Phần Năm Mươi Bốn
Chí Nhân
Nguyên tác: Nguyễn Duy Cần
Thái Tể Đăng, hỏi Trang Tử về chữ "Nhân"
Trang Tử nói:
- Hùm sói, là nhân đấy!
Hỏi:
- Sao gọi thế?
Đáp:
- Cha con nó thân nhau, sao gọi là bất nhân?
- Xin hỏi: Còn bậc chí nhân?
Trang Tử nói:
- Bậc chí nhân không thân với ai cả!
Thái Tể hỏi:
- Đãng tôi nghe rằng: Không thân thì không thương, không thương thì không thảo. Gọi người chí nhân không thảo được chăng?
Trang Tử nói:
- Không phải vậy. Chí nhân cao lắm! Cho nên hiếu thảo đâu có đủ để mà nói đến họ. Đâu phải có chuyện thái quá của hiếu, mà chuyện bất cập của hiếu. Kìa như có kẻ sang Nam, đến ấp Dĩnh, ngó qua hướng Bắc không thấy núi Minh San. Là tại sao? Tại xa quá! Bởi vậy mới nói rằng hiếu mà kính, dễ, hiếu mà thương, khó. Hiếu mà thương cũng còn dễ, hiếu mà quên kẻ thân của mình đi mới khó. Quên kẻ thân của mình đi còn dễ, khiến kẻ thân của mình quên mình đi mới khó. Khiến kẻ thân của mình quên mình đi còn dễ, quên luôn cả thiên hạ mới khó. Quên luôn cả thiên hạ cũng còn dễ, khiến cho cả thiên hạ đều quên mình đi mới còn khó hơn nữa.
Kìa như đức của họ xa hơn Nghiêu Thuấn cả trăm ngàn lần, vậy mà họ chưa từng có làm cho ai thấy, ân huệ của họ thuần thấm khắp mọi người đến muôn đời mà thiên hạ chẳng một ai hay biết. Há còn đem chữ Nhân, chữ Hiếu thường kia để nói với họ được sao! (...) Bởi vậy, mới nói rằng: Tước của cả một nước có đủ gì đâu để thêm giá cho người chí quý! Tài sản của một nước có đủ gì đâu để thêm giá cho người chí phú...
Phần Năm Mươi Lăm
Chiếc Bè
Nguyên tác: Nguyễn Duy Cần
Có người kia đi đến một vùng nước rộng, thấy mé mình đứng rất nguy hiểm và ghê sợ, còn mé bên kia thì yên ổn hiền lành. Muốn sang qua đò, thì lại không cầu. Anh bèn nghĩ: "Ta hãy bẻ cây làm tạm một chiếc bè để đưa ta qua sông". Sau khi đến mé bên kia rồi, anh ta bèn nghĩ: "Nhờ chiếc bè này mà ta qua được bên này, như vậy, ta phải nhớ ân nó mà đội nó lên đầu hay vác nó trên vai luôn luôn bất cứ đi đâu ở đâu". Các anh nghĩ thế nào về các việc làm của người này? Làm như thế, người ấy có cư sử đúng lẽ với chiếc bè của anh ta không?
Các đệ tử thưa:
- Thưa Thế Tôn, không ạ!
- Vậy thì, người ấy phải đối xử bằng cách nào đối với chiếc bè ấy mới phải lẽ? Đối với nó, đừng lưu luyếùn gì nữa. Nó chỉ là phương tiện. Hãy để chiếc bè ấy tha hồ theo dòng nước mà trôi đi, hoặc giữ lại bến ấy cho ai khác, muốn dùng qua sông thì dùng!
Ớ các tì kheo! Giáo lý của ta chẳng khác nào chiếc bè trên đây nó dùng để chở qua sông, chứ đâu phải đội lên đầu, hay vác trên vai khi đã sang được qua sông!
Phần Năm Mươi Sáu
Kiêu Căng Là Gì?
Nguyên tác: Nguyễn Duy Cần
Một vị tể tướng đời Đường rất giỏi về chính trị, lại cũng là một vị tướng lừng danh. Người đương thời xem ông là một vị anh hùng dân tộc. Nhưng bao nhiêu danh vọng ấy không ngăn cản ông say mê đạo Phật một cách rất cung cúc.
Thầy của ông là một vị đạo cao tăng phái Thiền, thầy trò tâm đắc lắm, không phân biệt tước quyền.
Ngày kia, ông hỏi sư phụ:
- Thưa thầy, xin thầy cắt nghĩa cho đệ tử biết "ngã mạn" là gì?
Mặt của sư phụ đổi sắc, trợn mắt, hỏi với một giọng khinh mạn:
- Mi hỏi ta gì đó, đồ ngu!
Cử chỉ và lời nói bất ngờ ấy làm cho gương mắt tể tướng đỏ lên.
Bấy giờ nhà sư mỉm cười, bảo nhẹ:
- Thưa, đó là"ngã mạn" ạ!
Phần Năm Mươi Bảy
U Tịnh Đại Sư
Nguyên tác: Nguyễn Duy Cần
Vị tăng kia, không hiểu gì về Phật pháp cả, nhưng muốn đánh lừa tín đồ, tự xưng là "U Tịnh đại sư". Để dễ gạt người chung quanh, ông ta có mướn hai tổ sư có tài ngôn ngữ để trả lời hộ ông ta, phần ông ta thì cứ im lặng mãi cho đúng với danh xưng.
Ngày kia, hai tên sư bè lũ của ông đi vắng, có một tăng lữ phương xa đến viếng. Tăng lữ hỏi:
- Thưa đại sư, thế nào là Phật?
Không biết trả lời ra sao, ông ta hoảng hốt, nhìn dáo dác bốn bên để tìm hai tên đồng lõa, nhưng không thấy.
Tăng lữ hỏi tiếp:
- Thưa đại sư, thế nào là Pháp?
Ông ta bèn ngước mặt nhìn trời rồi lại cúi nhìn đất, van vái trời đất gỡ nạn cho ông ta.
Tăng lữ hỏi nữa:
- Thế nào là Tăng?
Bấy giờ ông ta bí quá, liền nhắm nghiền đôi mắt lại.
Tăng lữ hỏi:
- Thế nào là Hỉ Xả?
Tuyệt vọng, ông ta bèn mở rộng hai cánh tay, ra dấu đầu hàng.
Tăng lữ sung sướng, ra về.
Dọc đường lại gắp hai tên sư đồng lõa của ông bịp nọ, Tăng lữ không ngớt ca ngợi vị "U Tịnh đại sư":
- Tôi đã hỏi Ngài: "Phật là gì?" thì Ngài nhìn bốn phương tám hướng để nói cho tôi biết rằng Phật ở khắp nơi, không nơi nào mà không có Phật. Tôi hỏi: "Pháp là gì?", thì Ngài nhìn trên cao dưới thấp, là ý Ngài muốn bảo với tôi rằng chân lý của Phật Pháp là tất cả không phân biệt cao thấp, thanh trọc. Để trả lời câu hỏi "Tăng là gì?", thì Ngài chỉ nhắm mắt lại, để nói cho tôi biết rằng kẻ nào nhắm mắt và ngủ một giấc say trong những chỗ thâm sơn cùng cốc là một bậc đại sư tăng. Rốt cùng, để trả lời câu chót của tôi "Thế nào là Hỉ Xả" thì Ngài mở rộng cánh tay để chỉ cho tôi biết đó là một ân huệ ban bố cho khắp cả mọi người biết tìm con đường sống... Thật là một bậc đại sư sáng suốt và lời giáo huấn của Ngài thật là vô cùng sâu thẳm!
Khi hai anh sư nọ về đến nhà, ông "U Tịnh đại sư" rầy to:
- Các anh đi đâu? Hồi nãy có một tăng lữ phương xa đến cật vấn ta về Phật pháp, anh ấy hỏi dồn ta bí lối, suýt ta đã mất cả uy danh rồi còn gì!
Phần Năm Mươi Tám
Giác Và Mộng
Nguyên tác: Nguyễn Duy Cần
Một người nước Trịnh kiếm củi ngoài đồng, thấy con hươu lạc, đón đánh chết được ngay. Anh ta sợ người ngoài đồng trông thấy, vội vàng giấu xác hươu vào trong hào cạn, lấy lá chuối phủ lên, trong bụng mừng rỡ không biết thế nào mà kể.
Chợt một cái, anh ta quên chỗ giấu hươu bèn cho ngay là chuyện chiêm bao. Lúc gánh củi về, anh ta đi đường, thờ thẩn thở than và cứ một mình lẩm bẩm kể câu chuyện ấy.
Có một người đi cạnh nghe thấy, cứ theo lời kể mà tìm được hươu, đưa về bảo vợ rằng:
- Lúc nãy anh kiếm củi mộng kiếm được hươu mà không biết ở chỗ nào, bây giờ ta tìm được, thế thì hắn là kẻ mộng thật.
Vợ nói:
- Hay là chính anh mộng thấy người kiếm củi bắt được hươu. Chớ làm gì có người kiếm củi thật, thế là mộng anh thật chăng?
Chồng bảo:
- Đây ta cứ biết được hươu là hươu cần gì phải biết rằng ta mộng hay hắn mộng nữa.
Anh kiếm củi về nhà, trong bụng tấm tức băn khoăn về việc mất hươu. Đêm hôm ấy nằm mộng thấy chỗ mình giấu hươu. Đến sáng cứ theo mộng, rồi tìm ra được, mới đem lại quan sĩ sư kiện để đòi lại hươu.
Quan xử rằng:
- Trước anh thật là đã bắt được hươu, lại hoảng lên cho là mộng, sau này mộng tìm thấy hươu lại hoảng lên cho là thực. Còn anh kia, thật là lấy hươu mà tranh nhau với anh thì vợ nó lại tưởng là mộng được hươu của người ta chớ không bắt được hươu thật. Bây giờ rõ ràng có hươu đây, thời chia đôi mỗi bên bên một nữa.
Cái án ấy sau lên vua nước Trịnh.
Vua nói rằng:
- Hừ! Quan án cũng lấy mộng mà xử cái kiện con hươu ư!
Rồi cho đòi tể tướng đến hỏi. Tể tướng tâu rằng:
- Mộng cũng chẳng mộng tôi không thể phân biệt được. Muốn phân biệt mộng hay giác thì chỉ có ông Hoàng Đề, ông Khổng Châu mà thôi. Bây giờ không có hai người ấy, thì ai phân biệt ra được.
Thôi xin cứ y như lời xử đoán của quan sĩ sư là xong!
Phần Năm Mươi Chín
Ngôi Tướng Quốc
Nguyên tác: Nguyễn Duy Cần
Phần Sáu Mươi
Lẽ Sống Chết
Nguyên tác: Nguyễn Duy Cần
Mạnh Tôn Dương hỏi Dương Chu:
- Có kẻ mến đời, yên thân, cầu cho không chết, có nên không?
Dương Tử nói:
- Có sống thì phải chết, lẽ nào mà không chết được.
- Thế thì cầu sống có nên không?
- Lẽ nào sống lâu mãi được, yên thân mà thân còn mãi được. Vả chăng, sống lâu để làm gì? Thế tình hay dở, xưa cũng như nay. Việc đời sướng khổ xưa cũng như nay. Biến đổi trị loạn, xưa cũng như nay. Cái gì cũng đã nghe thấy, cũng đã trông thấy, đã từng trải cả rồi, thì sống trong khoảng trăm năm cũng là dư chán rồi, huống chi lại còn cầu sống lâu để cho khổ lụy làm gì.
Mạnh Tôn Dương nói:
- Nếu thế, thì chóng chết có hơn là sống lâu chăng? Ta nên xông vào gươm giáo, nhảy vào nước lửa để chết ngay đi có phải thỏa không?
Dương Tử nói:
- Không phải thế. Đã sinh ra đời, thì lúc sống cứ thản nhiên sống, mặc cho việc gì muốn đến cứ đến. Lúc sắp chết cũng mặc, để cho nó tự nhiên đến: Có muốn hóa ra thì hóa... cho đến lúc cùng. Lúc sống, lúc chết, lúc nào cũng tự nhiên như không có gì cả, hà tất phải cầu sống lâu hay chóng chết mà làm gì!
Phần Sáu Mươi Hai
Nuôi Gà Đá
Nguyên tác: Nguyễn Duy Cần
Phần Sáu Mươi Hai
Lẽ Tất Nhiên Phải Vậy
Nguyên tác: Nguyễn Duy Cần
Trang Tân bảo Sở Tương Vương:
- Nhà vua (ngồi xe) bên tả có Châu Hầu, bên hữu có Hạ Hầu sau xe có Yên Lăng Quân và Thọ Lăng Quân. Bốn người đó chuyên dâm loạn, xa xỉ, không lo việc nước, Dĩnh đô tất nguy mất.
Tương Vương bảo:
- Tiên sinh già rồi lẫn chăng? Hay là muốn rủa nước Sở đấy?
Trang Tân đáp:
- Tôi thực tâm thấy tất nhiên phải như vậy, không dám rủa nước Sở. Nếu nhà vua cứ sủng ái bốn người đó mãi như vậy, thì nước Sở tất mất! Tôi xin được lánh qua Triệu, ở đó một thời gian để quan sát những biến cố của nước Sở.
Trang Tân qua Triệu ở năm tháng. Quả nhiên Tần chiếm những đất Yên, Dĩnh, Du, Thượng Thái, Trần của nước Sở, Tương Vương phải chạy tróc tới thành Dương, sai người kỵ mã dẫn đường qua Triệu đón Trang Tân, Trang Tân bằng lòng đi.
Trang Tân tới, Tương Vương bảo:
- Quả nhân không biết dùng lời khuyên của tiên sinh, nay sự thế đã như vậy, làm sao bây giờ?
Trang Tân đáp:
- Tôi nghe tục ngữ có câu: "Thấy thỏ rồi mới nghĩ tới chó săn, cũng không phải là muộn, mất bò rồi mới lo rào chuồng cũng chưa phải là trễ". Tôi nghe nói xưa kia vua Thang và vua Vũ chỉ có trăm dặm đất mà hưng thịnh lên được, vua Kiệt, vua Trụ có cả thiên hạ mà bị nguy vong. Hiện nay nước Sở tuy nhỏ, cắt chỗ dài bù vào chỗ ngắn thì cũng còn được vài ngàn dặm, chứ nào phải trăm dặm mà thôi.
Nhà vua không thấy con chuồn chuồn kia ư? Nó có sáu chân bốn cánh, bay lượn giữa khoảng trời đất, cúi mổ con muỗi, con ruồi để ăn, ngửa hứng nước sương ngọt ngào để uống, tự cho rằng chẳng lo lắng gì cả, vì không cạnh tranh gì với ai, có ngờ đâu một đứa nhỏ cao năm thước lấy mật làm keo bôi vào tơ, cột cỡ đầu cái gậy dài bốn nhẫn mà bắt được con chuồn chuồn, chuồn chuồn rớt xuống đất, bị kiến ăn thịt. Con chuồn chuồn còn là vật nhỏ.
Đến như con chim sẻ vàng kia, cúi thì mổ những hạt gạo trắng, ngửa thì đậu ở trên cây rậm rạp, hăng hái vỗ cánh, tự cho là chẳng lo lắng gì cả vì không cạnh tranh với ai, có ngờ đâu rằng có công tử vương tôn nọ, tay trái giương ná tay phải cầm đạn, bắn nó ở chỗ cao mười nhẫn, đem về làm chim mồi bắt chim sẽ khác, ban sáng nó còn bay nhảy trên cây rậm mà tối lại bị xào nấu với muối giấm, chỉ trong khoảnh khắc đã rớt vào tay cậu công tử nọ. Con sẻ còn là vật nhỏ.
Đến như con hộc vàng kia bay lượn trên sông biển, đậu ở cái đầm lớn, cúi thì mổ con lươn con cá chép, ngửa thì ăn của nấu, cây hoành, hăng hái vỗ cánh mà lướt luồng gió mát, bay lượn trên cao, tự cho rằng chẳng lo lắng gì cả vì không cạnh tranh với ai. Có ngờ đâu người thợ săn sửa soạn mũi tên và cây cung màu đen buộc sợi dây tơ vào cây tên bắn nó ở chỗ cao trăm nhẫn, nó bị trúng mũi tên nhọn, bị sợi dây tơ kéo về (phía người thợ săn) và rớt xuống đất trong buồng gió mát: Ban sáng nó còn bay lượn trên sông biển mà buổi tối đã bị nấu nướng trong cái đỉnh cái vạc rồi. Con hộc vàng còn nhỏ.
Đến như việc Thái Linh Hầu cũng vậy. Phía Nam, ông ta đi chơi miền Cao Pha, phía Bắc ông ta leo núi Vu Sơn, uống nước suối Như Khê, ăn cá sông Tương, tay trái ôm hầu non, tay phải đỡ ái thiếp, cùng với họ rong ruổi ở trong miền Cao Thái mà không lo gì việc nước cả. Có ngờ đâu Tử Phát được lệnh của Sở Tuyên Vương bắt trói ông ta bằng sợi dây tơ đỏ, đem về cho Tuyên Vương.
Việc của Thái Linh Hầu còn là việc nhỏ. Đến việc của nhà vua, ngồi xe, bên trái có Châu Hầu, bên phải có Hạ Hầu, sau xe có Yên Lăng Quân và Thọ Lăng Quân, ăn lúa gạo của đất được phong, chở vàng trong kho do bốn phương tiến cống, cùng với bọn đó rong ruổi ở miền Vân Mộng, mà không lo gì việc quốc gia thiên hạ cả. Có ngờ đâu rằng Nhương Hầu phụng mệnh vua Tần, đem binh lại đóng đầy thành Mãnh Tái mà nhà vua phải trốn ra khỏi thành đó.
Tương Vương nghe xong, mặt tái mét, toàn thân run rẩy, rồi cầm viên ngọc khuê trao cho Trang Tân, phong cho Trang Tân làm Dương Lăng Quân, và cho hưởng đất Hoài Bắc.
|