Em Tám tôi theo gia đình đi kháng chiến từ hồi năm tuổi. Mò cá sặc, giăng câu, lớn lên tự cày cấy lấy mà ăn, đến giữa thời kỳ chống Mỹ mới đủ tuổi đi bộ đội, hết giặc đi từ gốc lúa về với gốc rạ. Em là nông dân chính cống, mác Đồng Tháp Mười hẳn hoi, chớ không phải như tôi tự sụt thành phần xuống khai là trung nông lớp dưới để theo đóm ăn tàn do thời kỳ làm lý lịch. Học hành bữa được bữa mất do cha tôi dạy kèm, viết chữ trên lá chuối xanh (lá chuối tươi có lớp diệp lục phủ ngoài, dùng que nhọn viết lên thành chữ, bưng biền kháng chiến hồi ấy thiếu giấy). Sau này khi tìm hiểu, tôi cóp dê kiểu ấy viết thư tình trên lá khuynh diệp rất ư là thơ mộng...
Ruộng đồng và rượu, em yêu hai thứ như nhau. Lắm lúc tính bỏ quách về thành cho sướng, tính bỏ rượu cho yên nhưng đi không đành, bỏ không nỡ.
Một buổi nông nhàn, tía nằm ngửa trên võng, con ngồi trên bụng tía, kể chuyện cổ tích cho con nghe :
Ngày xửa ngày xưa ở vùng châu thổ, không như bây giờ, con trâu có lông dài lắm để che không cho muỗi, mòng hút máu. Lông dài như tóc vậy, nhưng quăn tít như phi-dê vì suốt ngày trâu phơi nắng ăn cỏ ngoài đồng.
Có anh mục đồng thấy cò trắng đậu trên lưng trâu bèn nghĩ ra một kế - cứ mỗi sợi lông trâu thắt nên một cái vòng. Làm xong lui ra bờ đìa ngồi chờ. Ban đầu, một con cò nghiêng cánh ngắm tấm lưng phẳng phiu tưởng êm chân lắm bèn nghiêng cánh đáp xuống bị mắc vòng không thoát được. Cò kêu khản cổ "Cò ! Cò !". Cò khác thấy vậy ngỡ trên lưng trâu vui lắm nên con kia hát (cò khóc hay hát đều chỉ một "Cò ! Cò !"). Chúng thi nhau đáp xuống, càng lúc càng đông, mắc vòng đến trắng toát không còn trông thấy trâu nữa.
Mục đồng đấy thấy vậy xồ ra bắt. Cò giật mình tung cánh một lượt xách bổng con trâu lên, cà dựng...cà dựng...
- Rồi mất con trâu sao ba ?
- Cò mỏi cánh thì phải hạ xuống thôi. Cho người ta bắt. Từ đó con trâu không còn lông nữa, trụi lủi, bị muỗi cắn, nên trâu phải nằm phồn ngâm mình dưới bùn.
Phần này em Tám tôi phịa thêm, không có trong dân gian truyền khẩu.
Thiên Tào thấy vậy thương tâm, con trâu bao đời vất vả vì bá tánh, Thiên Tào về báo cáo với ông Trời cho trâu lên thượng giới hưởng "phúc", có điện nước, ô tô nhà lầu, hoa nói, hoa câm như ở trên thành phố.
- Con trâu có đi không ba ?
- Không ! Không ! Con trâu bảo : "Tôi không đi đâu !".
Hỏi tại sao vậy?
- Tôi bỏ đi đất đai, bỏ mồ mả ông bà, bỏ thằng con trai cả ba lại cho ai ? (hôn một cái).
- ứ ! ừ...
*
* *
Ngày cha tôi mất, sau khi lo hậu sự xong, cô em út con má Hai của tôi, nhân gia đình tựu họp đông đủ, em cắc cớ đề xuất ý kiến là thử tính hậu duệ của cha tôi từ ngày ông bắt đầu lập gia đình riêng, dòng má lớn mất sớm và má Hai, tất cả sinh ra từ huyết thống của ông trọn cuộc đời, trước khi đi vào cõi vĩnh hằng, ông để lại bao nhiêu người.
Thấy ý kiến chí lý, tôi bèn đưa giấy bút ra viết theo số thứ tự, từng người con gái trai lần lượt hài danh tánh của gia đình riêng từng đứa - cháu chắt nội ngoại.
Tôi cộng lại, phát hiện ra con số hết hồn :
- Tám mươi lăm người.
Đó là chưa kể con dâu, cháu dâu, chắt dâu của cha mang huyết thống của sui gia.
Nếu tính thêm hai mươi ba nàng dâu các thế hệ thì nhân khẩu do cha tôi quản lý (85 + 23) một trăm lẻ tám người tất cả, bằng một ấp.
Vào năm sinh của ông (1905), dân số lục tỉnh Nam Kỳ là 3.500.000 (ba triệu rưỡi), nếu tăng theo tỷ lệ ấy, thì đến nay Nam Bộ dân số bằng 85 người nhân cho 3.500.000 là "Hai trăm chín mươi bảy triệu" thử hỏi dân đồng bằng sông Cửu Long làm sao còn dám tự hào là đất đai hào phóng, thừa sức qua cầu về lương thực, thừa sức nuôi nhau, còn chi viện cho cả nước và xuất khẩu nữa.
Đất điền ông nội tôi để lại cho kiến họ nhiều lắm nhưng hồi chiến tranh, kẹt ở giữa vùng kháng chiến vài chục mẫu gì đó. Nhà thờ họ ở vùng tạm chiếm không sờ tới được, coi như giao phần ấy cho cha tôi đi kháng chiến ở trong ấy làm gì thì làm để nuôi con. Tất nhiên kháng chiến đâu có thu tô nhưng bà con tá điền thuở trước thông cảm hoàn cảnh nên nhượng lại cho cha tôi năm mẫu dọc theo kênh Hai Ngàn để trồng cấy mà ăn.
Đến nay năm mẫu đất ấy chia ra cho 9 đầu con mỗi người được nửa mẫu. Các cháu lớn lên lại chia lần nữa mỗi đứa một mảnh. Không còn dám chia nữa. Theo đà dân số tăng mãi này việc dùng đất đai để chia gia tài trở thành chuyện quá khứ. Nhà nào cũng lóc nhóc người, đất đai chia riết manh mún ra, người được một mảnh còn chia chác nỗi gì ?
Tám mươi lăm thành viên gia đình được mỗi một lập trường thống nhất là yêu nước Việt Nam, cái đó là thiêng liêng, là nguyên tắc bất di bất dịch.
Còn quan điểm sống và tồn tại, phương pháp xử thế thì ôi thôi, mỗi người một phách, một tính ý, viết bằng mấy pho sách.
Điểm mặt những chi ăn nên làm ra, được có hai người: ông anh Hai (anh cả) và con em út. Gẫm ra chỉ số ấy là vừa vì làm sao triệu dân là triệu nhà giàu, càng không thể là triệu nhà tư sản.
Cả hai người nhờ thời thế đưa đẩy được ở thành phố. Cả tôi nữa là ba. Ai cũng tự nhận là con chí hiếu nhưng thật ra là "báo hiếu tầm xa", lâu lâu có đám giỗ về thăm cha mẹ một lần, có quà gì đem về gọi là "hiếu", chứ làm sao "chén cơm đôi đũa kỷ trà ai nâng ?" cho được.
ấy thế mà được tiếng : "Các bác ấy về lần nào cũng có quà cho từng người". Còn việc hằng ngày nâng giấc cho cha mẹ ông bà, lúc đói no, khi đau ốm của các em cháu trong đồng, chỉ là việc đương nhiên, khen làm gì ?
Duy nhất, anh Hai tôi được học tiếng Tây. Nếu không có chiến tranh anh đã là kỹ sư, bác sĩ... Lợi dụng cái vốn ngoại ngữ anh giao dịch gây dựng công ty trách nhiệm hữu hạn, có xe hơi đi, xây nhà mặt tiền...
Còn em út tôi không được học, khi công ty thương nghiệp quốc doanh giải thể cửa hàng, cho mỗi nhân viên mỗi người một góc quầy. Em dựa vào lợi thế ấy buôn bán phất lên dần. Bây giờ làm chủ vựa ở chợ Cầu Ông Lãnh, làm ăn theo kiểu chữ "tín", xe tải xuống hàng không cần cân đếm, vẫn đủ. "Bao nhiêu đó mậy...?" Bên giao hàng cứ xướng là ghi sổ không thiếu một cân. Tiền buôn bán ra vô bỏ trong cần xế, đến chiều giao cho sắp nhỏ đếm, cầm từng cục giao lên chỉ hỏi : Bao nhiêu đó ? Rồi ném vào tủ sắt khóa lại.
Sau mùa lụt, đến vụ lúa đầu tiên, gặt hái xong đến ngày giỗ cha, cả nhà đông đủ. Xong chánh giỗ, khách khứa về hết, gia đình tề tựu. Người lớn ngồi ghế giữa, con cháu trên ván, trên giường không đủ chỗ thì dựa cột trên thềm, ngoài hiên.
Con cái trong nhà cả, nhưng dân thành phố, lâu lâu về một lần còn mang hơi hướng là khách. Ai cũng chú mục vào anh Hai tôi. Anh lật ve áo móc ví ra :
- Một triệu này con đưa cho má ! Còn các em mỗi chi năm trăm ngàn.
Ai đó ca ngợi : "Nhoáng một cái bằng "cây", anh Hai chơi đẹp quá !".
Em út tôi giả vờ suy bì chìa tay : "Còn phần em nữa anh Hai ?".
- Mày hả ? Về trên vựa mà lấy, nó giàu hơn con nữa đó má.
- Em làm sao có xe đời mới như anh !
- Còn thằng Tám nữa, nó đâu rồi ?
- Em đây !
- Đáng lý không có phần mày - Tả tơi quá nên rút vô kẹt ngồi hử ?
Anh cầm tiền nhịp nhịp trên tay, trách như lên lớp :
- Phải bỏ tánh nhậu nhẹt bê tha ! Nghe chưa ! Anh nghe nói em bê bối say sưa, không lo làm ăn để vợ con nheo nhóc. Lần sau còn như vậy anh không cho nữa đâu! Nè cầm đi ! Anh góp phần xóa đói giảm nghèo. Ráng mà lo làm ăn !
Em Tám ngồi bó gối, bất động.
- Chê ít hử ! Nè chiếu cố cho mày thêm hai trăm.
- Thôi anh cất đi ! Cho em, em lại quen tính xài hết, anh mắng nữa... Đáp xong em nhất mực không nhận. Vợ sợ anh giận, định bước tới lập tức bị chồng trừng mắt.
Biết mình lỡ lời làm em giận và hiểu tính em Tám tôi từ bé vốn cứng đầu, có mời nữa cũng chẳng nghe, để khỏi lỡ bộ, anh trao số tiền cho má Hai.
Má bảo :
- Đứa nào cũng có phần rồi, bây giờ tới con út !
- Con hả má ? Con chưa có tiền mua xe đời mới như anh Hai, con không dám chơi đẹp như anh đâu ! Còn anh Tư nữa chứ má !
Giao bóng qua cho tôi, rút cổ bụm miệng cười hóm, cô út co chân lên lết dần vào sát vách ngồi bên em Tám.
Tôi bảo : "Con làm nghề bán chữ, nghèo lắm. Chỉ có mấy quyển sách ế đây. Tặng mỗi nhà một quyển đọc chơi cho vui".
Cô út vịn vai em Tám :
- Nghe nói, phái đoàn về tham quan, xã nhà chọn nhà anh làm điển hình tả tơi để so sánh với các hộ ăn nên làm ra ở địa phương phải không ?
- May mà bữa đó anh đi vắng để cho chị Tám em chịu trận. Nhà có con khỉ khô gì chiếc chiếu rách trên cái võng ọp ẹp, vài cái nồi lăn long lóc, bốn bức vách trống trơn vậy mà họ cũng quay phim cho lên truyền hình...
- Em biết anh không phải vậy, nhưng anh chán nản buông xuôi phải không ?
- E hèm! Làm một nắng hai sương đến mùa, lúa tụt giá còn nghìn hai một ký, mua được hai điếu thuốc, trả nợ phân, nợ giống trắng tay ngay trên ruộng gặt, lại đi vay. Nản quá anh mặc kệ cho họ khinh, rượu chè cho qua ngày, không có mồi thì đi bắt chuột, chớ anh đâu phải thằng lười biếng, đổ đốn như má rủa...
- Em hỏi thiệt nghe ! Em đầu tư cho anh làm ăn anh dám chơi không ? Phần ruộng của em giao luôn cho anh làm !
- Thiệt không đó mậy ?
- Em là em của anh, anh rành em quá mà !
- Tao sợ gì ?
- Nhưng phải hứa với em là anh bớt rượu.
- Thừa sức qua cầu.
Nào ! Nghéo tay. Anh phải ráng, chứ sau này không còn chuột để bắt mà ăn đâu !
*
* *
Đêm nhậu hôm trước quắc cần câu, nên em Tám tôi còn ngủ.
Tôi bảo đem trà ra ngoài hiên cho mát nói chuyện với em dâu. Tôi an ủi :
- Thằng Tám nó tệ, em đừng buồn...
- Đâu có anh Ba ! Vầy chớ hơn nữa em cũng chịu được. Anh không ở đây anh không biết đâu ! Có đêm, làm suốt ngày mệt muốn chết, một giờ khuya còn hủ ì gọi nhau xách chai đến, em đang ngủ kêu xốc dậy vừa ngáp vừa cắt cổ gà làm mồi cho mấy chả nhậu, cực riết rồi quen. Được cái là gà gáy đã trở dậy chống xuồng đi đổ trúm, thu lưới đem cá lươn về kịp giờ cho em đi bán, làm lưng cơm nguội rồi ra đồng đội nắng, đội mưa cho đến đứng bóng, về ăn ba hột, cứ nguyên quần đùi bùn đất ngửa ra ngáy khò khò trông ngon mắt lắm (em che miệng cười, biết đã lỡ lời...).
Cái năm sau lũ lụt 19... hai đứa con Thơm, con Thảo còn nhỏ nên chưa lên tỉnh học, nhà không còn hột gạo, em phải đi gặt mướn trên Vĩnh Hưng nửa tháng, bơi xuồng lúa đổi công về, từ dưới bến lên nhà tối om, vắng tanh, ba đứa nhỏ chèo queo rúc đầu vào đít nhau mà ngủ. Vén màn lên, đứa nào cũng tay lên đầu nhắm mắt gãi sồn sột, em phải nấu nồi nước sôi, nửa đêm kéo từng đứa dậy, lấy xà bông gội đầu, chí có ổ nổi lềnh bềnh trong chậu. Trưa trờ trưa trật mới lù lù về. Nhà cửa sân sướng em quét dọn sạch sẽ rồi, mắc mớ gì đi lấy chổi ra sân quét xành xạch, tỏ ra biết lỗi rồi ! Anh nghĩ coi Bồ Tát cũng phải cười, làm sao em giận ảnh được.
- Anh phục em đó !
- Chấp nhận thôi anh à ! Cũng như sống chung với lũ vậy !
Tôi sững sờ vì cái chân lý ấy của em, mộc mạc mà sâu xa. Lũ tàn phá nhưng lũ để lại phù sa bội thu liên tiếp ba bốn vụ. Vợ chồng như bến đục bến trong được cái gốc là ảnh hay lam hay làm không có kêu than. Đạo đức học từ trong tự nhiên học mà có vậy.
Đồng bằng sông Cửu Long : thực nghĩa là sông Cửu Long nuôi sống đồng bằng, tưới tắm, bồi đắp phù sa, lỗi tất nhiên là lớn, công lại gấp trăm lần.
- Từ thời đi mở nước đỉa vắt muỗi mòng hùm beo chướng khí : chấp nhận !
- Chiến tranh, sống chung với bom đạn : chấp nhận !
- Ngày nay sống chung với kinh tế thị trường, biết tỏng là con dao hai lưỡi : chấp nhận !
Em dâu tôi bảo :
- Vợ chồng với nhau như ăn cá, vây, kỳ vi, ruột rà bỏ đi, giữ lại phần thịt. Đòi hỏi con cá không có kỳ vi ruột rà, con cá lấy gì sống.
Em nghe nói, mấy đứa nhỏ con của anh Hai, hai đứa đều chê chồng ly dị bởi vì chúng nó hiểu đời theo sách vở, chưa có gió sương, chứ hai thằng chồng của các cháu đâu có nỗi tệ. Em sợ rồi tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa.
*
* *
Năm rồi, tôi lại về Vĩnh Hưng. Nhìn ra đồng thấy em Tám tôi lái máy cày ngồi ngất nghiểu trong ca-bin, thằng cháu ngồi một bên nắn con trâu đất sét để hoài cổ vì con trâu ít còn ai nuôi. Ba nó í ới ề à bài ca vọng cổ bất tận, hát đến mấy mươi câu cũng được. Hát rằng :
... Chiếu này anh chẳng bán đâu
Tìm em không gặp
Tối gối đầu đợi em ơ ơ...
Em út tôi trên Sài Gòn bỏ tiền ra cho anh nó mua công cụ sản xuất, mua Honda, mua xe được chẳng lẽ để anh mình xin nhà nước xói đói giảm nghèo ? Hỡi các người thành thị có người nhà ở quê chấp nhận giùm cái trách nhiệm gia đình này.
Xe máy cày còn gắn hai bên hai cái bánh lồng để xe lội bùn của cơ khí Đồng Tâm Gò Vấp sản xuất.
Trước khi trời cứu, để em cứu !
Má hai tôi mắng yêu : "Mồ tổ cha cái con nỡm ! Tao đẻ ra mày có bao nhiêu cái khôn của tao mày lấy hết".
- Thì con đem về trả lại cho má đây nè.
Em Tám tôi bảo - Có máy cày, thừa sức qua cầu, vừa cày đất nhà vừa cày thuê, rượu có bảy đồng một lít nhằm nhò gì.
Ông Đốc Binh Kiều hồi xưa muốn đứng chân trên đồng nước nổi phải đắp cái gò tháp để tụ nghĩa binh, lại xây cái tháp mười tầng để đứng lên quan sát. Còn trồng sao dầu để bá tánh ở xa biết hướng mà về...
Noi gương ông, em Tám sẽ tôn tạo cái nền nhà cao hơn chỗ phèn để lại dấu trên thân cây ô môi sau khi nước rút:
Chơi, chơi tới cùng ! Sống với lũ ! Chịu hôn ? Chấp nhận !
*
* *
Buổi trưa nông nhàn, chồng ngồi ngoài hiên lấy ráy tai cho vợ.
- Tội nghiệp anh Hai, có hai đứa, đứa nào cũng lỡ làng đòi ly dị.
- Hai thằng chồng nó, tốt mã rã đám, yếu xìu xìu ấy mà ! Nó không được thỏa mãn, làm gì chẳng bỏ. Có phải khỏe mạnh, ăn mặn uống đậm như dân ruộng mình đâu, thử một lần là đội bàn thờ theo, cũng như bà theo tôi, nghèo xác xơ, đen đúa như củ sắn mà bà chẳng chịu bỏ.
Vợ đẩy tay chồng cho khỏi điếc, quay lại vừa cười vừa đấm mấy cái lên bàn tay xòe đỡ đòn.
- Cái ông này ! Miệng ăn mắm ăn muối, giống gì cũng lôi chuyện đó vào.
- Tôi nói thiệt đó chứ ! Im ! Đừng lúc lắc điếc bây giờ! Để người ta lấy cho miếng này lớn lắm ! Tui hỏi em ! Lúc lấy ráy tai, cái móc tai sướng hay cái lỗ tai sướng ?
- Thôi ! Hí ! Hí ! Đừng có nói bậy nữa.
- Bậy ? Con người ta như cái lỗ tai vậy, lúc nào chẳng ngứa, không có cái móc tai, thì lấy cỏ mần chầu, tăm nhang, cành khô, thậm chí xé giấy cuốn xọc vô ngoáy lấy ngoáy để - không thấy thằng con mình sao ? Nó ngồi xếp bằng trên bờ ruộng cầm hai cọng cỏ mần chầu, ráy hai lỗ tai một lúc, mặt cứ đờ ra...
Ngứa lỗ tai mà gặp thợ ráy tai tồi làm gì không tức, cũng như dân ghiền mà phải rượu nhạt vậy. Mỹ từ thôi! Nào không hợp, bất đồng quan điểm, thiếu bình đẳng nên nó đòi ly dị. Lý như họ, làm sao tụi bụi đời nó lấy được vợ đẹp hơn khối người...
- Miếng đó được rồi ! Lấy ra đi !
- Khoan ! Từ từ đã ! Để trả lại chỗ cũ, khêu lại lần nữa, lâu lâu một chút gắp ra mới đã. Lấy vội quá hết rồi bà tiếc. Đi cắt tóc ráy tai, gặp mấy thằng thợ tồi, cứ xọc lia lịa, không kịp cảnh giác, chưa chi đã cho bông gòn vào ngoáy... Bước xuống trả tiền mà tức anh ách, miễn chơi, không thèm vô tiệm đó nữa.
Bà nhắn hai thằng cháu rể lên đây, để dân vùng lũ lụt này phụ đạo cho nó. Bảo đảm khỏi mất công đưa nhau ra tòa án.
Nói vậy, nhưng sau vụ gặt bán lúa có tiền, em Tám tôi lại thắng bộ ký giả màu cỏ úa, đội nón flécchet màu socola đi lên thành phố để gặp hai thằng cháu rể.
Mùa lũ 1996