Phần 1- Hải chiến tại vùng biển san hô (tiếp)
Một tình huống kỳ quái xảy ra trong đêm, khi đó những phi công đồng minh đang quay trở về tàu sân bay Yorktown thì có 18 chiếc máy bay Nhật gia nhập đội hình. Những phi công Nhật mỏi mệt sau
một ngày dài đã nhầm chiếc Yorktown là tàu của họ. Chỉ khi những phi công Mỹ khai hoả, người Nhật mới biết được sự nhầm lẫn của mình và bay đi.
Lúc bấy giờ, trên đài chỉ huy của chiếc HMAS Australia là chuẩn đô đốc Crace, thuyền trưởng chiếc kỳ hạm Harold Francomb, cùng những sĩ quan chuyên trách. Hải đội của Crace được gọi là
Lực lượng Anzac. Lúc 10h30, Crace ra lệnh cho toàn đơn vị vào vị trí sẵn sàng chiến đấu, tiếng kèn hiệu vang lên trên khắp con tàu. Đó là cấp độ sẵn sàng đầu tiên. Tất cả các cửa sập, cửa không thấm nước đều được đóng lại. Tất cả các tháp pháo, ụ súng, kho chứa đạn dược, các vị trí cấp cứu đều phải trong tình trạng sẵn sàng. Các bác sĩ, y tá trực chiến trong các trạm xá. Cha tuyên uý cũng sẵn sàng giúp đỡ những ai bị thương hay hấp hối. Những bữa ăn vẫn được cung cấp trong khi giao chiến. Hải đội di chuyển với vận tốc 25 hải lý/h hướng về eo Jomard (lối vào biển San hô) trước khi trời tối. Crace cùng đội tàu của mình giờ đây hoàn toàn tách ra khỏi hạm đội Mỹ, các tàu đều được sơn xám và nguỵ trang. Nhiệm vụ của lực lượng Anzac bây giờ là tuần tra, bảo vệ eo Jomard (gần quần đảo Louisiade), đây là nơi mà lực lượng Nhật đổ bộ chiếm cảng Moresby sẽ đi qua. Lực lượng Anzac nói chung dễ bị tổn thương vì không có không quân hỗ trợ.
12h09, chiếc Sims lãnh cú đánh trực tiếp đầu tiên. Trong vòng nửa giờ, nó bắt đầu chìm. Chiếc Neosho bắn rơi một chiếc máy bay ném bom của Nhật. Viên phi công lái máy bay lao vào boong tàu, làm bùng lên một ngọn lửa và lan nhanh ra cả mạn phải. Thủy thủ trên chiếc Sims cố gắng thoát qua chiếc Neosho, trong khi thủy thủ đoàn của Neosho lại đang hoảng loạn và đang cố bỏ tàu lên những chiếc bè cứu sinh.

Dù cố gắng nhưng ko tìm thấy hình kết thúc của Sims, a e xem tạm cái này vậy


Đây là bạn đồng hành Nesho

This is, most likely, the last picture taken of the U.S.S. Neosho It was taken from a Japanese plane about 1 p.m. on May 7, 1942, after a large squadron of Japanese torpedo planes and dive bombers attacked the Neosho and its escort, the destroyer
1 số thông số của cô nàng này
Displacement 7,470 t.(lt) 24,830 t.(fl)
Length 553'
Beam 75'
Draft 32' 4"
Speed 18 kts.
Complement 304
Armament
four single 5"/38 dual purpose gun mounts
four twin 40mm AA gun mounts
four twin 20mm AA gun mounts
Cargo Capacity 146,000 barrels
Propulsion, geared turbines twin screws. 30,400hp
5h chiều, hai hạm đội đang ở rất gần. Trước đó phía Mỹ đã tấn công một cách nhầm lẫn vào một đội tàu mà họ nghĩ là đội chủ lực. Còn phía Nhật thì tấn công một tàu chở dầu và tàu hộ tống của nó. Người Mỹ quay lui trở ra, đô đốc Fletcher hướng về phía đông nam để đợi đến sáng. Người Nhật đi về phía bắc, nhiệm vụ của họ là yểm trợ lực lượng chiếm Moresby chứ không phải tiêu diệt hạm đội Mỹ.
Thủy thủ đoàn của Neosho và những người sống sót từ chiếc Sims đang chờ đợi lực lượng tiếp cứu. Neosho vẫn chưa bị chìm, các hoa tiêu cố gắng thông báo vị trí của họ trước khi điện bị cắt hoàn toàn.
Về phía Lực lượng Anzac do Crace chỉ huy, đến cuối buổi chiều hôm đó, họ phát hiện một đội phi cơ đang hướng về phía mình, ước tính có khoảng 21 máy bay. Chúng được trang bị một quả bom 800 kg hay một ngư lôi với đầu đạn chứa nửa tấn TNT và được đẩy đi bằng một hỗn hợp oxy lỏng và không khí. Những ngư lôi có tốc độ khoảng 90 hải lý/h, tầm hoạt động 20km và có thể đánh đắm hầu như mọi con tàu
Khi bom Nhật bắt đầu rơi xuống, thuyền trưởng Farncomb của chiếc kỳ hạm HMAS Australia đủ kinh nghiệm để đưa chiếc tàu tránh khỏi nơi mà những quả bom rơi xuống 10 giây sau. Đội tàu di chuyển trong đội hình viên kim cương, hướng về phía những phi đội Nhật. Thuyền trưởng của mỗi con tàu thực hiện các hành động tránh bom của riêng mình, với những yêu cầu đặc biệt lớn đặt lên những động cơ. Từ trên đài chỉ huy, liên tục là những yêu cầu tăng thêm vòng quay động cơ, hay những cứ ngoặt dữ dội ở cả 2 mạn tàu, và nhiều lần gần như đã đạt đến điểm giới hạn của con tàu.
Những thợ máy trong buồng động cơ sớm nhận ra những âm thanh lốp bốp mà họ nghe thấy là từ những đinh tán rivê rơi ra từ sườn tàu và những chỗ nối dưới làn mưa đạn từ trên không bắn xuống. Còn những thủy thủ trên boong thì nghe được những tiếng vù vù bên tai do những làn đạn đang xẹt qua. Lực lượng Anzac đáp trả với tất cả những gì họ có. Ngay cả những khẩu trọng pháo cỡ 200mm cũng bắn ra những viên đạn 120 kg để tạo ra những bức tường nước trước mặt những phi cơ bay thấp.
Những máy bay Nhật gầm rú trên không, phía dưới, những khẩu súng phòng không liên tục nhả đạn. Cao xạ bắn ra những viên đạn 40mm hay súng máy 6 nòng Oerlikon bắn ra những tràng đạn 13mm. Đã có một quả ngư lôi chạy ngang qua bên dưới chiếc USS Chicago. HMAS Hobart bị một lỗ thủng khổng lồ trên ống khói. Nhưng nói chung thì thiệt hại cho Anzac là không lớn, do hoả lực phía Nhật không chính xác. Có 3 người Mỹ và 6 người Australia bị thương hay thiệt mạng.
Sự kháng cự kiên cường của lực lượng Anzac đã khiến lực lượng đổ bộ chiếm Moresby của Nhật (Chiến dịch MO) lúng túng. Trong khi đó, lực lượng tàu sân bay hỗ trợ cho đơn vị này lại đang phải giao chiến với Mỹ, kết quả là đô đốc Takagi và Goto phải rút khỏi trận chiến, có lẽ là lần đầu tiên sau 1000 năm lịch sử hải quân Nhật.
|