Thần Đồng Đất Việt (tt)
LÊ VĂN HƯU
(1230-1322 )
1. Cả Quán học kinh ngạc
Cách đây 6-7 trăm năm, vùng Kẻ Rị (nay là xã Thiệu Trung, huyện Đông Sơn, Thanh Hoá) là một vùng đất trù phú, tấp nập trên bộ, dưới thuyền và cũng là một trung tâm văn hoá của Châu Ái. Nơi đấy, thuở ấy có Lê Lương, một hào trưởng cự phách, nổi tiếng khắp vùng bởi “thóc chứa hàng trăm lẫm, trong nhà nuôi 3000 khách”. Ông được Đinh Tiêmn Hoàng phong cho chức Bộc xạ tướng quân.
Ngày nay còn có 2 cái cột treo chuông bằng đá, dấu tích của một ngôi chùa lớn gọi là chùa Hương Nghiêm, do Lê Lương khởi dựng. Còn giếng đất, tương truyền cũng từ thời Lê Lương và có lần quan thập đạo tướng quân Lê Hoàn đã về đây thăm ông Lương, quân sĩ ăn uống suốt mấy ngày, bát chén không kịp rữa, đổ cả xuống giếng. Dân vùng này vẫn còn truyền miệng câu nói: “Nhất nhật đãi tam thiên khách” (một ngày đãi 3000 khách) và hiện nay đào ở giếng vẫn còn thấy những mãnh bát đĩa…
Thuở bấy giờ, đầu làng Thần Hậu (nay là làng Phủ Lý Nam), có dựng một ngôi nhà gọi là Quán Học, để cho những người biết chữ nghĩa giảng thơ, bình văn và con em trong làng đến học tập. Mảnh đất từ xa xưa xây dựng Quán Học, đến nay các cụ vẫn còn hình dung được.
Vùng đất đó chính là quê hương của bảng nhãn Lê Văn Hưu, người đã viết bộ lịch sử đầu tiên của nước ta và vị tổ 7 đời của ông, chính là Bộc Xạ tướng quân Lê Lương nói trên.
Theo sử liệu cho biết thì thân sinh của ông là Lê Văn Minh bị bệnh chết lúc ông Hưu còn trong bụng mẹ. Lớn lên khoảng 4-5 tuổi Lê Văn Hưu thường mon men ra Quán Học để xem các anh trong làng học hành và người lớn giảng thơ, bình văn. Nhiều lần thầy đồ thấy Hưu đã nhắc bài cho các anh. Lấy làm lạ ông bèn viết mấy chữ nho lên giấy, giảng cho cậu bé hiểu, sau đó viết sang tờ khác những chữ trên, rồi hỏi thì cậu bé Hưu đọc không sai chữ nào. Mọi người nơi Quán Học đều lấy làm kinh ngạc và cho rằng Lê Văn Hưu là một thần đồng.
2. Thích chiếc dùi đóng vở
Bố chết sớm, mẹ của Lê Văn Hưu chịu ngoá quyết nuôi con ăn học. Bà gửi cậu sang học với thầy đồ họ Nguyễn bên Kẻ Bôn (nay thuộc xã Đông Thanh huyện Đông Sơn, Thanh Hoá). Cậu rất sáng dạ, học đâu nhớ đấy, thơ văn đối đáp rất mau lẹ, được thầy yêu bạn quý.
Tương truyền rằng trên đường Lê Văn Hưu đi học, từ Kẻ Rị sang Phúc Hiền thuộc Kẻ Bôn bấy giờ có một lò rèn dựng ngay bên đường. Mỗi lần đi học về, cậu Hưu thấy bác thợ rèn treo những chiếc dùi cậu thích lắm, ước gì có một chiếc để đóng vở, nên cứ đứng tần ngần, ngắm nghĩa mãi.
Bác thợ rèn biết Lê Văn Hưu là học trò, mặt mài lại sáng sủa, khôi ngô, nên dịu dàng hỏi:
- Cậu muốn cái gì?
- Lê Văn Hưu rụt rè đáp:
- Cháu muốn có chiếc dùi để đóng vở.
Bác thợ rèn liền bảo:
- Tôi ra cho cậu vế đối, nếu đối được, tôi xin biếu không. Câu đồi thế này: “Than trong lò, lửa trong lò, sắt trong lò thổi phì phò đúc nên dùi vở”.
Lê Văn Hưu không chút lưỡng lự, đối ngay: “Giấy trong túi, bút trong túi, mực trong túi, viết lúi húi mà đậu khôi nguyên”.
Vế ra của bác thợ rèn nói đến lao động khó nhọc của người thợ rèn (thổi phì phò), với những công cụ của nghề rèn (lò, than, sắt, lửa) để làm ra sản phẩm là chiếc dùi vở. Vế đối của Lê Văn Hưu đã mô tả việc học tập cần cù của người học trò (viết lúi húi), với những công cụ học tập (túi giấy, bút, mực) để cùng đạt được thành quả là thi đỗ, nhưng là đỗ khôi nguyên. Thật là một ước mơ, hoài bão rất cao, rất đẹp đối với một cậu học trò mới 11 tuổi.
Bác thợ rèn tấm tắc khen ngợi, rồi tặng Lê Văn Hưu một chiếc dùi vở đẹp nhất và còn thưởng thêm cho cậu 3 tiền nữa.
3. Người bạn tâm giao
Mẹ Lê Văn Hưu họ Đỗ, người thôn Phúc Chữ, ông ngoại là Đỗ Tất Bình, một nhà nho tinh thông địa lí, am hiểu các kiểu mộ táng.
Bà mẹ thấy con mình trí tuệ sáng láng, học hành tấn tới nên rất mừng. Bà muốn luôn được ở bên cạnh để nhắc nhở con học tập, nên đã nhờ thợ đúc đồng ở Kè Chè gần đấy đúc cho một chiếc đèn, hình con rồng, bà lại đem mấy viên ngọc gia bảo của cụ tướng quốc Bộc xạ, được vua Lê Đại Hành ban cho, để khảm vào mắt rồng. ban đêm, ánh ngọc toả sáng cho Lê Văn Hưu học. Chiếc đèn này trở thành người bạn tâm giao được ông Hưu quý mến, luôn luôn mang theo bên mình. Sau này khi đã đỗ đạt ra làm quan, cây đèn vẫn soi sáng cho ông suốt đêm này, đêm khác, để biên soạn thành công 30 quyển Đại Việt Sử ký- bộ quốc sử đầu tiên của nuớc ta.
Cây đèn là bảo vật tổ tiên họ Lê mà người mẹ đã gửi gắm lại cho Lê Văn Hưu để nhắc nhở con chăm chỉ học hành, xây dựng sự nghiệp. Nó gắn chặt với cả cuộc đời ông và tương truyền rằng khi ông mất cây đèn cũng được mai táng theo.
4. Được thầy chọn làm rể
Hồi học vời thầy đồ họ Nguyễn, Lê Văn Hưu đã tỏ ra là có tài ứng đối. Tương truyền một lần ông đang ngồi học trong nhà, bỗng thấy hai cô gái con thầy phơi đậu ở ngoài sân, làm ông mãi nhìn, không chú ý vào sách nữa. Thầy đồ nhận thấy bèn đọc to câu đối:
“sân trước phơi đậu, sân sau phơi đậu, ngươi muốn đậu ta cho đậu”.
Câu đối thầy đồ ra vừa ngụ ý bảo Lê Văn Hưu biết: Muốn đỗ đạt thì ông sẽ giúp đỡ. Nhưng cũng còn ý khác ngầm nói với người học trò yêu là nếu lấy con gái thầy thì thầy gả cho. Thời xưa ở nước ta vốn có truyền thống thầy giào yêu mến những học trò giỏi, đạo đức tốt bằng cách gả con gài của thầy cho trò và giữ chàng rể ở lại trong nhà nuôi dạy, cho đến khi thi đỗ, chiếm được bảng vàng. Câu nói của thầy đồ họ Đỗ cũng xuất phát từ mối quan hệ tình cảm thầy trò nói trên.
Lê Văn Hưu nghe thầy nói giật nảy mình, nhưng cũng trấn tỉnh được ngay, cậu lễ phép xin đối:
“Cô lớn hái hoa, cô bé hái hoa, ông thám hoa, tôi thám hoa”.
Câu đối của cậu Hưu cũng gồm hai ý: một ý nói đến chuyện học hành thi cử sẽ đỗ thám hoa, còn ý khác nói lên nổi lòng muốn thăm hoa (thám cũng có nghĩa là thăm) của cậu.
Quả nhiên, về sau này thầy đã đồng ý gả con gái đầu là Nguyễn Thị Thanh kết duyên cùng Lê Văn Hưu. Bà thanh thọ đến 82 tuổi, khi mất được tặng là “nhân minh phu nhân”.
5. Hương thơm hoa thiên lý
Một lần, Lê Văn Hưu đi học chậm, thầy đóng cửa ra ngoài, cậu bèn đứng tựa gốc bàng phía trước nhà để chờ. Thầy đồ về thấy liền đọc câu đối: “Con mộc tựa cây bàng dòm (nhìn) nhà bảng nhãn”. Vế đối của thầy dùng lối ghép chữ. Chữ “Mộc” ghép với chữ “bàng” thành chữ “bảng” tức bảng nhãn.
Lê Văn Hưu đối luôn: “Thằng quỷ ôm cái đấu, tựa cửa khôi nguyên”. Vế đối đã dùng chữ “quỷ” ghép với chữ “đấu” thành chữ “khôi” tức khôi nguyên.
Khi chuẩn bị về kinh sư để dự thi, Lê Văn Hưu đến chùa Báo Ân (nơi xã Đông Tân, huyện Đông Sơn ngày nay) học tập thêm. Thuở đó ở nước ta, đạo Phật rất thịnh hành, nhiều nhà sư có học vấn uyên bác như Pháp Hoa, Huyền Quang… mà sử sách đã ghi. Có lần Lê Văn Hưu gặp một vị sư. Ông này chỉ cây Thiên Tuế ở trước chùa rồi đọc: “Cây thiên tuế sống ngàn năm”.
Ý nhà sư mốn nói: Con người muốn có cuộc sống dài lâu như cây thiên tuế sống ngàn tuổi (chữ hán tihên tuế có nghĩa là ngàn tuổi, ngàn năm).
Lê Văn Hưu trỏ giàn hoa thiên lý cũng trước cửa chùa, đối: “Hoa thiên lý thơm ngàn dặm”.
“Thiên lý” còn có ý nghĩa là ngàn dặm và là loài hoa có mùi thơm toả khắp nơi.
Xu hướng của Lê Văn Hưu là muốn đem tài sức cống hiến cho đời, để lại hương thơm như “hoa thiên lý”, chứ không chỉ hưởng cuộc sống dài lâu mà không giúp gì cho đời, tĩnh tại như cây thiên tuế trong câu đối của vị sư kia.
Quả nhiên, sau đó ít năm đến khoa thi Đinh Mùi (1247), đời vua Trần Thái Tông, Lê văn Hưu đi thi và đỗ bảng nhãn, khi mới 17 tuổi!
Sách xưa còn ghi lại đề bài thi là:
“Áp tử từ kê mẫu du hồ phú” (Bài phú về con vịt từ giã mẹ gà đi chơi hồ).
Bài của Nguyễn Hiền được xếp loại nhất – đỗ trạng nguyên, bài của Lê Văn Hưu xếp loại hai - đạt bảng nhãn, bài của Đặng Ma La xếp loại ba - đạt thám hoa.
Vua Trần đã giữ bảng nhãn Lê Văn Hưu ở lại chốn cung đình để dại dỗ hoàng tử thứ ba là Trần Quang Khải - người sau này đã trở thành thượng tướng quân, lập nhiều công trạng trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên và là tác giả tập thơ “Lạc đạo”, trong có bài “Phò giá về kinh” rất nổi tiếng, được đưa vào sách giáo khoa giảng dạy trong các trường học hiện nay.
Tiếp đó Lê văn Hưu được giữ chức Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc sử viện giản tu và được vua Trần giao trọng trách biên soạn bộ sử chính thống của nước ta. Năm 1272, bộ sử biên soạn xong, gồm 30 tập lấy tên là Đại Việt sử ký. Ông dân vua xem, được nhà vua xuống chiếu ban khen và thưởng 30 lạng kim ngân. Đây là bộ quốc sử đầu tiên của nước ta, giá trị lớn lao là cung cấp nhiều tư liệu lịch sử từ thời Trần trở về trước và hình thành phương pháp viết sử cho các sử gia sau này.
Tiếc rằng bộ Đại Việt sử ký của Lê văn Hưu hiện nay không còn nữa. Hậu thế chúng ta chỉ được biết qua các sách vở thời xưa và 30 đoạn trích lời bình của chính ông, được ghi lại trong bộ Đại việt sử ký toàn thư, hoàn thành vào cuối thế kỷ thứ XVIII. Qua một số tư liệu còn lại, chúng ta thấy Lê Văn Hưu là người coi trọng hai mặt đức, tài của con người, lên án các mặt tiêu cực, đề cao tinh thần dân tộc, ý thức thần dân… Đồng thời cũng toát lên tư tưởng tiên tiến, học vấn uyên bác, rèn luyện từ tuổi thiếu thời. Ta hãy xem Lê Văn Hưu nhận xét: “Phàm người xưa gọi là điềm lành là nói việc dùng được người hiền và được mùa, ngoài ra không có cái gì gọi là điềm lành cả”. Hoặc: “Của không phải là trời mưa xuống, sức không phải là trời làm thay, há chẳng phải là vét máu mỡ của dân ư? Vét máu mỡ của dân gọi là làm việc phúc được chăng?”Quan điểm của ông lấy lợi ích nhân dân làm chuẩn để đánh giá thành tích, công trạng của các vua quan, của các triều đại thống trị như lời dẫn trên, là quan điểm đúng đắn và tiến bộ, có giá trị như mật chân lí vĩnh hằng.
Sau khi nghỉ việc quan nơi triều đình, Lê Văn Hưu về quê Kẻ Rị mở trường dạy học, truyền lại kinh nghiệm cho thế hệ tiếp sau và di du ngoạn đó đây, xem địa hình phong thổ các nơi trong nước. Sách sơn cư tạp thuật còn ghi lại về tài năng giáo dục của ông. Nội dung tóm tắt như sau: Ở vùng Đông Sơn thời đó, có một anh học trò tuổi đã 30 mà học hành dốt nát, chểnh mảng. Người vợ nghe tiếng thầy bảng nhãn họ Lê bèn tìm đến gặp thầy, ướm hỏi:
- Có hạt thóc đã 30 năm, chẳng hay lấy gieo có thể nẩy mầm được chăng?
- Lê Văn Hưu trả lời:
- Nếu giống tốt, vỏ còn lành thì vẫn trồng được!
Người vợ nghe thế mừng lắm, bèn dẩn chồng đến xin thầy Hưu cho được theo học, để nhờ thầy kèm cặp, dạy dỗ mong sao cho nên người giỏi giang. Quả nhiên ít lâu sau, anh học trò dốt nát này học hành tiến bộ vượt bậc, đến khi thi đã chiếm được bảng vàng.
Tương truyền nhà sử học Lê Văn Hưu thọ 93 tuổi. Hiện nay, ở xã Thiệu Trung, huyện Đông Sơn, Thanh Hoá có nhà thờ ông vừa được làm lại. Hàng năm, vào ngày ông mất (23/3), nhân dân khắp nơi đến thấp hương, tưởng nhớ công ơn vị danh nha6n của đất nước.
Một số dân địa phương cón nhờ đôi câu đối đời sau làm treo ở nhà thờ ca tụng nhân cách và sự cống hiến của ông cho quê hương, đất nước như sau:
“Khắc Thiệu Hoá cơ, nam bắc đông tây sơn đầu vọng
Vĩnh Thanh Hoa địa, y quan chương phủ lý lư hương”
tạm dịch:
“ Khắc nền Thiệu Hoá, khắp nam bắc đông tây vọng về núi Thái sao Đẩu.
Vững đất Thanh Hoa, văn chương áo mũ thơm nơi làng xóm quê hương!”
Last edited by Adamsmith; 26-07-2008 at 11:02 PM.
|