng. Anh chàng nhớ rất rõ vụ ẩu đả hôm đến nhận hàng ở Carfax. Sau khi tra lại cuốn sổ tay nhỏ xíu quăn góc, anh nói ngay cho tôi biết địa chỉ nhận các thùng đất. Anh đã chở cả thảy sáu thùng từ Carfax đến số 179 phố Chicksand ở New Town, và sáu thùng khác đến hẻm Jamaica ở Bermondsey. Vậy là nếu như định phân tán mỗi chỗ ở Luân Đôn một vài thùng đất bẩn thỉu làm nơi ẩn náu, thì phố Chickland và hẻm Jamaica chính là những trạm trung chuyển đầu tiên mà lão bá tước gửi gắm để sau này tiếp tục rải đi các nơi khác. Từ đó, có thể suy ra lão không chỉ tìm nơi chui rúc ở hai khu phố thành Luân Đôn. Bởi vậy, tôi phải dò hỏi tiếp Smollet về những thùng đất đã được chở đi khỏi Carfax.
- Vâng, thưa ông chủ, - Anh ta trả lời - ngài đã tỏ ra khá hào phóng đối với tôi (vì tôi có dúi vào tay anh ta nửa đồng tiền vàng) nên tôi sẽ nói cho ngài nghe bằng hết những gì tôi biết! Cách đây bốn hôm, khi ngồi nhậu ở quán Thỏ và Chó ở thung lũng Pincher, tôi có nghe một tay tên là Bloxam nào đó kể hắn và một tay tài xế nữa đã chui vào một ngôi nhà cổ ở Purfleet làm việc để rồi phải nuốt đến hàng kilô bụi vào người? Ngài thấy đấy, có phải việc làm bẩn thỉu này hôm nào cũng xảy ra đâu. Tôi nghĩ Sam Bloxam cũng có thể cung cấp thêm cho ngài ít nhiều thông tin về cái điều ngài muốn biết đấy?
- Nếu Smollet nói cho tôi biết địa chỉ của cái tay tên là Sam Bloxam, - như tôi hứa với anh ta - tôi sẽ cho anh ta nốt nửa đồng tiền vàng còn lại.
Nghe tôi hứa, anh ta uống vội số nước chè còn lại trong cốc và đứng bật dậy tuyên bố anh ta sẽ đi khắp nơi để tìm cho bằng được cái tay tài xế đó. Tíễn tôi ra cửa, anh ta bảo tôi :
- Ngài thấy đấy, tôi chẳng có lý do gì để giữ ngài ở đây cả. Tôi có thể tìm được tay Sam này ngay lập tức, nhưng cũng có thể là không. Nói gì thì nói, tối nay thì không được rồi. Thật khó mà moi được điều gì ở thằng cha này một khi hắn đã nốc rượu đầy ruột. Nếu ngài để lại cho tôi một chiếc phong bì dán sẵn tem và ghi rõ địa chỉ, thì khi nào biết được hắn đang ở đâu, tôi sẽ báo ngay cho ngài biết. Bây giờ, tôi chỉ có thể nói trước được điều này: tất nhất là ngài nên đến gặp hắn vào buổi sáng sớm, nếu không thì hơi khó đấy, vì hắn thường dậy rất sớm và chỉ về đến nhà vào nửa đêm, khi đã say khướt mà thôi.
Nghe anh chàng này nói cũng có vẻ có lý, vì vậy tôi đã nhờ đứa con gái nhà anh ta chạy ù đi mua hộ một chiếc phong bì và một con tem. Chỉ một loáng đã thấy cô bé quay về với những gì tôi cần trên tay. Tôi cẩn thận ghi rõ địa chỉ, dán tem và đưa chiếc phong bì cho người chủ nhà tốt bụng. Trước khi ra về, tôi phải dặn đi dặn lại anh ta là khi nào có tin, phải báo cho tôi ngay lập tức.
Vậy là cuối cùng, điều bí ẩn cũng bắt đầu được làm sáng tỏ? Dần dần từng bước, từng bước một... Tối nay, tôi bỗng cảm thấy mệt mỏi quá, chỉ muốn đi ngủ ngay lập tức. Mina đang chìm sâu trong giấc ngủ, trông cô có vẻ xanh xao hơn cả hôm trước, còn đôi mắt cứ mọng lên như người vừa mới khóc. Tội nghiệp cô bé, kể từ khi chúng tôi không cho cô biết kế hoạch và dự định của mình, cô lại càng có vẻ lo lắng, bồn chồn hơn trước. Tuy nhiên, chúng tôi đã đúng khi đưa ra một quyết định như vậy! Thà cô ấy cứ thất vọng và lo âu một vài ngày còn hơn là phải trải qua những lúc căng thẳng tột độ khi tham gia công việc với chúng tôi. Hai ông bác sĩ đã thật có lý khi khuyên tôi để cô ngoài cuộc chơi đầy nguy hiểm. Điều quan trọng với tôi trong lúc này là phải làm sao giữ kín được mọi chuyện, bất kể vì lý do nào tôi cũng không được buột miệng nói ra điều gì. Tôi rất hiểu gánh nặng im lặng đang đặt lên vai mình. Nhưng nói cho cùng, tôi cũng không tin đó là một việc gì ghê gớm khó thực hiện, bởi lúc này, dường như chính Mina cũng không thích nhắc đến công việc của chúng tôi nữa thì phảbi. Của thực là từ khi chúng tôi quyết định để cô nghỉ ngơi, tôi không thấy cô đả động, bóng gió gì đến chuyện Dracula và các thủ đoạn của lão nữa.
* * * * *
Ngày 2 tháng 10
Một ngày mệt rã rời, căng thẳng tưởng như chẳng bao giờ kết thúc. Sáng nay, tôi nhận được thư đề địa chỉ do chính tay mình viết.
Trong phong bì chỉ có một mẩu giấy xé cẩu thả nguệch ngoạc ghi một dòng địa chỉ bằng bút chì, chữ to như quả trứng gà:
Sam Bloxam, Korkrans, 4, Poters, Cort, phố Bartel, Walworth. Hỏi giám đốc.
Đọc xong lá thư khi còn nằm trên giường, tôi lặng lẽ ngồi dậy không để Mina bị thức giấc. Trong giấc ngủ, trông cô còn nhợt nhạt và mệt mỏi hơn cả lúc đang thức. Đánh thức cô lúc này là có lỗi, nhưng trong đầu lại nảy ra một ý nghĩ khác: sau cuộc điều tra hôm nay, tôi sẽ cố gắng thuyết phục cô quay trở về Exerter. Tôi nghĩ ở nhà mình, dù phải bận bịu với các công việc nội trợ, cô ấy vẫn cảm thấy vui hơn là ở đây, được sống cùng chúng tôi mà lại không có quyền biết điều gì đang xảy ra. Trướe khi ra khỏi nhà, tôi chỉ gặp bác sĩ Seward và báo cho anh biết hôm nay tôi đi đâu, làm gì và khi xong việc, tôi sẽ cố gắng về thật sớm để thuật lại kết quả cho cả nhóm biết.
Tới Walworth, tối bỗng đâm ra lúng túng khi phải tìm Pháp viện Potter. Cách viết cẩu thả, sai chính tả be bét của Smollet làm tôi tìm nhầm lung tung địa chỉ. Tuy nhiên, khi đã tìm được Pháp viện Potter, tôi chỉ việc đi thẳng tới ngôi nhà Corcoran. Chủ nhà cho tôi biết hôm qua, Bloxam có đến đây nốc rượu say mèm rồi ngủ lại, nhưng năm giờ sáng nay, anh ta đã đi thẳng tới nơi làm việc ở Polar. Corcoran không nhớ được chính xác vị trí kho tạm giữ hàng mà tôi muốn hỏi để tìm gặp Bloxam, ông ta chỉ láng máng rằng đó là một ngôi nhà “mới và được xây dựng hiện đại”. Đây là thông tin duy nhất tôi có thể có trước khi tới Polar. Mãi gần tới trưa tôi mới tìm được ngôi nhà cần tìm nhờ sự mách bảo của một người thợ ngồi nghỉ trong một quán cà phê, đó là một “nhà kho mới rộng mênh mông”. Tôi lân la hỏi chuyện người gác cổng và một viễn đốc công. Họ quả là những người rất khó tính và lỗ mãng. Tuy nhiên, khi tôi dúi cho mỗi người một đồng tiền xu, họ đã thay đổi thái độ ngay lập tức. Và khi tôi hứa sẵn sàng trả cho viên đốc công một ngày lương, nếu ông ta cho phép tôi gặp Bloxam để hỏi hắn một vài vấn đề liên quan tới công việc riêng, ông ta đã cho người đi gọi bằng được Bloxam về. Bloxam là một gã thanh niên thô kệch và trực tính. Tôi chủ động hứa trả anh ta tiền cho tất cả những thông tin mà anh ta cung cấp. Chỉ đợi có vậy, anh ta cho biết luôn rằng trên đoạn đường từ Carfax đến một ngôi nhà ở Piccadilly, anh ta đã phải làm hai chuyến để chở hết chín thùng hàng mới tinh - toàn là những thùng lớn và rất nặng - bằng một chiếc xe ngựa đi thuê. Nhưng khi được hỏi về số nhà ở Piccadilly, anh ta lại không trả lời được.
- Chán thật đấy, ông chủ ạ, không hiểu sao tôi lại quên khuấy mất số nhà, nhưng tôi có thể nói với ngài rằng ngôi nhà mà tôi phải chở các thùng hàng tới chỉ cách một nhà thờ quét vôi trắng - hoặc một cái gì đó giống như nhà thờ vậy - khoảng hai, ba ngôi nhà khác thôi. Đó là một ngôi nhà tồi tàn đầy bụi là bụi, nhưng thực ra bụi ở đây vẫn chẳng thấm gì so với ngôi nhà mà tôi phải tới để lấy hàng.
- Thế làm thế nào anh vào được hai ngôi nhà này nếu như ở đó không có người ở?
- Lão chủ hàng đứng đợi tôi trong ngôi nhà ở Purneet và giúp tôi nhấc các thùng hàng lên xe. Ôi, cha mẹ ơi! Sao lão khỏe thế không biết? Phải nói đó là người khỏe nhất mà tôi từng gặp trong đời, cho dù râu lão đã bạc trắng như cước, còn người thì gầy hom hem, lão gầy đến nỗi khiến người khác phải tưởng rằng lão không thể đủ sức dãy ngã một cái bóng!
Tôi bỗng cảm thấy rùng mình.
- Vâng! Lão nhấc các thùng gỗ cứ như là cầm mấy gói chè vậy, trong khi đó, tôi phải thở hồng hộc như lợn và gồng mình hết sức mới nâng được một đầu... Mà tôi đâu phải là một thằng khọm kia chứ!
- Thế anh vào ngôi nhà ở Piccadilly bằng đường nào? - Tôi hỏi.
- Tôi đến thì lão đã có ở đó rồi. Chắc là lão phải phi rất nhanh trên đường để có thể đến đó trước tôi, bởi vì khi tôi bấm chuông, chính lão là người đã ra mở cửa và lão cũng là người giúp tôi mang các thùng hàng vào hành lang.
- Tất cả là chín thùng à?
- Chín thùng. Chuyến đầu năm thùng; chuyến sau bốn thùng. Đúng là một việc khổ sai! Mà không hiểu sao công việc lại làm tôi thấy khát thế không biết! Bây giờ, tôi vẫn tự hỏi là làm sao mình lại bò được về tới nhà mới lạ chứ.
- Anh đã mang các thùng gỗ vào hành lang?
- Vâng. Đó là một hành lang trống trơn, không cỏ một thứ đồ đạc gì.
- Anh cũng không có chia khóa chứ?
- Không có chìa khóa? cũng chẳng có cái gì cả. Lão già ấy chính là người tự tay mở cửa và rồi tự tay khóa cửa khi tôi về. Thú thực, đây là lần mới nhất tôi không nhớ hết mọi chuyện, bởi vì bia...
- Thế anh không nhớ số nhà thật à?
- Không, thưa ngài, nhưng mà tìm cũng dễ thôi! Ngôi nhà cao, mặt tiền xây bằng đá, cửa sổ thấp, có bậc thềm bên ngoài. Sở dĩ tôi còn nhớ cái bậc thềm này là vì phải đưa các thùng hàng lên cùng với ba thằng nhà quê nữa, bọn chúng xin giúp tôi để mong kiếm được vài xu. Lão già đã cho chúng mấy đồng xi-linh. Thấy bở, chúng định đòi thêm mấy đồng, nhưng đời nào lão chịu. Suýt nữa thì mấy thằng đã bị lão đá văng xuống chân cầu thang nếu như chúng không kịp bỏ chạy cùng vài câu chửi thề tục tĩu.
Nghĩ như thế cũng là đủ để tìm ra ngôi nhà, tôi bèn trả tiền cho Bloxam và tìm đường tới Piccadilly. Điều tôi vừa được biết khiến tôi không khỏi bối rối: lão bá tước có thể tự tay nâng các thùng gỗ chứa đầy đất! Mỗi phút trôi qua lúc này đối với tôi đều rất đáng quý. Bới rất có thể bây giờ lão đã tẩu tán mỗi nơi một thùng vào cái giờ lão đã chọn trước đế không ai có thể chú ý. Tới Piccadilly Circus, tôi xuống xe ngựa và đi thẳng về phía tây khu phố. Vừa qua Pháp viện Vị thành niên, tôi nhận ngay ra ngôi nhà cần tìm. Tôi không hề nghi ngờ đó là một trong những sào huyệt của bá tước Dracula ở Anh quốc. Ngôi nhà có vẻ như bị bỏ hoang từ lâu lắm rồi. Các ô cửa tò vò đều mở rộng, nhưng ô cửa sổ nào cũng phủ bụi mờ. Bụi thời gian đã làm cho các lớp gỗ ốp biến thành màu đen và những. đồ trang trí bằng sắt thành những vật được làm hằng... đất. Nhìn vào tường ban công, tôi đoán hẳn phải có một tấm biển ghi địa chỉ và tên nhà vừa bị giật tung đi đâu mất, bởi các dấu vết vẫn còn rất mới. Tôi sẽ có thêm một số thông tin nếu tấm biển này còn nguyên vẹn: nó sẽ cho tôi biết tên chủ sỡ hữu ngôi nhà. Tôi còn nhớ mình đã thu thập thông tin như thế nào để có thể đạt được hợp đồng môi giới ngôi nhà Carfax cho Dracula trước đây, và giờ tôi cũng tin rằng nếu biết được chủ nhân cũ của ngôi nhà, tôi sẽ vào được bên trong.
Vậy là chẳng còn lý do gì mà ở lại đây nữa, tôi có thể biết và làm được gì hơn bây giờ? Nhưng tôi vẫn làm một vòng quanh ngôi nhà, bởi biết đâu tôi lại chẳng tìm được một điều gì đó thú vị? Các tàu ngựa phía bên kia ngôi nhà quả là náo nhiệt. Tôi gặp một người chăn ngựa và hỏi thăm ông về ngôi nhà. Thông tin tôi nhận được là ngôi nhà đã được mua, nhưng ai mua thì ông chịu. Ông còn cho biết cách đây khoảng hai ba ngày, ở ban công có đặt một tấm biển rao bán nhà, nếu tới hỏi công ty môi giới Mitchell, Sons & Candy, có thể tôi sẽ được biết các thông tin cần thiết, bởi ông nhớ rất rõ mình đã đọc trên tấm biển đó tên nhà môi giới bất động sản này. Không muốn gây sự chú ý, tôi đành phải cảm ơn ông già tốt bụng rồi bỏ đi mà không dám hỏi gì thêm. Trời sắp tối nên lại càng không thể lãng phí thời gian. Hơn nữa, không phải là tôi không biết địa chỉ của Mnitchell, Sons & Candy, đó là một công ty môi giới có văn phòng ở phố Sackville. Tôi cần phải tới đó ngay bây giờ.
Tiếp tôi là một nhân viên nhã nhặn nhưng cũng thật ít nói. Anh ta chỉ cho biết ngôi nhà ở Piccadilly đã được bán và không nói gì thêm nữa. Khi tôi hỏi ai là người đã mua ngôi nhà, anh ta trố mắt ngạc nhiên rồi gằn giọng nhắc lại :
- Nó đã được bán rồi, thưa ngài.
- Xin lỗi, - Tôi cố gắng giữ vẻ lịch sự - tôi muốn hỏi ngôi nhà ấy được bán cho ai, bởi tôi có chút chuyện riêng nên mới hỏi như vậy, xin cứ tin ở tôi.
Anh ta càng trợn mắt lên với tôi.
- Đã bảo là ngôi nhà đã bị người ta mua rồi, thưa ngài.
- Tất nhiên, nhưng anh có thể cho tôi biết một vài chi tiết về vụ mua bán này được không ạ?
- Không, không được đâu, thưa ngài. Với Mitchell, Sons & Candy, mọi mối quan hệ với khách hàng đều phải được tuyệt đối giữ bí mật, xin ngài thông cảm cho.
- Khách hàng của quý công ty hẳn đã gặp may mắn khi tìm được các doanh nhân xứng đáng với lòng tin của họ. Thú thực, tôi cũng là người trong nghề (tôi chìa cho anh ta xem đanh thiếp của mình) và tôi đến đày không phải là vì sự tò mò, anh có thể tin ở tôi mà. Tôi đến là vì đề nghị của huân tước Godalming. Ông ấy có nhờ tôi tìm hiểu một vài thông tin về người chủ sở hữu, tức là người cách đây không lâu đã gạ bán ngôi nhà này cho ông ấy.
Câu nói của tôi khiến tay nhân viên máy móc này thay đổi thái độ ngay lập tức.
- Có đúng là như vậy không? Trước đây, đã có lần ông ấy nhờ chúng tôi tìm hộ một căn nhà độc thân để thuê ở, khi ông ấy còn là Arthur Holmwood đáng kinh kia. Nếu ngài để lại cho tôi địa chỉ của huân tước Godalming, tôi sẽ nói giùm với ngài giám đốc của tôi một câu. Sau đó, tôi sẽ cố gắng gửi thư cho huân tước ngay tối nay. Chắc sẽ chẳng có gì vi phạm nguyên tắc khi phải cung cấp cho huân tước của ngài vài thông tin vặt.
Tôi chỉ còn biết cám ơn tay nhân viên và để lại cho anh ta dòng địa chỉ của bác sĩ Seward trước khi nói lời chào tạm biệt. Bên ngoài, trời đã tối đen. Cảm thấy vừa mệt, vừa đói, tôi dùng tạm một ly trà đường trước khi lên tàu trở về Purneets.
Về đến nhà, tôi thấy mọi người đang ngồi cả ở phòng khách. Mina trông vẫn xanh rớt và thậm chí còn có vẻ mệt mỏi hơn cả lúc buổi sáng, dù cô vẫn cố gắng tỏ ra vui vẻ với mọi người. Tôi cảm thấy nhói đau trong lòng khi nghĩ mình phải cắn răng giấu kín cô ấy bao nhiêu chuyện, trong khi chính điều đó lại càng làm .cho cô ấy lo lắng nhiều hơn. Ơn Chúa! Đây sẽ là đêm cuối cùng cô ấy ngồi quây quần bên chúng tôi với cảm giác mình không còn được ai tin tưởng nữa.
Về phần mình, tôi phải rất cố gắng mới đưa ra được quyết định hợp tình, đạt lý của mình đối với cô. Mina có vẻ hoàn toàn chấp nhận lời khuyên nhủ của tôi.
Hay là cuộc phiêu lưu của chúng tôi bây giờ đang thực sự làm cô khiếp sợ?
Cũng may chúng tôi đã đưa ra một quyết định kịp thời, nếu không, những khám phá mới của chúng tôi sẽ chẳng khác nào những đòn tra tấn nhằm vào cô cả ngày lẫn đêm.
Phải đợi đến khi những người đàn ông chúng tôi ngồi riêng với nhau, tôi mới có thể báo cáo trước cả nhóm về những điều mình vừa mới điều tra được hôm nay. Bởi vậy, ăn tối xong - và sau khi ngồi nghe nhạc thư giãn một lúc – tôi mới cùng Mina đi lên trên gác. Chưa bao giờ tôi thấy Mina âu yếm với mình đến vậy, cô quàng tay ôm chặt lấy tôi như không muốn để tôi bỏ xuống dưới một lần nữa, nhưng tôi còn rất nhiều điều phải kể lại với những người bạn đang ngồi đợi ở dưới kia, vì thế tôi buộc phải trở xuống và để người vợ trẻ thân yêu ở lại một mình. Cầu Chúa hãy ban phước lành cho chúng tôi! Mặc dù có những lúc buộc phải im lặng với nhau về chuyên này chuyện khác, nhưng tình cảm giữa hai chúng tôi sẽ chẳng bao giờ thay đổi.
Lúc tơi xuống dưới nhà, bác sĩ Seward và những người bạn đang ngồi quanh bếp lửa trong phòng. Tôi đọc lại cho họ nghe đoạn nhật ký mà tôi vừa tranh thủ viết khi còn ngồi trên tàu. Nghe tôi đọc xong, Van Helsing phán ngay :
- Một khám phá rất quan trọng, anh bạn Jonathan ạ! Không còn nghi ngờ gì nữa, chúng ta sắp tìm ra các thùng gỗ ấy rồi. Nếu chúng được giấu cả trong ngôi nhà Piccadilly thì công việc của chúng ta cũng sắp sửa được hoàn thành đến nơi. Nhưng hễ còn thiếu thùng nào, chúng ta sẽ còn phải vất vả vì thùng đó! Nếu cớ đủ mọi thông tin cần thiết, chúng ta chỉ còn việc đưa ra một đòn quyết định để tống tiễn con quỷ đó về với cái chết thực sự của nó.
Chúng tôi trầm ngâm suy nghĩ cho đến lúc Moriss đột nhiên lên tiếng :
- Anh thử nói xem chúng ta phải vào ngôi nhà đó bằng cách nào?
- Thì cũng như ngơi nhà hoang bên kia thôi? – Huân tước Godalming đáp lại ngay tức thì. Anh nói rõ hay chửa! Làm gì có chuyện dễ như thế! Để vào Carfax, chúng ta có thể dùng móc để mở khóa. Hơn nữa, chúng ta lại được đêm tối và một khu vườn um tùm có tường bao quanh bảo vệ. Nhưng với ngôi nhà Piccadilly lại là một chuyện hoàn toàn khác, cho dù là ngày hay đêm thì cũng vậy thôi. Thú thực tôi vẫn chưa hiểu ta phải vào đó bằng cách nào, nếu như không có một ai đó cho mượn chìa khóa. Có lẽ sáng mai, khi anh nhận được thư của tay nhân viên kia, chúng ta phải xét đến chuyện này.
Huân tước Godalming đứng dậy đi lại khắp phòng, mặt mày cau lại vì nghĩ ngợi. Rồi anh dừng lại nhìn chúng tôi khắp lượt :
- Quincey nói cũng có lý đấy. Làm việc này chẳng khác nào đi ăn trộm. Chúng ta đã một lần chót lọt, nhưng lần này thì quả là một công việc khó khăn thực sự rồi... trừ phi bằng cách nào đó, chúng ta lấy được chìa khóa của lão bá tước. Vậy là chúng tôi chẳng thể đưa ra bất cứ một quyết định gì trước khi huân tước Godalming nhận được thư của công ty Mitchell vào sáng ngày mai. Tôi chỉ còn biết tranh thủ ghi thêm mấy dòng về những việc cuối ngày vào cuốn nhật ký của mình, rồi lặng lẽ đi ngủ, khi đã cảm thấy trong người mệt mỏi rã rời.
Tuy nhiên, vẫn còn đôi dòng nữa tôi không thể không ghi lại. Mina đang ngủ rất say với những hơi thở đều đều. Tôi bỗng cảm thấy thật xót xa khi nhận ra những nếp nhăn trên vầng trán thanh tao của cô. Dường như ngay cả trong giấc ngủ, nỗi ưu tư, phiền muộn vẫn không chịu buông tha cô. Ngày mai, tôi hy vọng tất cả sẽ lại bình thường khi cô được trở về chính ngôi nhà của hai vợ chồng tôi ở Exerter. Ôi! Sao mà buồn ngủ thế không biết!
Nhật ký của bác sĩ Seward
Ngày 1 tháng 10
Một lần nữa tôi không thể không nói về chuyện của bệnh nhân Renfield. Thứ nhất, tính khí của hắn bỗng có sự thay đổi đúng vào khi tôi kịp nắm bắt được lý do tại sao hắn lại xử sự lúc thế này, khi thế kia. Mặt khác, khi sự thay đổi tính khí của hắn không chỉ phụ thuộc duy nhất vào sự thoải mái trong nội tâm hắn, thì việc nghiên cứu sự thất thường trong con người hắn dường như lại mang tới cho tôi một lợi ích nghề nghiệp đáng kể. Sáng nay, lúc tôi tới tìm hắn, sau khi hắn có cuộc nói chuyện không mấy dễ chịu với Van Helsing, cách xử sự của hắn đúng là cách xử sự của một kẻ hoàn toàn làm chủ được vận mệnh của mình theo thiên hướng chủ quan. Quả thực hắn chẳng thèm bận tâm gì đến những chuyện của trần thế. Hắn đang sống trên chín tầng mây, và chính từ cái nơi vời vợi ấy, hắn đã nhìn chúng tôi chẳng ra sao cả. Tôi nghĩ chuyện hỏi hắn để may ra có thể hiểu thêm được một điều gì đó :
- Thế hôm nay anh nghĩ sao về những con ruồi?
Hắn cười khẩy nhìn tôi bằng ánh mắt kẻ cả :
- Ruồi hả? Ông muốn nói về ruồi chứ gì? Thưa với ông rằng giống này lúc nào cũng có một tính cách thật ấn tượng đôi cánh mỏng manh của chúng luôn thể hiện rất lý tưởng sức mạnh không gian của các bộ môn tâm linh. Các bậc tiền nhân xưa rất có lý khi thể hiện linh hồn dưới dạng một cánh bướm?
Tôi rất muốn hắn tiếp tục cái kiểu lý luận như vậy sao cho thật lôgích với suy nghĩ của hắn, bởi vậy, tôi không ngần ngại đáp lời :
- Ồ! Vậy đó có phải là cái linh hồn mà ông đang tìm kiếm không?
Hắn không biết lý luận ra sao nữa, nhưng hắn vẫn lắc đầu quầy quậy và quả quyết trả lời :
- Không, không, không phải như vậy! Vấn đề không phải là linh hồn! Tôi chỉ muốn cuộc sống và chỉ thế mà thôi! Vả lại, tôi thấy cuộc sống thật công bằng với mình. Cuộc sống đối với tôi lúc này là một sự hoàn hảo, tôi đã có tất cả những gì mình muốn. Bác sĩ ạ, nếu như ông muốn nghiên cứu sâu hơn về bệnh tâm thần thì có lẽ ông nên tìm cho mình một bệnh nhân khác đi!
- Vậy là anh đã sắp đặt được cuộc sống, anh đã lên tới bậc thánh rồi còn gì?
Hắn lại nhếch mép cười bằng thái độ kẻ cả, nhưng lần này có vẻ đỡ trịnh thượng hơn.
- Ồ, không! Tôi nghĩ còn lâu mình mới có những thuộc tính của Chúa Trời. Thậm chí tôi cũng chẳng có liên quan gì đến những lời, thuyết giảng của Ngài. Nếu như tôi phải định nghĩa trạng thái trí tuệ của mình so với những gì thuộc về phàm tục, thì hẳn nó sẽ phải ngang bằng với thứ hạng của Enoch.
Những lời hắn nói đối với tôi thật mơ hồ, quả thực là tôi không thể nhớ nổi nhân vật có tên là Enoch của hắn có một vị trí như thế nào.
- Ngang hàng với Enoch kia à? Tại sao vậy?
Bởi ông ta được sánh với Chúa.
Dù không hiểu được một mối liên hệ nào trong những lời hắn nói, nhưng tôi vẫn không định nói ra thắc mắc của mình. Tôi muốn hắn quay trở lại với những gì hắn nói lúc đầu.
- Vậy là anh chẳng có gì bận tâm đến linh hồn, và cuộc sống này cũng chỉ làm anh động lòng có đôi chút. Anh có thể nói tại sao không?
Tôi xẵng giọng hỏi cất để hắn lúng túng, xem hắn trả lời thế nào. Có lẽ tôi đã thành công, bởi sau một lúc nghĩ ngợi bế tắc hắn đã thực sự hạ mình xuống đúng như điệu bộ tầm thường mọi ngày của hắn.
- Tất nhiên là không, tôi không cần bận tâm đến linh hồn làm gì, đơn giản là tôi không thích, và đó hoàn toàn là sự thật. Tôi chỉ làm những gì mình có; linh hồn đối với tôi chẳng dùng để làm gì cả. Tôi không thể lấy linh hồn để mà ăn, cũng chẳng thể...
Hắn chợt im lặng giữa chừng, nét mặt thoáng lộ rõ vẻ gian xảo như một làn gió thổi gợn mặt nước hồ.
- Còn với cuộc đời ? Xét cho cùng, nó là cái thá gì chứ, thưa bác sĩ? Một khi đã được vui vẻ với những gì mình muốn và thấy mình chẳng bao giờ bị thiếu thốn, thì tôi xin được hỏi là ông có thấy cần phải chờ đợi một cái gì khác nữa không? Bác sĩ ạ, tôi cũng có những người bạn tất như ông, và tôi cũng biết tôi sẽ chẳng bao giờ thiếu cái mình cần để có chỗ đứng trong cuộc sống này.
Tôi nghĩ mặc dù đầu óc hắn đang nghĩ ngợi rất mông lung, nhưng hắn vẫn hiểu tôi không hề tán tưởng mớ lý luận của hắn, bởi sau những lời giải thích có vẻ như rất thật ấy, hắn bỗng im bặt. Biết là có tiếp tục cuộc nói chuyện cũng chẳng giải quyết được điều gì, tôi đành bỏ mặc hắn một mình trong phòng và ra về.
Nhưng chỉ được một lúc, lại có người đến phòng gọi tôi và bảo rằng Renfield đang rất muốn được gặp tôi một lần nữa. Bình thường, tôi chỉ tới gặp hắn khi có một lý do cụ thể nào đó, nhưng lần này, tự nhiên tôi lại cảm thấy hắn thú vị đến nỗi không thể từ chối lời thỉnh cầu của hắn. Hơn nữa, nếu từ chối hắn trong lúc này thì tôi cũng chẳng còn biết mình phải làm gì nữa. Jonathan phải tiếp tục cuộc điều tra mới, huân tước Gođalming và Quincey cũng không có ở nhà. Còn Van Helsing thì đang mê mải xem lại những tài liệu mà vợ chồng nhà Harker đã chuẩn bị trong phòng làm việc của tôi. Ông không muốn ai tới quấy rầy nếu không có lý do chính đáng. Thực ra, tôi rất muốn ông đi cùng tôi tới phòng Renfield, nhưng nghĩ tới cuộc nói chuyện vừa rồi giữa hai người, tôi lại thôi.
Hơn nữa, tôi sợ Renfield không nói chuyện cởi mở nếu xuất hiện thêm một người thứ ba.
Như thường lệ, cứ nhìn thấy hắn ngồi chồm hỗm trên cái ghế đẩu đặt giữa phòng là tôi biết ngay đầu óc hắn đang “tư duy”. Nhác trông thấy tôi ló mặt vào, hắn liền quay ra hỏi luôn, cứ như từ nãy đến giờ, câu hỏi lúc nào cũng thường trực ở cửa miệng hắn :
- Ông nghĩ sao về linh hồn?
Tôi đã không nhầm: ở các bệnh nhân tâm thần, cũng như ở người bình thường vậy, thỉnh thoảng đầu óc vẫn làm việc trong trạng thái không có ý thức.
Nhưng tôi phải kiểm tra xem sao.
- Thế còn anh, anh quan niệm về nó như thế nào? – Tôi hỏi lại.
Hắn ngồi im không trả lời, mắt hết nhìn lên trần nhà lại nhìn xung quanh bốn bức tường như thể đang muốn tìm nguồn gợi ý từ một sự vật nào đó cho câu trả lời của mình.
- Tôi không muốn một linh hồn nào cả! - Hắn trả lời lí nhí như lẩn tránh sự thật.
Tôi có cảm giác trong đầu hắn không phải là không có một ý nghĩ cụ thể nào, bởi vậy, tôi quyết định “làm tới” sự thật đó.
- Anh vẫn rất yêu cuộc sống và rất muốn được sống, đúng không nào?
- Ồ! Đúng thế, đúng thế! Cuộc sống là cái mà chúng ta, ai cũng muốn?
- Nhưng làm sao để có được cuộc sống mà lại không phải phủ nhận sự tồn tại của linh hồn kia chứ?
Thấy hắn có vẻ lúng túng vì câu hỏi khó này, tôi tiếp tục tấn công :
- Tôi rất muốn anh có những phút êm đềm khi bay khỏi đây với linh hồn của hàng ngàn con ruồi, nhện, chim, mèo cùng với âm thanh líu lơ, vo ve và những tiếng kêu meo meo ngập tràn xung quanh! Anh đã lấy đi cuộc sống của những sinh vật ấy, bởi vậy anh cũng nên chấp nhận một chút linh hồn của chúng chứ!
Có vẻ như tôi đã đánh trúng trí tưởng tượng của hắn, bởi tôi thấy hắn bỗng bịt tai lại, hai mắt nhắm nghiền như một đứa trẻ bị xát xà phòng vào mặt. Tôi cảm thấy xúc động đến khó tả, trước mặt tôi dường như là một đứa trẻ, mặc dù nét mặt mang đầy dấu ấn của một kẻ đã già. Trong đầu hắn hẳn lại đang trải qua một xáo trộn nữa. Biết rõ kiểu lý giải và cách xử sự của hắn trong những lần tranh cãi trước, tôi nghĩ mình phải hết sức thận trọng khi tìm hiểu dự kiến đang hình thành trong đầu hắn. Trước hết phải làm cho hắn tin. Tôi hỏi hắn, giọng cố nói thật to cốt để hắn nghe cho rõ, bởi hắn vẫn đang bịt chặt tai :
- Anh có muốn lấy ít mật để gọi ruồi đến không?
Hắn gật đầu, vừa cười vừa trả lời như hiểu ngay ra vấn đề :
- Ồ! như ông biết đấy, xét cho cùng thì ruồi cũng chỉ là những con vật nhỏ bé đáng thương... - Hắn chợt im bặt rồi lại nói tiếp - Nhưng dù sao tôi cũng không muốn mình bị linh hồn của chúng suất ngày vo ve xung quanh.
- Thế còn lũ nhện thì sao?
- Tôi cũng chẳng coi lũ nhện ra sao cả? Chúng có ích gì chứ? Chẳng có gì trong cái vỏ thân xác của lũ nhện có thể ăn hay....
Hắn lại chợt im bặt như vừa sực nhớ ra một điều gì đó không thể nói ra.
“Tốt rồi, tốt rồi! - Tôi nghĩ bụng. Đây là lần thứ hai hắn im bặt khi định nói từ uống. Tại sao chứ?”
Chắc đã nhận ra sai lầm trong câu nói nửa chừng, nên hắn mới quay sang chuyện khác như muốn đánh đánh trống lảng :
- Tôi chẳng hề quan tâm đến những gì đại loại như chuột chù, chuột nhắt và tất cả những con vật nhỏ bé làm thức ăn cho gà nếu nói như Xếch-xpia! Tôi thấy ta nên chấm dứt câu chuyện về những con vật ngu ngốc này đi! Bắt tôi quan tâm đến những con vật mạt hạng này sẽ chẳng khác nào bảo một người Âu dùng đũa Tàu để gắp những miếng ăn nhỏ xíu! Tôi luôn hiểu những gì đang chờ đợi mình?
- Tôi biết rồi! Cái anh muốn, đó chính là những con vật mà anh có thể ngoạm từng miếng ngập răng kia. Anh có cần người ta mang tới cho anh một con voi để điểm tâm không?
- Điên rồ! Ông nói cứ như một thằng điên ấy!
- Renfield này, tôi đang tự hỏi không hiểu con voi có một linh hồn như thế nào đấy? - Tôi nói, mặt ra vẻ rất đăm chiêu.
Tôi đã đạt được hiệu quả mong muốn đối với tên bệnh nhân của mình, bởi ngay sau đó, hắn đã mất hẳn cái vẻ trịnh thượng, thay vào đó là cách xử sự như một đứa con nít :
- Tôi không thèm linh hồn của của con voi, cũng chẳng cần bất cứ một linh hồn nào cả.
Rồi hắn ngồi ngây người như phỗng và không thấy nói thêm câu nào nữa.
Được một lát, hắn bỗng đứng bật dậy, đạp mạnh chiếc ghế đẩu sang một bên, mắt long sòng sọc như vừa chợt nghĩ ra một điều gì đó.
- Quỷ tha ma bắt ông và những linh hồn của ông đi? - Hắn gắt lên. - Tại sao ông cứ quay tôi bằng những linh hồn quỷ quái như vậy chứ? Chẳng phải là linh hồn, mà ở đời này vẫn còn bao nhiêu điều khiến khác tôi phải đau đầu, chóng mặt đến phát điên lên, ông có hiểu không?
Cơn điên bất chợt của hắn khiến tôi hoảng hất, vì sợ mình sắp sửa bị hắn cho một trận đòn nhừ tử. Bởi vậy, tôi phải móc ngay lấy cái còi trong túi và thổi váng lên để gọi mấy tay giám thị. Hắn lập tức dịu giọng xin lỗi tôi :
- Xin lỗi bác sĩ, tôi quên mất. Ông không cần phải gọi người làm gì cả. Có quá nhiều điều bận tâm khiến tôi phải nổi khùng lên một cách vô lý. Giá như hiểu được vẫn đề mà tôi cần phải giải quyết, chắc là ông sẽ chẳng chấp tôi đâu. Xin ông đừng bắt tôi phải mặc áo trói nữa! Tôi cần phải suy nghĩ, và tôi không thể suy nghĩ trong tình trạng cơ thể mình bị bó buộc như một tên tù. Mong ông hiểu và thông cảm cho!
Tất nhiên là hắn đã hoàn toàn làm chủ được bản thân khi dịu giọng nói với tôi. Khi những người giám thị hộc tốc chạy tới, tôi bảo họ có thể rút lui. Renfield đứng im nhìn họ ra về. Đợi cửa đã khép lại sau lưng họ, hắn mới bảo tôi, giọng vẫn nhẹ nhàng nhưng có phần nghiêm túc hơn :
- Thưa bác sĩ Seward, quả thực là ông đã rất tận tụy với tôi trong những ngày qua, tôi thực sự ghi nhận tấm lòng cao cả của ông.
Tôi chỉ gật đầu rồi ra về, bỏ mặc hắn với cái ý nghĩ mà hắn không thể dứt ra được trong đầu. Trường hợp của hắn thật xứng đáng để tôi phải hết sức chú ý kiểm tra, theo dõi.
Bây giờ, tôi đã có thể rút ra một số điểm mà bấy lâu tối chưa để ý về hắn :
Hắn chưa bao giờ nhắc đến từ “uống”.
Hắn sợ cái ý nghĩ bị “linh hồn” của bất cứ một sinh vật nào quấy rầy.
Hắn không sợ thiếu những gì hắn cần “để sống”. Hắn khinh bỉ mọi hình thức sống bậc thấp, tức là “những con vật nhỏ”, mặc dù hắn nghi mình bị ám bởi cái linh hồn của chúng.
Xét về lôgích, tất cả điều này nói lên rằng hắn có một niềm tin rất vững chắc ở một cuộc sống bậc cao. Nhưng hắn lại rất sợ phải mang một gánh nặng linh hồn? Quan niệm về đời người của hắn là thế đấy?
Nhưng còn niềm tin của hắn? Không hiểu niềm tin ấy đã xuất phát từ đâu?...
Lạy Chúa cứu khổ cứu nạn? Chính bá tước Dracula là kẻ đã đến với hắn và gieo rắc vào đầu hắn niềm tin của cuồng vọng. Liệu có còn sự khủng khiếp nào đang chờ đợi chúng tôi nữa không?
Một lúc sau - Tôi kể cho Van Helsing nghe những hoài nghi trong lòng về Renfield. Dường như câu chuyện tôi kể đã làm ông nghĩ ngợi rất nhiều. Sau khi nghe tôi kể một lúc, ông đề nghị tôi dẫn đến gặp hắn. Đến gần cửa phòng hắn, hai chúng tôi hơi ngạc nhiên khi nghe thấy có tiếng hát, một giọng hát rất vui vẻ. Bước vào phòng, chúng tôi còn ngạc nhiên hơn khi thấy những hạt đường được rải đầy gờ cửa sổ. Đàn ruồi, vốn không nhiều vào mùa thu, bắt đầu tới tấp thi nhau bay vào khắp phòng. Chúng tôi định kéo hắn về câu chuyện mà tôi vừa có dịp hàn huyên với hắn nhưng không được, hắn vẫn cứ hát nghêu ngao như chưa bao giờ có chúng tôi ở trước mặt. Hắn đang gấp một mẩu giấy gì đó rồi nhét vào cuốn sổ tay.
Chúng tôi đành lặng lẽ ra về như khi vừa xuất hiện. Tối nay, tôi phải theo dõi xem hắn cố định giở trò gì không.
Thư của Công ty Mitchell, Sons & Candy gửi huân tước Godalming
Ngày 1 tháng 10
“Thưa ngài huân tước,
Chúng tôi thật hân hạnh khi lại có dịp được phục vụ ngài và được phép cung cấp cho ngài - theo đề nghị của ông Jonathan Harker - những thông tin liên quan đến việc mua bán khách sạn số 347 ở Piccadilly. Theo mong muốn của những người thực hiện chúc thư cho ngài Archibald Winter- Suffield để lại, địa ốc này đã được bọn chó bá tước Ville, một người nước ngoài và là người đã trực tiếp giao dịch, trả tiền mua ngôi nhà. Ngoài điều này ra, chúng tôi không biết thêm bất cứ một chi tiết nào về người ngoại quốc này.
Mong tiếp tục có dịp được phục vụ ngài.
Mitchell, Sons & Candy”
Nhật ký của bác sĩ Seward
Ngày 2 tháng 10
Tối hôm qua, tôi đã lệnh cho một tay giám thị đứng ngoài hành lang trước cửa phòng Renfield để theo dõi hắn: ông ta không được phép rời khỏi vị trí một phút nào, và nếu thấy có chuyện gì bất bình thường thì phải báo cho tôi biết ngay lập tức.
Sau bữa tối, chúng tôi quây quần ngồi hút thuốc xung quanh bếp lửa ở phòng tôi (tất nhiên là Mina đã lên giường nằm nghỉ). Ai cũng đăm chiêu theo đuổi ý nghĩ của riêng mình. Quả thực chỉ có Jonathan mới cho phép công việc của chúng tôi đi tới thành công, tất cả chúng tôi đều thửa nhận vai trò quan trọng của anh.
Trước khi đi nghỉ, tôi quay lại chỗ tay giám thị trực đêm xem có vấn đề gì không. Tới phòng Renfield, tôi ngó nhìn hắn qua cửa kính: hắn đang ngủ say với những hơi thở đều đều.
Nhưng sáng nay, tay giám thị lại đến báo cáo với tôi rằng khoảng sau nửa đêm một chút, Renfield bất ngờ tỉnh dậy và không ngớt gào thét, lảm nhảm cầu nguyện. Khi tôi hỏi còn chuyện gì nữa không, tay giám thị trả lời tất cả chỉ có vậy. Tôi đâm nghi ngờ: có lẽ ông ta đã ngủ quên. Khi tôi nói ra điều này, ông ta chối đây đẩy rằng ông ta không ngủ quên, mà chỉ “thiếp đi một lúc”.
Hôm nay, Jonathan vẫn tiếp tục lên đường với mong muốn tìm ra dấu vết mà hôm qua đã phát hiện được, trong khi huân tước Godalming và Quincey đi tìm mua ngựa. Huân tước cho rằng lúc này, mỗi thông tin mà chúng tôi đang chờ đợi đều không thể bị bỏ phí bởi chậm trễ của chúng tôi. Trong thời gian từ lúc mặt trời mọc đến khi mặt trời lặn, chúng tôi phải tìm cách vô hiệu hóa lòng đất chứa trong các thùng gỗ, chỉ có vậy chúng tôi mới có thể đối mặt với lão bá tước khi lão gần như mất hết quyền năng và nơi ẩn náu. Về phần mình, Van Helsing đã tới Bảo tàng Anh để tra cứu các cuốn sách thần y cổ xưa. Các thầy thuốc xưa thường có những khái niệm mà ngày nay chúng ta không còn chấp nhận nữa. Giáo sư muốn tìm những phương thuốc chống ma thuật và quỷ dữ mà ông cho là có ích cho chúng tôi sau này.
Một lúc sau - Chúng tôi lại ngồi họp một lần nữa. Nếu như các dấu vết của lão bá tước được phát hiện rõ ràng, thì có lẽ ngày mai sẽ là sự bắt đầu cho hồi kết của câu chuyện khủng khiếp. Tôi tự hỏi liệu sự nguôi dịu của Renfield lúc này có liên quan gì đến tình hình hiện tại hay không. Giá như chúng tôi biết được suy nghĩ trong đầu hắn trong khoảng thời gian từ lúc tôi nói chuyện với hắn đến lúc hắn bắt ruồi thì chuyện đã dễ phán đoán hơn...
Tay giám thị bỗng hộc tốc chạy vào báo cho tôi biết Renfield đang có chuyện, hình như hắn vừa bị tai nạn. Nghe tiếng hắn kêu thảm thiết, ông ta vội chạy vào thì thấy hắn đang nằm sóng soài dưới nền nhà, mặt úp xuống đất, máu me đầm đìa. Tôi tức tốc chạy đến phòng hắn...
Xem tiếp chương 21