Hơn bốn năm, bác thầm yêu má tôi, tôi biết. Tôi cũng quý bác, vì bác ấy yêu trẻ. Không phải chỉ với tôi mà tất cả các bạn trang lứa ba bốn năm tuổi như tôi. Bác không giàu vì bác mặc áo đứt khuy, có lần tôi thấy má tôi đính khuy lên cái áo dính dầu của bác đang mặc, bác nói khẽ nhưng tôi nghe: "Đính cúc chớ đừng khâu tim nhé!" và tôi cũng biết má tôi đã chích nhẹ đầu kim vào giữa ngực bác trước khi kề môi cắn chỉ.
Nghe nói trước kia bác là văn sĩ, nhưng vì lẽ gì đó bác gác bút đi làm công nhân và năm tháng dài, tuổi càng trưởng thành tôi càng hiểu hồi ấy khi nhờ bạn bè và những nơi quen biết lo cho tôi thi vào trường Âm nhạc, bác muốn tôi tiếp bước vào con đường nghệ thuật mà vì hoàn cảnh bác đã phải dang dở, mong ước được tìm cái hình bóng dĩ vãng của bác trong những bước chập chững vào đời của tôi qua tiếng đàn vì cung đàn xưa đã lỗi nhịp.
Vì vậy, từ tấm bé, thương má tôi, tự trong con tim non nớt, tôi coi bác như bác mà là ba, bác coi tôi như con nhưng mà là cháu.
Gia đình tôi đi đâu, thay đổi chỗ ở, sơ tán, chuyển vùng, không máy ngày lại thấy bác lẽo đẽo theo ở gần, làm đủ thứ nghề để mua bữa sống hàng ngày, để gom góp lại làm một đời thương yêu.
Tôi được giấy gọi nhập vào Trường Âm nhạc Hà Nội vừa 3 tháng nữa là đủ 8 tuổi. Học được nửa niên khóa thì học sinh phải đội mũ rơm, mặc quần áo màu thẫm vì Johnson cho máy bay bỏ bom bắn phá miền Bắc, gia đình tôi phải sơ tán về Tuyên Quang để gần ông bà, cách xa Chùa Thầy - nơi Trường Âm nhạc sơ tán hơn 250 cây số, sau đó lại sơ tán lần nữa về Yên Dũng, Hà Bắc cũng bằng ấy đường xa.
Tàu hỏa Hà Nội - Phú Thọ bị bắn phá, cầu Đoan Hùng nối liền Tuyên Quang bị đánh sập phải qua phà. Nhà tôi lúng túng vì tôi không thể mạo hiểm đi vào mục tiêu đeo đuổi thường xuyên của những con chim sắt gầm rít nhưng vô cảm.
Giữa lúc ấy bác tới: "Tôi đưa cháu đi bằng xe đạp!". Má tôi nói: "Mấy trăm cây số cơ à?" - "Ngày xưa các sĩ phu về Kinh ứng thí đi bộ cả tháng, có được đi xe đạp đâu?".
Ngày lên đường, chiếc xe đạp Phượng Hoàng được thay má phanh mới rất kỹ. Treo bên phải baga một chiếc hòm quần áo sách vở, bên trái một hộp đàn accordéon. Trên mặt baga một cuộn chăn bông ba ký, tôi ngồi lên ôm tấm lưng cao khều của bác với đôi chân dép lốp lên đường.
Qua phà Bình Ca đường rừng đèo dốc chập cùng, dốc nào ngắn, bác gò lưng vượt dốc, dốc nào cao cố gắng đến lưng đèo phải xuống đẩy xe. Tôi đi sau đẩy, nói là phụ bác nhưng thật ra chỉ là sờ cái baga vì tôi đội mũ len bịt tai, mặc quần kép, đụp áo ông cả người tròn như cái hạt mít, chân lại ngắn có lúc phải chạy lúp xúp.
Quá Sơn Dương, vượt qua 50 cây số, bác cháu ngồi nghỉ mở cơm nắm muối vừng ra ăn. Tôi chỉ uống nước không muốn ăn, bác sờ trán tôi đượm vẻ lo âu. Chẳng hiểu sao? Nỗi buồn man mác ở đâu xen vào đầu óc trẻ thơ của tôi không rõ vì mông lung cảm giác xa nhà hay vì thương bác vì má con tôi nên quá đỗi nhọc nhằn.
Lại vượt đèo - Ngọn đèo ngoằn ngoèo xa tít tắp. Lắm lúc tôi mỏi chân, bác lại đặt tôi lên yên cho bác đẩy: "Ráng lên cháu - Cháu có nhớ câu thơ Tố Hữu không? Gió qua đồi, Đèo Khế gió sang! Là đỉnh đèo này đây!... Lên đây xem, cháu sẽ nhận biết cảm giác mát mẻ từ ngọn gió trong thơ ấy!...".
Diễm phúc cho tôi lần đầu tiên được hưởng ngọn gió chỉ nơi này mới có. Gió uốn lượn giữa hai bên vách núi quanh co lên đến đỉnh giao tiếp với bầu trời rộng mở trên cao nhất, lan tỏa ra man mác lành lạnh; sau quãng đường mệt nhọc được thiên nhiên ban phát cho, giờ đây tôi mới hiểu nhờ đâu nhà thơ ngẫu hứng được câu thơ này.
Máy bay Mỹ lại gầm rú, từng phi đội 9 chiếc tầng cao, tầng thấp tôi đếm được rõ ba mươi sáu lượt. Không gian nhơ vỡ toang ra vì tiếng rít, nhưng rừng núi thật im lìm. Hai bác cháu đứng nhìn về hướng khu Gang thép Thái Nguyên, ngọn cây rừng trải thảm dưới mắt đến nơi xa tít tắp, bao la đất nước rộng đến nhường bao, đứng trên đỉnh cao mới nhận biết Tổ quốc lớn lao biết mấy? Nghe những loạt tiếng "ùm" văng vẳng dội về rồi thấy những bựng khói màu nâu mờ mờ nhỏ bằng bàn tay... Tôi nghe bác nói: "Cháu thấy không nó có chở hết bom bên Mỹ sang cũng chẳng đủ để hủy diệt hết cỏ đất nước mình".
- Thôi ta đi đi cháu! Ta phải vượt qua chỗ bốc khói ấy trước giờ cao điểm trưa!
Bác chặt một cành to để nguyên lá, dùng dây đem theo buộc sau baga để phụ với phanh xe hãm tốc khi đổ dốc đèo Khế dài trên 10 cây số. Bụi mù tung lên phía sau óng ánh màu nắng, gió mát huýt sao bên tai, tôi quên hết nỗi buồn giữ chặt lưng áo bác.
Về đến Đại Từ vào quán lá uống vội bát nước chè xanh, bác nhón mấy cọng chè khô ngậm để giữ nước bọt, bác liếc đồng hồ, đỡ tôi lên xe: "Cháu ngồi chắc nhé! 15 cây số nữa là phải tăng tốc độ để vượt qua thị xã Thái Nguyên và khu gang thép trước giờ cao điểm lần 2".
Thị xã sơ tán thưa thớt, đường qua Khu gang thép 10 cây số cũng vắng người, bác gò lưng đạp không giảm tốc, tôi biết bác lo cho tôi hơn lo cho mình. Xe băng qua, chạy dọc theo con đê bờ máng, lâu lắm tôi gục vào vai bác nghe trong tỉnh thức: "Con! Con! Ráng nghe! Đừng ngủ! Còn phải qua cầu Bắc Giang nữa". Nhưng tôi vẫn thiếp đi. Khi tỉnh giấc mặt trời đã xế, mới hay bác đưa tay ra sau giữ cho tôi khỏi ngã, lái xe bằng mỗi một tay suốt mấy tiếng đồng hồ.
Cầu Bắc Giang bị bom đánh hỏng, công nhân đang sửa chữa. Máy bay muốn cắt đứt đường tàu Hà Nội - Lạng Sơn nên đánh liên tục. Bác phải dựng xe bên đường dìu tôi qua cầu vì có những mảnh ván lót tạm khó đi, sợ máy bay tới đang ở giữa cầu vừa xe vừa người làm sao cứu. Qua được rồi, bác kéo tôi đi nhanh xuống đến hết dốc rẽ vào ngã ba chỉ tôi cứ thẳng hướng mà đi một mình càng xa vùng trọng điểm bắn phá càng tốt. Sau đó bác ngược lại bên kia lấy xe qua cầu.
Theo những con đường làng đất đỏ êm đềm, đi mãi đến bến đò Yên Dũng. Sông Cầu nước chảy lơ thơ xanh mát, ngọn đồi nhỏ trên bờ sông có vườn thông xanh mướt, cát dưới chân lại óng ánh như mảnh thủy tinh. Bác bảo đó là mỏ mica lộ thiên, đất nước ta giàu đẹp lắm.
Làng quê đã lên ngọn đèn dầu, hai bác cháu mới đến vùng dân cư nơi nhà trường sơ tán.
Ra đi từ 5 giờ sáng, bác đạp xe suốt 13 tiếng đồng hồ qua trên hai trăm năm mươi cây số.
*
* *
Ba năm sơ tán như thế không phải một lần bác guồng xe qua ba tỉnh Việt Bắc để đưa rước tôi đến trường, mà tháng nào bác cũng đến thăm tôi tiếp tế khoai lang sấy, bánh mỳ khô... có vậy thôi và vài mươi đồng tiền tiêu vặt. Lũ trò nhỏ chúng tôi chụp cái mũ rơm trông như những tai nấm mới mọc tíu tít quanh bác chia sẻ niềm vui với bác sau bao nhiêu dặm đường. Bác cười bảo: "Các con gặm khoai lang sấy, bánh mì khô, ăn cơm độn ngô mà học Chopin, Tchaikopski, Betthoven, Sébastien Bach... đó nghe!".
Tận dụng thời gian ngắn ngủi, bác chăm sóc nơi ăn ở - có hôm bác lặn xuống giếng sâu mò lên cả chục chiếc xô múc nước đứt dây, có cả hộp guigoz và bút máy nữa - Trẻ chúng tôi đánh rơi nhưng làm sao mà lấy lên được.
Đến kỳ nghỉ hè, tôi lại được về Tuyên Quang. Lễ chia tay đến trưa, các bạn ở quanh Hà Nội về kịp, nhưng bác cháu tôi lại phải về xa. Đạp nửa ngày đến bìa rừng trời đã tối, xe không đèn muốn vượt đến vùng dân cư không còn kịp nữa đành ngủ rừng. Hai bác cháu ẩn vào một bụm rậm gom lá làm chiếu, bác đắp chăn cho tôi cẩn thận, lấy khăn tay buộc chân mình vào vành xe đạp mới nằm xuống. Nghe gà rừng gáy, tôi trở dậy thấy bác đang ngồi cuốn thuốc, trên mặt đất còn bao nhiêu tàn thuốc, thì ra bác không ngủ để canh phòng thú rừng.
Bốn năm trường sơ tán, để chu toàn việc học tập của tôi, đi lại trên khoảng cách xa dịu vợi, chiếc xe đạp bao nhiêu lần thay vỏ ruột, sức khoẻ bác bao nhiêu hao mòn khi tải trọng ngày càng nặng thêm theo tuổi lớn của tôi?
Hiệp định Paris được ký kết, trường trở về thủ đô, học hết bảy năm, tôi thi tốt nghiệp, đã có đoàn nhận chi viện cho chiến trường từ B ra ngồi sẵn trong phòng thi để tuyển chọn rồi. Vì tôi là con một lại là gái nên các bác không dám quyết định bèn điều commăngca cùng đi với tôi về xin ý kiến má tôi.
Sau một ngày tiếp khách, má nâng hai bàn tay tôi trong lòng bàn tay âu yếm bảo: "Bây giờ má không quyết định thay con, má cho con tiền, con theo các bác trở về Hà Nội vui với các bạn ở trường thoải mái, trong một tuần, tự quyết định ra sao? Con đánh điện về cho má xuống!".
Tôi biết lời má có ý kiến của bác ấy. Tôi thầm cảm ơn má - Má là người dân chủ với con cái.
Tôi đi B, nhiều người hỏi tôi rằng em đã nghĩ kỹ chưa? Theo nghĩa dám chấp nhận thực tế chiến trường chưa hay là bồng bột nhất thời rồi hối tiếc cũng có, theo nghĩa dại, khôn cũng có. Tôi đi B tất nhiên là để đáp lời sông núi, sau đó còn muốn đến quê hương miền Nam của bác ấy.
Má tôi và bác, hai con chim già dõi theo cánh bay của con chim non đang theo bầy đàn đến nơi nghìn dặm xa xôi tận phương trời Nam mong ngày xum họp thắt tha thắt thẻo 3 năm trường cho đến ngày giải phóng.
Tôi theo chân đoàn quân vào tiếp quản thành phố được hơn một tháng. Một sớm đang ngồi hàn huyên với các chị sở tại mới quen trước nhà, tôi chợt thấy dáng quen quen ông già guồng xe đạp hồi nào, bỏ mũ ra lại có mái đầu bạc, tự nhiên lần đầu tiên tôi thốt lên tiếng gọi tận đáy lòng:
- Ba ơi !
Những ngày ấy nước mắt thay niềm vui, khóc để mà sung sướng.
Tôi lên baga xe đạp như thuở nào đến gặp má.
Má cùng vào Nam với ba - ngầm hiểu nhau với bạn bè như nghĩa vợ chồng thôi.
Sau 10 năm tích cóp có đủ kinh phí cho cuộc hành trình về chốn xưa - lại nghe tin ông tôi mất, ba má tôi thu xếp về lại Tuyên Quang - xe đưa đến tận cửa. Mọi người vây quanh chào đón.
Bà tôi đã trên 80. Cử chỉ đầu tiên của bà là để tay lên bờ vai đặt ba ngồi xuống ghế. Bà đến bàn thờ ông, lấy mảnh khăn tang - tự tay bà bịt chiếc khăn trắng lên trán ba - sau đó lại bịt khăn cho má.
Má và Ba đều rưng rưng. Hai mái đầu thắp hương trước bàn thờ ông - cảm nhận như hai mảnh khăn tang tự tay bà đặt lên mái đầu là hôn ước trước toàn gia tộc giữa đồi núi Tuyên Quang.
Ơi Tuyên Quang! Phải chăng Tuyên là tuyên bố, Quang là quang minh - Có hôm nằm giữa vùng chiến khu D tôi chợt nghĩ như thế.
Má tôi, ba tôi hai người thương nhau, lận đận suốt theo thời gian dài bằng tuổi của tôi chỉ để mơ ước được kết thành duyên phận, để trọn được hai chữ bạn đời - Một người lặng lẽ như rừng núi Tuyên Quang với tất cả sự sinh sôi bên trong của nó, ngày qua ngày gửi gắm tâm sự bên đầu mũi kim đan sắp xếp những sợi chỉ rối nhiều màu sắc dệt nên chiếc áo ấm tôi mặc và kiếm đồng tiền cho tôi ăn học. Một người gian truân, phong trần như chiếc guồng dưới yên xe đạp với tất cả sự quay cuồng, căng thẳng của nó, để đêm từng đêm cười khóc sự đời gửi gắm vào nét bút viết nên muôn màu muôn vẻ cuộc sống thành trang sách tôi đang đọc bằng trăm nghìn con chữ lắng đọng.
Thời gian là quy luật của tạo hóa, kiên trì là đức tính của con người: Tôi cảm ơn cả hai!