Bà Ba Dần thân chinh sang thăm bà bạn. Láng giềng chỗ thân tình qua lại thường xuyên chỉ đánh tiếng từ ngoài sân không cần gõ cửa.
- Này! bà chị thân yêu! Chị phải lo cho sức khoẻ mai sau của chị, chứ tôi thấy chị lu bu suốt ngày, nhà cửa rộng thế này, chị không đau lưng sao? Làm sao cố gắng sinh thêm một cháu gái, chứ lần nữa mãi, tuổi của mình không còn trẻ nữa đâu!
- Bữa nay chị cao hứng gì vậy? Từng tuổi này rồi còn mang trống, không sợ phố phường cười cho ư?
- Chị may mắn thật, ảnh giỏi làm ăn, có bản lĩnh, năng nổ hơn nhà em, giá bà chị có đứa cháu gái nữa, đến lúc về già, nó hủ hỉ ở nhà với mình, đau ốm có đứa nó xoa bóp đấm lưng thì chị toàn phúc toàn mỹ. Chứ con trai bây giờ hả, chúng chỉ lo cho vợ chúng. Mười hai tuổi là chúng chỉ biết mình khi xoè tay xin tiền rồi biệt. Chị lại giỏi nghề gia chánh, phải có đứa cho chị truyền nghề, để thất truyền uổng lắm.
- Cái số thôi! Trời Phật cho gì được nấy.
- Hay là rước một đứa về nuôi. Tây đầm ở xa tí tè, thủ tục nhiêu khê, họ vẫn đến nước mình xin con nuôi. Mình bồng bế, chăm sóc thương yêu, quen hơi lớn lên có đứa hiếu thảo còn hơn con ruột.
- Ai người ta banh da xẻ thịt sinh ra tự dưng đem cho mình. Còn tiền của lấy đâu ra như Tây đầm?
- Nếu có người vì hoàn cảnh muốn gửi gắm một bé cho chị, chị có đồng ý nuôi không?
- Ai vậy?
- Nhưng mà chị rộng lượng bao dung em mới dám nói... Đàn ông mà, thường tình thôi, sẩy nhà là có chuyện này nọ, như con nít vậy, thèm của ngọt thấy kẹo là vồ ngay thôi. Tưởng chuyện qua đường đâu có dè có gieo là có quả.
- Chị nói ai vậy? - Bà Tư ó sinh nghi.
- Nhưng chị bình tĩnh, đừng có giận, em mới dám nói!
- Chuyện thiên hạ, hơi đâu mình giận?
- Không đâu, chuyện có liên quan đến chị!... Đang khóc lóc với nhà tôi ở bển... Tôi sang đây là vì anh Tư anh sợ chị, cầu cứu với vợ chồng tôi... Hừm! Không biết nên nói là may hay là rủi. Cô ấy sinh nở khó khăn nên cháu mới năm tháng đã mồ côi mẹ rồi.
Bà Ba dần kể tỷ mỷ tình hình xảy ra trên nông trại như lời ông Tư ó, rồi thấp giọng:
- Tình cảnh của anh Tư bây giờ tiến thoái lưỡng nan, giao đứa bé về cho bên ngoại nó nuôi thì lương tâm trách móc, cho người khác nuôi thì suốt đời ân hận. Như con gà mắc tóc bên nhà tôi bây giờ, thiếu điều muốn về lạy chị để tạ tội, cầu cứu xin chị mở lòng hỉ xả từ bi thì đại đức của chị ví bằng Quan Âm Bồ Tát, Thị Kính nuôi nấng tiểu đồng ngoài Am Vân.
Bà Tư ó nghe như muối xát trong lòng nhưng ngoài mặt lộ vẻ bình tĩnh để nhử con mồi là ông Tư dám vác xác về.
- Chị về đi, để rồi tôi tính, tôi không tha cho ổng đâu, còn con cái nữa chúng lớn cả rồi, làm sao đây để chúng không coi cha chúng chẳng ra gì. Không lẽ băm vằm ông ra trăm mảnh cho voi dày ngựa xéo.
- Nhưng chị nên nghĩ lại, tội của người lớn, trẻ con nó có tội lỗi gì? Chị càng rộng lượng, anh Tư càng nể trọng chị, lá tìm cội thôi chị Tư à!...
- Được, chị cứ về đi.
Bà Ba Dần tưởng bà Tư đã xuôi tai, vội vàng đứng lên từ giã ra về để báo tin lành cho hai ông bạn cố tri.
*
* *
Ông Tư ó ra đến cửa còn dừng chân ngoái lại để nhận thêm chỗ dựa tinh thần. Cửa khép rồi ông vẫn tần ngần đứng lại một lúc để chuẩn bị lời tự phê như một người sắp bước lên sân khấu giao lưu, ôn trước câu ứng xử?
Mười lăm, rồi hai mươi phút, lắng nghe không thấy gì ầm ĩ, bà Ba Dần đẩy ông Ba ra bảo thả bộ dọc vỉa hè đến sát cửa nhà ông Tư ó nghe ngóng. Đến nửa giờ mới sinh nghi hay là sự im lặng trước cơn bão tố?
Lại nghe "rét! rét!", tiếng cửa sắt kéo ra, ông Tư ó đỏ bừng mặt có vẻ thất vọng, buông mình xuống ghế xô pha:
- Chị có rượu cho tôi một ly. Chỉ có say mới hết đau khổ!
Ông nốc cạn, dằn cái ly xuống mặt kiếng:
- Không xong rồi, anh chị Tư ơi! Bả dứt khoát như treo miển chiến bài:
- "Quyền của ông! Ông muốn đem con bé về đây thì đem, nhưng tôi đi! Bỏ nhà lại cho ông ở! Với tôi dứt khoát, mối nào một mối thôi! Tùy ông".
Ông Ba Dần rót thêm cho một ly rồi giấu cái chai - nháy mắt ra hiệu cho bà Ba vào trong. Hai vợ chồng hỏi ý với nhau một lúc rồi bước ra ngồi hai bên ông Tư rỉ tai: "Phải làm như vầy... như vầy...".
*
* *
Anh chị em trên nông trại thấy xe ông Tư lên chở theo một ông Tây mắt xanh, tóc vàng, mũi cao, người bảo là Mỹ, là Pháp, Đan Mạch - nhưng chỉ thấy ông Tây tươi cười vui vẻ rất cảm tình. Cơm nước xong, lại thêm chuyện lạ, ông ta đeo một cái địu màu xanh, dân ở đây chưa từng thấy bao giờ. Địu đeo trước ngực, đặt bé Quyên Quyên ngồi như ẵm ngửa, hai chân buông thỏng, bụng thít dây đai. Họ vây quanh, mừng mừng, tủi tủi, nựng nịu bé Quyên Quyên lần cuối trước khi em theo ông Tây về nước.
Ngày hôm sau, anh chị em nông trại lại thấy một chiếc taxi vàng từ thành phố lên, chạy thẳng vào sân. Bà Tư ó đeo túi bước xuống trông như cấp trên về thanh tra cơ sở. Ông Tư ó bước ra mừng rỡ, trong vẻ tự nhiên như ông giám đốc, làm ăn nghiêm túc không có gì sai phạm phải lo lắng.
Bà Tư vào, quan sát trước sau khắp lượt dặn sắp nhỏ lo cơm nước cho bác tài, vì xe bao ở lại chờ đến chiều đưa bà về.
Buổi trưa bà Tư không nghỉ ngơi, bà bảo là đi thăm qua công việc làm ăn của ông. Ai có thể tin lời đương sự, mặc dù ông đã bảo giờ này con bé đã lên máy bay cùng với cha mẹ nuôi về tận bên nước Na Uy tuyết trắng.
Bà tìm gặp cháu Hưng con trai của ông Ba Dần vì chuyện phòng the, chỉ có hai người ngoài cuộc mới khả dĩ có thể tin tưởng được.
- Bác trai nói thật đấy bác, bác cứ hỏi mọi người đi! Ai cũng thấy ông Tây đưa bé Quyên Quyên đi, địu ngoài trước bụng như thế này này! Con bé vậy mà có phước được đi Tây ngon ơ!
Chỗ này đây là đất bác Tư phân cho cháu một héc-ta mía, năm con bò. Cháu không nhận nuôi heo vì một mình nuôi heo lỉnh kỉnh lắm. Đất giáp ranh đây là cô người yêu của cháu, tìm hiểu lâu rồi, sắp cưới, hai đứa chung lại được hai héc-ta, bên cô ấy có nuôi heo.
Còn gần suối kia là đó đó! Chỗ xây ổ đẻ của bác Tư, nhưng chuyện đã qua rồi như mưa dứt mây tan. Bác có đến xem không?
Bà Tư vào gian nhà trống toác, vài viên gạch kê giường còn đây đó trên nền nhà, treo trên dây còn một cái rổ làm nôi, người ta không dọn đi làm gì. Xuống bếp bà Tư cúi xuống cầm cái cán thìa một nửa cắm xuống tro, đó là một cái muỗng múc bột cho trẻ.
- Mộ của cô ấy ngoài kia, bác có ra xem không?
Bà Tư theo ra đến nơi thấy nắm đất lè tẻ, có dựng mộ bia bằng đá khắc tên Lê Thị Thơm, sinh năm 1970, thọ hai mươi tám tuổi - cũng là nhi nữ bà Tư sao khỏi chạch lòng cho phận hồng nhan mệnh bạc.
Trên đường về bà Tư gặp một quán lá, bà ghé vào mua cho Hưng hai gói thuốc thơm, tiện tay bà rút ví lấy ra hai tờ giấy năm chục dúi vào tay đứa con hai ông bà bạn cùng phường.