CHƯƠNG IX
- Có phải thiệt như vậy không anh?
Sương hỏi khi trận càn đã đi qua được một ngày, lúc bóng đêm nhức nhối vừa nhẹ phủ tấm vải liệm màu đen xuống cánh rừng nồng máu. Mẩu cơm vắt chấm muối tiêu ngắc cứng lại nơi cổ, anh nhổ phì ra, chiêu một ngụm nước suối phảng phất mùi lưu huỳnh, lại nhổ nữa.
- Thật. Thằng Tuấn nói đúng nhưng chưa đủ.
- Trời!… Sao anh lại…
- Không sao lại gì hết - Hùng cười gằn - Chẳng thằng nào đẻ ra đã là anh hùng. Mà anh hùng không biết sợ chết, không biết chao đảo, không biết đôi lúc ngã lòng rồi cắn răng gượng lại thì không phải anh hùng. Tôi không có trái tim dã thú trong lồng ngực.
- Không… ý em không nói thế. Em sợ chiều nay, cái lúc Tuấn nói hỗn, anh… anh không kiềm chế được… Ôi! Con mắt anh lúc ấy sợ lắm! Lại giống con mắt thú đang ăn đèn.
Hùng cười. Lần này thì anh cười thật sự. Đúng là suy nghĩ của đàn bà. Nhưng mà đúng vậy. Nếu khi đó không có mặt Sương thì sự việc có thể sẽ khác đi chút ít. Cái vẻ mặt du côn của nó, cho dù anh cố tình để nó hiện được ra cái mặt ấy, cũng dứt khoát không thể nhơn nhơn được như vậy. Quái dị! Hùng thoáng một suy nghĩ chua chát! Trong chiến tranh chả lẽ con người ta có thể đôi khi căm hận đồng đội hơn căm kẻ thù? Đồng đội là cụ thể, sự xúc phạm có hình có khối, kẻ thù là khái niệm, sự xúc phạm là mơ hồ, lúc có lúc không.
- Thực ra anh là một thằng người yếu đuối Sương ạ! - Tiếng nói anh xen vào gió rừng như một lời thú tội trước thánh đường - Không phải một lần đâu. Đã ít nhất trên ba lần anh thực hiện cái động tác khốn nạn đó. Chiến tranh mờ mịt, bạn bè chết hết lớp này đến lớp khác, ngày kết thúc đang còn nằm trong vô vọng, nhiều lúc anh muốn chạy trốn khỏi nỗi nhọc nhằn, khủng khiếp mà sức con người có hạn, không thể mãi chịu đựng. Nhưng lại không có gan chạy trốn đến tận cùng bằng tự sát. Càng không thể làm trò ô nhục đào ngũ hay chiêu hồi. Anh chỉ đủ can đảm tự thương. Tức là vẫn muốn níu giữ một chút hợp pháp, một chút thanh thản trong cái trò chơi man trá này. Mất một chân, thậm chí hai chân nhưng anh còn cả cuộc đời sau này. Dù cuộc đời có tàn tạ thế nào chăng nữa. Anh đã hành động giống như thằng Tuấn, giống như không ít kẻ khác một khi đã đánh đến trận thứ mười mà chưa chết. Một cuộc đời tật nguyền, không vợ không con, không tương lai, không niềm vui nỗi buồn, vô tri vô giác nhưng còn ngàn lần hơn vĩnh viễn chui vào lòng đất, câm lặng. Phải là thằng cầm súng thực sự, phải đánh nhau đến trận thứ mười thì mới nảy sinh được cái suy nghĩ này. Hiểu anh không?…
- Thôi!… Đừng nói nữa anh. Em… em hiểu. Nếu anh rủi có làm sao, em sẽ vẫn thương anh. Thương… Thương hơn cả bây giờ.
- Anh biết là em sẽ nói như thế. Và nói chung, trong những trường hợp như thế này, tất cả những người đàn bà tốt bụng đều nói như thế. Nói hơn thế. Lãng mạn! Hơn em gần chục tuổi, anh biết đó chỉ là bột phát lãng mạn tức thì. Hiện thực nghiệt ngã hơn nhiều. Rồi em sẽ cảm nhận được.
- Không!… Em khác. Em không giống…
- Đừng tranh luận, em. Không có thì giờ tranh luận đâu. Ngồi thấp xuống! Sắp đến giờ nó rót cầm canh… Những trái pháo cầm canh, những quả bom mồ côi bao giờ cũng đểu cáng hơn những trái rơi trực diện. Để anh nói hết. Biết đâu sớm mai không còn kịp nói nữa? Sớm mai thực sự vào cuộc.
- Em nghe…
- Vậy mà súng đạn nó kiềng anh, nó nhất định không chịu cho anh thành què cụt. Chắc nó muốn xơi gọn anh cả một lần cho gọn. Thế là anh đi tìm sự què cụt khác. Ở giữa những vòng rào thép gai đầy mìn trái, không biết đã bao lần nằm âm thầm ở giữa nó, trong anh đã nảy sinh một ham muốn tột độ là đánh động. Ho một tiếng, khịt mũi một tiếng, chạm rào, sôi bụng, thậm chí cả trung tiện một cái ngay trước mũi thằng gác. Thế là xong. Chúng sẽ bắn ra vài tràng, quẳng ra vài trái tạc đạn, bấm con cóc mìn cho nổ tứ tung… Chết thì thôi. Không chết, sáng ra sẽ được chúng nhặt về, băng bó đánh đập theo đúng thủ tục chơi rồi sau đó sẽ đày ra Côn Đảo, Phú Quốc… Đâu cũng được, bao lâu không thành vấn đề, miễn là không chết. Vậy mà vẫn không xong. Sự may mắn, hay nói cách khác là cái què cụt vẫn không chịu đậu vào vai anh. Nó còn muốn hành anh. Còn thích thú được nhìn anh tiếp tục gồng lên, giằng xé, hoảng loạn hết trận này sang trận khác, hết mùa này sang mùa kia. Dần dần cái ngây ngất sau một lần đánh thắng, cái đau buồn sau một lần chiến bại trong anh không còn nữa. Tất cả vón cục lại thành nghĩa vụ, thành bản năng tự vệ và một chút tự trọng đàn ông. Lý tưởng ư? Mục đích ư? Giải phóng miền Nam ư? Vẫn có cả đó nhưng nó đã lặn vào đâu đó trong người sâu lắm rồi, không dễ mỗi lúc mà moi ra nhấm nháp như thứ lính chuyên ngồi văn phòng, lính phía sau, cách cái chết nửa vòng trái đất.
Đó, sự thật về anh, về tên Việt Cộng sừng sỏ thiên hạ đang nể trọng là như thế đấy.
- Em biết… Em hiểu… Em…
- Chưa hết! Vào giây phút hiểm nghèo nhất, anh đã hiện nguyên hình là một tên ăn cắp. Ăn cắp một hộp sữa dành cho thương binh…
- Anh Hùng… Em không nghe nữa đâu - Cô gái vội lấy tay bịt tai lại.
- Em phải nghe! - Con mắt Hùng cháy lên trong một vẻ hứng khoái man rợ - Cũng trong một khu rừng như thế này, cũng bom đạn và cũng đói như thế này, buổi sáng, anh đã quyết định khai trừ ra khỏi Đảng một chiến sĩ gan dạ nhưng đã tự tiện ăn hết phần gạo dữ trữ quy định. Gạo lúc đó là máu, là danh dự, là sống còn, xẻo vào gạo là xúc phạm đến tất cả. Nhưng em biết không? Về đêm, chính anh đã lợi dụng bóng tối bò sang lán thương binh móc bồng ăn cắp một hộp sữa. Sữa còn quý hơn gạo. Không dao, không kéo, chỉ bằng hai hàm răng, anh đã cạp thủng nắp hộp và mút một hơi, đến đáy… Sáng ra, bên ấy nháo lên, dằn hắt, nghi ngờ, sỉ mạ nhau. Còn bên này, anh cắm đầu xuống im lặng. Im lặng cho đến tận bây giờ. Hết! Anh là như thế. Bây giờ đến em. Em có quyền khinh anh, xa lánh anh, bỏ anh, tuỳ!
- Không! - Sương nói sau một phút cúi nhìn xuống đáy hầm, nơi có con chôm chôm bị gẫy giờ đang lê lết tìm vào góc kín - Em thương anh… Càng thương. Trước đây thương anh nhưng… vẫn ngại. Anh xa cách, anh khó hiểu, anh… sao ấy. Bây giờ gần anh hơn, dễ hiểu hơn, như đã thấy anh, gặp anh, trò chuyện với anh ở đâu đó nhiều lần rồi. Em thương cả sự yếu đuối của anh.
Đôi mắt Đức Mẹ nhìn chúa Hài đồng cũng chỉ vời vợi yêu thương đến thế là cùng. Hùng tự dưng muốn ngủ, ngủ thật say, ngủ luôn trong không gian loà sáng ánh hào quang vô biên đang từ đôi mắt của cô không ngớt toả ra. Và anh ngủ thật… Một cái hôn nhẹ vào trán. Tiếng nói ai dịu nhẹ, mơn man:
- Ngủ đi! Ngủ một chút đi anh!… Đã hai ngày hai đêm nay, anh chưa chợp mắt chút nào rồi. Em sang hầm chị Hai đây. Em sợ vết thương của chị nhiễm trùng. Tức cười ghê cơ! Vết thương của mình không lo, cái sống của mình không lo, lại cứ đi lo cho tiểu đoàn anh Tám ở bên kia sông. Chờ nhen! Em sẽ quay lại ngay…
Sương đi rồi, thiếu vắng hơi ấm của cô, anh bừng tỉnh. Lạnh. Và trống trải. Anh áp má vào thảm lá còn vương lại chút hơi ấm của cô, khẽ mỉm cười bâng quơ… Ôi chao! Nếu những ngày này không có em, không có cái dịu dàng cam chịu, cái thấu đáo thăm thẳm nhân hậu của em, cuộc đánh càn này, cả cuộc chiến đấu này sẽ nhạt nhẽo và khiên cưỡng biết chừng nào!
Đầu hầm đằng kia, Tuấn đã tỉnh dậy, im lìm, chỉ thấy tàn thuốc rê chốc chốc chấm lửa vào đêm. Anh nhìn đăm đăm vào đốm ma chơi ấy… Từ lúc đó đến giờ, Tuấn tỏ ra sợ anh, lảng tránh anh. Và anh cũng không có ý định làm một điều gì đó để cái đầu hỗn hào kia bình thường trở lại. Nó đã hỗn thì nó phải trả giá. Thậm chí anh muốn cái vật thể kia biến đi, biến đi khỏi cánh rừng này, biến vĩnh viễn. Cuộc đời ngớ ngẩn. Đứa ưu tú ngon lành thay nhau chết rụi. Thằng dở người dở ngợm lại cứ sống nhăn. Nói cho cùng, vị trí cái chuôi đạn màu xanh dương kia đáng lẽ phải nằm ngược trong bụng mày chứ không phải bụng thằng Bảo đâu, Tuấn ạ! Đồ khốn!… Chao! Ngày hôm nay, mới chỉ là khúc dạo đầu của bản nhạc tử thần mà đã hụt đi ba thằng. Hai chết, một bị thương. Ngày mai, ngày mai nữa? … Thêm thằng nào? Hết sạch bách hay vẫn còn rơi rớt lại mấy thằng bố láo như mày? Trong số đó có tao không? Giả dụ sau cuộc càn, chỉ còn lại mình tao với mày trong khu rừng trống hoác này thì… hay đáo để. Hai thằng. Một thằng giơ chân, thằng kia giơ tay, rút cục chả thằng nào mất đi cái gì, chỉ tiêu vong niềm kiêu hãnh ít ỏi của dân lính chiến mỗi khi nhìn vào mắt nhau. Kiêu hãnh!… Hơ! Tao là mày, mày là tao. Hai thằng hai mảnh gương vỡ phản ảnh nhau, soi thấy lục phủ ngũ tạng, *** đái trong bụng nhau. Cho nên trong căn hầm này, trong cánh rừng hoang dại đang bị huỷ diệt này, dù mày đã tỉnh lại, một phần trong tao đã tỉnh lại, nhưng sự có mặt của mày, của chính tao trong mày, cũng khó chịu quá thể.
Tiếng cười quái dị không rõ nghĩa của Hùng khiến thằng người đầu hầm bên kia giật nảy. Hắn quay phắt lại. Nòng AK rung nhẹ…
- Định cướp cò nữa hả? Hay chủ bóp cò? - Hùng nói lạnh lẽo - Quay mặt lại! Tiếp tục canh chừng phía cửa rừng. Quay!
- Tất nhiên là sẽ quay - Cái cổ đã vẹo đi nhưng cái giọng làu bàu vẫn rớt lại - Tôi sẽ vẫn làm nhiệm vụ của tôi, thằng lính. Làm vì tôi, vì cái mạng sống của tôi trước đã. Anh đừng nặng giọng như thế. Nếu tính thanh toán với tôi, anh cứ thử đi.
Cay đắng chưa? Thằng ôn con đã anh anh - tôi tôi từ lúc nào thế này? Lại còn cái giọng đao búa kia nữa? Phải chăng cứ lao vào chém giết, dù nhân danh điều này nghĩa nọ, cái tính du côn thảo khấu đã ngấm trở lại nó rồi ư? Nếu thế thì…
- Im cái mồm! Bây giờ không phải lúc giở giọng lưu manh. Cút! Chạy đi báo cho hai mũi trưởng đến đây hội ý ngay! Chú ý nghe tiếng pháo đề-pa!
- Rõ! - Tuấn trả lời theo đúng điều lệnh rồi băng mình vào bóng tối.
Xem ra nó có vẻ khá hơn rồi đấy. Hùng nhìn theo, nghĩ thầm. Tuy vậy nó cũng làm hỏng mất cái buổi tối hôm nay của mình, một buổi tối chuyển tiếp sang cái chết sớm mai, một buổi tối còn vương lại hơi ấm thân thể em trên đám lá vừa đứt cuống. Giờ này em đang ở đâu? Em đi sao lâu về thế!…
Ầm!… Một trái cối mồ côi không biết từ đâu quất thẳng vào mớ suy nghĩ rối nhằng của Hùng. Vừa kịp thụt đầu vào, anh đã thấy tất cả tối sầm, đất đá rùng rùng chảy về lèn chặt, bóp nghiến lấy hai bên sọ não… Hùng mê đi với một đốm sáng vàng khè tắt lịm trong đầu: Vậy là cuối cùng, số phận ta cũng đã tới điểm chót!… Nhưng sao ta lại chết trước em? Chết trước lời tiên đoán ấy?… Vĩnh biệt!
… Nhưng một lần nữa cái chết lại vuột khỏi vai anh như một sự giỡn đùa độc ác. Thời gian câm lặng trôi qua bao lâu không biết nữa. Chỉ mang máng nhớ rằng sau một khoảng thời gian ngừng thở, khối đất đá bủa vây quanh anh bỗng nới lỏng dần ra rồi một tiếng gọi ở nơi nào xa lắm vẳng đến. Tiếng gọi rõ hơn, hào hển, run run, uất nghẹn… Tiếng gọi xen vào tiếng cào đất cồn cột của những móng chân lượn rừng mỗi lúc mỗi hối hả. Tôi đây… Tôi đây… Ai gọi đấy? Tiếng trả lời quánh đặc trong cổ, chỉ có những bong bóng màu sủi ra ở mũi ở mồm. Anh lại mê đi… Ta chết!… Chết thật rồi! Nhưng sao lại nhẹ nhàng khoan khoái làm vậy? Dễ chịu biết bao! Tại sao phải chờ đến tận lúc này mới chết? Thật là ngờ…
Ít phút sau, thân thể anh được lôi lên khỏi lòng đất, xây xát bầm dập hết cả nhưng không có vết máu. Một đôi môi ẩm ướt và nóng bỏng của ai gắn chặt vào miệng anh hút mạnh… Hút nữa… Tấm màn đen trong đầu bị xé rách từng mảng. Từ đáy vực xoáy nước, anh cảm thấy rõ ràng mình đang từ từ nổi lên. Bồng bềnh. Buốt lạnh… Đôi môi ấy không hút nữa. Nó bồn chồn chuyển lên mắt, lên mặt, trán… Vẫn nóng ướt và vội vàng… Hùng mở mắt ra… Khuôn mắt Sương đang phả xuống anh làn ánh sáng xanh dịu, vỗ về, hân hoan, xa xót. Anh gượng ngồi dậy. Đến lúc ấy anh mới chợt nhìn thấy khuôn mặt thứ hai, khuôn mặt của Tuấn. Nó không nói gì, chỉ nhìn anh im lặng. Tiếng nói của Sương thốt lên:
- Trời ơi!… thế là anh sống rồi!… Sống thiệt rồi, Tuấn ơi! May quá! Nếu lúc ấy
Tuấn không về kịp móc bới anh lên thì…
Cô bật khóc rấm rứt. Hùng quay đi, nhìn trở lại lỗ đất đen ngòm khẽ rùng người… Chính giây phút kỳ lạ của sự choáng ngợp giữa hai làn sóng tình yêu và tình đồng đội, sự sống và cái chết, lòng đất và bầu trời cùng lúc ào tới, trong cái đầu đang còn nhức ong ong của người chỉ huy đặc nhiệm vùng căn cứ lõm đột nhiên bật lên một ý tưởng táo bạo.
- Tuấn ơi! - Anh quay sang nắm chặt lấy bàn tay hai người - Ngay đêm nay, chúng ta sẽ đột kích vào đầu não của chiến đoàn Mỹ 52. Chỉ có như thế mới tránh được cái chết chùm đã quá rõ ràng. Các bạn hãy ủng hộ tôi.
Tuấn lặng lẽ gật đầu. Còn Sương, cô khẽ khẽ thở ra… Đột kích ư? Huỷ diệt ư? Cả cái tên chiến đoàn 52 trúc trắc ấy nữa ư? Cô không cần biết. Không thích biết. Giờ đây đối với cô, chỉ có anh đang hiện diện, đang thở, đang nói, đang nhìn cô, thế là đủ. Anh đang đúng là anh, tột cùng xa lạ và cùng tột cùng gần gũi như ngày nào.
CHƯƠNG X
Thời buổi thiên hạ đang tự thoát xác để lao vào làm ăn, rình rập, cạnh tranh, cuồng nộ, nắm bắt, lao lên, mọp xuống, náo động, âm thầm, bộc trực, độc địa, vấp ngã, vọt thẳng, nhà tù, vinh hoa… còn gầm gào dữ dội và chết chóc hơn cả những trận B52 rải thảm dạo nào, tìm được Tuấn, một chủ hãng tư nhân nắm trong tay ba, bốn tổ hợp sản xuất, kinh doanh như Ba Thành nói, đâu có dễ dàng gì.
Một vi-la kiểu điền trang nhưng có nhà tầng, có vườn cây râm mát bao quanh? Tất nhiên! Một biệt thự êm đềm có đàn chó nằm phục bên thềm đá, có vòm hoa giấy đủ màu phủ kín những ban công trang nhã? Tất nhiên! Và cũng tất nhiên luôn cả cái chuyện Tuấn không có nhà, đang bận đi ký một cái hợp đồng béo bở gì đó ở tận đâu, buộc tôi phải lủi thủi quay ra hẹn lúc khác trở lại mà tịnh không có một lời mời chào nán lại uống ly nước, ly trà hay dùng tạm bữa cơm dưa muối rau cà cái đã. Tất nhiên và ngẫu nhiên. Cuộc đời chả bao gồm một chuỗi những ngẫu nhiên cay đắng hay tất nhiên ngọt ngào, cũng có thể ngọt ngào đó là gì? Vả lại, biết đâu nhà người ta lại nghĩ đến mình đến nhờ vả, xin xỏ như bao kẻ thất cơ lỡ vận khác đã từng đến đây hoặc sẽ đến đây mỗi sáng mỗi chiều. Chả lẽ với bộ mặt rách rưới, bộ cánh hôi xì lại vô lối vỗ ngực nói rằng ngày xưa, ngày ấy, đã có một thời tôi là sếp của ông chủ ngôi biệt thự đây? Chưa đâu. Trong trái tim võ vàng bệnh tật của tôi vẫn còn một chỗ rắn câng không cho tiếng nhục chui luồn vào được. Nhục! Nói cho cùng, cũng là một thứ nguỵ biện thoi thóp thôi. Cuộc đời tôi kể từ ngày ra khỏi rừng, đã chịu nhục quá nhiều rồi, chịu đến nỗi thành quen. Thì đang không lại mở cuộc hành trình ngớ ngẩn đi tìm sự thật về người đàn bà đó chẳng là một hành vi quá ư nhẫn nhục đó thôi? Lạ lùng! Giống như canh bạc về sáng, càng nhọc nhằn, càng cam chịu, ý muốn đạt đến đích ở tôi càng thôi thúc.
Đã có lúc, vào những đêm khuya khoắt không ngủ được, chấp chới trong tôi một ám tượng: phải chăng sự báo oán của Sương (nếu như em chết thật) của bao nhiêu linh hồn vất vưởng khác thuộc bên này hay bên kia, do chính tay tôi hoặc mệnh lệnh của tôi gây nên đã khiến cho tôi giờ đây thành thân tàn ma dại dường này? Trong chục năm cầm súng, tôi đã giết bao mạng người? Mười ư? Không chắc. Mười lăm? Chưa phải. Hai mươi… Hai nhăm? Những mốc ngày tháng, mốc sự kiện, những trận đánh, những khuôn mặt trai có gái có, già trẻ đều có, chợt hiện lên, diễu hành như sương khói trong đầu… Cuối cùng tôi nổi gai người khi danh sách âm hồn ấy được ấn định ở con số 55! Năm mươi nhăm mạng người cả da vàng lẫn da trắng cho mười năm, cho hàng núi khổ ải kinh hoàng. Để rồi kết thúc bằng sinh vật người cuối cùng lại là em? Không! Không thể như thế dẫu rằng mọi chuyện khủng khiếp nhất vẫn có thể diễn ra như thế. Năm mươi lăm! Cứ mỗi người bên này đốn gục năm mươi lăm người bên kia và ngược lại thì con số sẽ lên đến bao nhiêu? Những linh hồn vất vưởng sẽ thực hiện hành vi báo oán cho tới tận bao giờ? Ai báo oán ai? Hay trận đòn thù chất ngất khí lạnh hờn căm lại tiếp tục xảy ra nơi địa ngục?
Tất nhiên, thưa bạn đọc! Khi trong người thấy khỏe, tôi cũng đủ tỉnh táo để nghĩ rằng, giết đi một lực lượng đại diện cho cái ác thì có nghĩa là anh đang làm điều thiện, vậy thì oán cái nỗi gì? Nhưng nhỡ ở dưới đó, ở đâu đó, nơi âm ty tăm tối hay vùng đất đai xa lạ, những linh hồn kia lại cãi họ mới chính là đại diện cho điều thiện thì sao? Không biết! Nhức đầu lắm. Tương đối hết! Kệ cho cuộc đời phân xử, cho thời gian chỉ rõ trắng đen. Lúc này tôi đang lận đận đi tìm cái mảnh linh hồn bé nhỏ của tôi đang ký gửi vào em kia mà.
Tuy vậy, năm mươi lăm mạng người… Thế cũng là nhiều, quá nhiều cho một đời cầm súng, nhiều tới nỗi, nói ra điều ấy xin những người cộng sản chân chính trong cuộc bỏ lỗi cho, tỉnh uỷ và tỉnh đội phát xót ruột. Chao ôi! Cũng xin một lần thể tất. Nồi da nấu thịt, kẻ ngã xuống dù ở tuyến này hay tuyến kia, đều là con dân của một vùng đất nào đó, có ai xót ruột giùm không? Câu chuyện này rồi đây sẽ gây phiền rất nhiễu cho tôi mà nếu bạn đọc cho phép, tôi sẽ có dịp trở lại.
Còn bây giờ, trong khi chờ tối để trở lại nhà Tuấn theo lời hẹn rụt rè của một bà má nói tiếng nói tiếng Bắc có nét mặt hao hao giống ai mà tôi không tài nào nhận ra được, tất nhiên là không giống như Tuấn, trong dạ dày chỉ có mấy bắp ngô đỡ lòng, tôi lững thững ra bờ sông.
Dòng sông mùa này nước đục. Bên kia sông là một khu đất cao rộng chừng ba héc-ta mà trí nhớ tôi không đến nỗi tồi thì đó chính là căn cứ của Bộ tư lệnh chiến đoàn 52 Mỹ trước đây, hiện giờ được phủ kín bằng màu xanh mướt mắt của những rặng điều. Còn phía sau, lần này lại thuộc về con mắt quan sát của tôi chưa đến nỗi già nua cổ hủ lắm thì đó là vương quốc của ái tình được ngự trong những căn chòi dạng cam-pinh nằm kín hở trong xôn xao lá cành.
Một bên là rung giạt lịm hồn, một bên là chiến tranh đẫm máu, bên này là hiện tại rì rầm, bên kia dĩ vãng xa ngắt, phía trước là nỗi đau tột cùng, đằng sau lại là hứng cảm tột độ. Tôi chơ vơ đứng giữa, để mặc cho thân mình chìm nghỉm xuống vùng ký ức lạc lõng có lấm tấm những hạt nắng đang nhẩy nhót trên lá bèo lục bình…
… Mờ sáng hôm đó, chúng tôi đã có mặt ngay bên cạnh nách đối phương, trong một lùm bụi rậm rạp đầy gai mắc cỡ. Mắc cỡ gì nữa ơi loài hoa trinh nữ? Chỉ giây lát nữa thôi, tất cả sẽ rừng rực lửa khói, hoa có khép nép xiêm y lúc này cũng chả để làm gì.
- Sao anh không đưa chị Ba đi cùng? - Tuấn hỏi vào tôi nóng hổi - Lúc ra khỏi cửa rừng, chị ấy nhìn theo anh cái kiểu gì mà nếu là em thì dứt khoát hai giò sẽ dính lại.
- Sương cũng muốn đi nhưng Hai Hợi không cho - Tôi trả lời, đầu óc dịu đi trong ý nghĩa về Tuấn, về tình cảm đồng đội, huynh đệ đã được thiết lập trở lại - Cô ấy bảo chỗ của Sương là ở phía sau, ở hầm cứu thương, ở trong quả tim đàn ông chứ không phải ở ngoài cái bãi đầy *** Mỹ và nước đái điếm ấy. Ghê chưa?
- Anh Hai…
- Gì nữa? Căng mắt mà nhìn đi!
- Em vẫn nhìn. Hồi đêm em…
- Biết rồi. Bỏ qua đi! Thằng lính nào chả có lúc khùng điên.
- Không!… Không phải chuyện ấy.
- Chuyện gì?
- Em… Em vừa được ngủ với đàn bà xong. Lạ lắm!
- Hả?… Ngủ với đàn bà?
- Vâng! Đàn bà.
- Khi nào?
- Khi đêm. Lúc chúng mình chuẩn bị xuất phát.
- Ai thế?
- Cô… Cô Thu giao liên.
- À, con nhỏ mới đưa công văn xuống khi tối. Trẻ trung, béo tốt, răng hơi hô một tí, ngực căng, mắt lúng liếng… Được đấy. Nhưng tại sao lại nhanh thế? Đã bao giờ tao nghe mày nhắc đến nó?
- Thì em cũng vậy. Cứ như là nằm mơ ấy. Đến bây giờ em vẫn chưa tin là thật. Năm thì mười hoạ mới gặp Thu một lần. Lúc ở địa bàn, khi ở hậu cứ, chỉ thấy con mắt hay hay, cái miệng có duyên, đường hông ngon ngon, vậy thôi. Cô ấy thiếu gì các bố sĩ bóng bẩy, nhiều tiền trên bộ tham mưu bám vào, sức ấy một thằng lính quèn, đang có án kỷ luật giết bạn, lại tròn ủng xấu xí như em dám mơ màng.
- Khẽ! Chúng nó bắt đầu lục tục trở dậy. Chuẩn bị đi!
- Chưa đâu. Mới có 4 giờ 30. Còn nửa tiếng nữa. Em kể nốt.
Tôi nhìn nhanh sang nó. Đúng là nó cần phải kể cho xong thật. Nếu không được nói, được kể, bằng vào đôi mắt ngây ngây cháy sáng kia, nó dám vỡ tim ra mà chết mất.
- Nói nốt đi! Nhưng nhanh lên. Miệng kể, mắt phải nhìn.
- Rõ! Cái lúc bới móc được anh lên, hai bàn tay sưng tấy, đau quá, không ngủ được, em bèn mò ra suối với ý định ngâm tay vào nước lạnh cho dịu đi. Bất ngờ lại gặp Thu đang tắm ở đó. Tắm truồng hoàn toàn. Chắc là vượt trên mười cây số đồng bưng tới đây nực nội quá, cô ấy phải tắm cho mát. Nhìn thấy em, cô ấy chết sững. Còn em, đang lẽ phải quay lên mới ra cái thằng đàn ông có học nhưng lại cũng chết sững luôn. “Lên đi! Ra đây làm gì! Dơ!”. Cô ấy nói cáu kỉnh. Tự dưng bị chửi, em cũng vặc lại luôn: “Ra ngâm tay. Ngày hôm nay cô có biết ở đây đã xảy ra cái gì không? Hai chết, hai bị thương, cũng sắp chết! Suối này của cô đấy à?” Cô ấy im lặng một chút rồi nói khẽ: “Xin… Xin lỗi! Vậy anh ngâm lẹ lên để tôi còn tắm. Sắp tới giờ chúng đánh pháo rồi”. Trời đất! Anh bảo lúc ấy còn thiết ngâm nga gì nữa. Mắt em cứ dán vào bả vai, bộ ngực đêm tối như thế mà vẫn cứ trắng sáng lên. Một cái pháo sáng oằn oèo rơi xuống khiến cho em thoáng thấy đôi mắt Thu nhìn em lạ lắm. Nhìn vào cái băng trắng trên đầu, vào bọ quần áo tơ tướp, vào hai bàn tay cong quèo, nhìn hết. Em lúc đó chắc giống một thằng ăn mày. Rồi đột nhiên cô nói nhỏ:
“Sao cứ đứng thế? Kỳ giùm tôi cái lưng một chút có được không?”. Tất nhiên là… Em lội xuống liền, vấp ngã giúi giụi. Chà! Lần đầu tiên được đụng tay vào một cái lưng con gái, tay em run bắn, cứ kỳ trượt lung tung ra ngoài. Mà này, buồn cười lắm cơ! Hoá ra cái lưng của họ cũng chả khác cái lưng bọn mình bao lăm. Cũng xương sống, cũng xương sườn, cũng thịt da chỗ ráp, chỗ nhẵn, chỉ có cái khác là trắng hơn thôi. Thế mà cứ tưởng cái lưng họ mềm lắm, mịn màng lắm, sờ vào nóng bỏng tay? Hồi lâu, chắc bị nhột, cô ấy bỗng quay mặt lại… Thế là mắt em mù luôn, không còn trông thấy gì nữa, vội vơ quàng lấy cái màu trắng trắng tròn tròn ấy siết chặt… ướt quá!
- Thôi, biết rồi! - Vừa nóng ruột thực sự vừa pha một chút ghen ghen, tôi càu nhàu ngắt lời. Nhớ là phải nện ngay khi chúng vừa ló đầu ra khỏi hầm nghe chưa?
- Nghe rồi. Nện ngay! Nhưng còn tí nữa, nói nốt đã. Nhỡ chốc nữa không còn mồm mà nói thì sao? Thế Tuấn nuốt nước bọt khan - Lần đầu tiên… ấy, đúng là lần đầu, thề thần phật, em không còn biết xoay xở ra sao cả. Nhất là lại ở trong nước, Thu cứ trơn tuột, cứ giãy ra, em bế thốc Thu lên bờ. Đặt xuống cỏ. Nằm đè lên… Lúc này Thu không giãy đạp nữa, chỉ thì thào: “Dơ, dơ hết anh… Găng võng!”. Thế là chạy như điên về hầm lấy võng. Ra đến nơi, Thu không còn ở đấy nữa. Say máu rồi, em lao thẳng về hầm cô ấy. Cũng không có nốt! Nhưng lại ngửi thấy mùi xà bông Ba Bê quanh quất ở đâu đó. Như con hổ đói mồi, em sục vào từng gốc cây, bụi rậm… Và cuối cùng tìm thấy Thu đang đứng run như thằn lằn đứt đuôi ở một gốc săng máu. Em ào tới… Thu nhủn người ngã vào tay em, miệng lắp bắp: “Từ từ chớ anh!… Đừng làm em sợ!”. Tai ù đặc, còn nghe được cái gì nữa, em bế Thu trở lại võng…
- Xong chưa? - Tôi hỏi.
- Sắp xong. Chỉ tại cái võng, không thì xong rồi.
- Võng làm sao?
- Võng - đúng là …võng, cứ lùng nhà lùng nhùng không làm sao xoay xoả nổi, hết ngồi lên lại nằm xuống, mồ hôi mồ kê vã ra như tắm. Mà thân thể nóng bốc khói lên rồi. Cuối cùng em đã nghĩ ra được một cách, hay chính Thu, bằng mắt, đã gợi cho em cách đó. Chết mất thôi, nói anh đừng cười nhé! Em đã phải dùng cả hai tay nắm chặt đầu dây võng đu rướn người lên. Mỗi lần rướn là mỗi lần lôi cả thân hình Thu lên theo tới nửa mét. Rồi lại buông xuống. Cứ thế, rướn rồi buông, buông rồi lại rướn, hai đứa miết vào nhau, quay cuồng đảo lộn, thây kệ cho vải võng kêu như pháo rít. Mà pháo có rít thật lúc ấy cũng mặc, thậm chí nếu anh có đứng bên cạnh mà quát:
“Đồng chí Tuấn! Tôi sẽ khai trừ Đảng đồng chí!” thì em cũng đành để bị khai trừ quá?
- Chà! Chúng nó có vẻ đông đấy.
- Đông chứ! Thằng Mỹ nào mà chả đông… Rồi mọi việc cũng kết thúc. Thu ngồi dậy, mặc quần áo, gục đầu xuống đầu gối khóc: “Tuấn đừng khinh tôi. Tôi không phải đứa con gái… Thấy Tuấn khổ quá, ngày mai lại lao vào chỗ chết nên… nên tôi không nỡ. Mà cũng tại Tuấn cơ. Người gì mà tàn bạo, tôi… tôi không thể cưỡng…”. Em cũng mếu máo lại: “Khinh gì? Sao lại khinh? Chính tôi là kẻ đáng khinh thì có. Nếu Thu khóc nữa, tôi nhảy xuống sông tôi chết để tin nhau”.
Khí… Khí! Nói là nói thế chứ xuống biển cũng chả chết nữa là xuống sông. Rồi em ngớ ngẩn hỏi tiếp: “Nhỡ … Nhỡ có chửa thì sao? Liệu… chửa không?”. Đến lúc ấy Thu mới gạt nước mắt, gượng cười: “Anh khoẻ quá! Cứ như đánh giáp lá cà với biệt kích Mỹ. Cạch đến già”. Em nói…
- Thôi, đủ rồi!
- Tí nữa. Em nói, Thu ơi, đây là lần đầu, đau đau thế nào ấy nhưng còn sống trở về, nhất định anh sẽ hỏi Thu làm vợ. Cô ấy không trả lời. Thế… Thế anh bảo Thu có yêu em không?
- Yêu - Tôi nói cho qua.
- Vậy thì xong rồi. Em nói đủ rồi. Anh ra lệnh đi! Cần thịt bao nhiêu thằng nào?
- Ngồi im tại chỗ, tạm dẹp hình ảnh con nhỏ sang bên, nghe nổ lệnh là quất hết cơ số đạn. Tao bò sang tổ thằng Vượng và tổ thằng Hân một chút.
- Khoan! Để em xem nào - Tuấn lầm bầm tính toán - Tất cả có 9 người tổng cộng 45 trái B40, 72 trái lựu đạn, 540 viên đạn nhọn, được, dư sức xoá sổ cái đầu con rắn da trắng này. Anh đi đi!
… Trận tập kích bằng hoả lực sáng hôm ấy chậm mất hai tiếng so với ý định ban đầu. Đối phương đã phá bỏ lệ càn vào giấc sớm. Tám giờ, nắng đã lên chói chang rồi mà trong chốt vẫn chưa có dấu hiệu gì là sắp hành quân, trừ vài thằng đi đái, đi ỉa. Một thằng lính da đen cao to tới thước tám, cởi trần, mặc quần vải lừ lừ tiến đến ngay trước mặt tôi, chỉ cách một bụi rậm. Nghĩ rằng nếu nó tiến tới nữa thì chỉ còn cách thọc một mũi dao vào cái bụng thây lẩy, đen nhễ nhại kia, nhưng không! Hắn chạng chân, vạch quần ra đái tồ tồ, vừa đái vừa ngáp như đứa trẻ nửa đêm bị bắt phải ra đái ở thúng tro đầu hè. Từ dòng nước vàng đục ấy, mùi rượu và mùi nước giải khai nồng xộc thẳng vào mũi tôi đến muốn hắt xì hơi. Tuấn chun mũi thì thào: “Mẹ nó! Đái như trâu đái. Cái *** gì mà to quá cỡ, căng chằng chằng, phải gấp đôi người mình”. Tôi không nhận ra cái gấp đôi ấy bởi lẽ tâm trí đang dồn cả ra bìa sông. Thằng này xuất phát chậm một chút không sao, càng chậm càng tốt nhưng còn hai thằng kia, thằng dưới sông và thằng trên trời có chậm theo không? Hay là nó cứ y kế hoạch nện trước thì cánh Hai Hợi, Ba Sương sẽ ứng phó ra làm sao? Chợt hận mình không phải là dân đặc công để khỏi phải nằm im ngửi nước đái, cứ lẻn vào quất rụi chúng ngay trong hầm.
- Chợt từ phía Biên Hoà có ba chiếc cán gáo đang è è bay lên, nặng và tròn như ba con nhặng no mồi vụt bay từ đống phân trâu. Tôi thốt lạnh xương sống. Vậy là chúng bắt đầu triển khai trò chơi huỷ diệt! Khốn nạn! Tự dưng lại bỏ trận địa ra đây để thúc thủ ngồi nhìn chúng nó tiêu diệt từng anh em mình trong cụm rừng đó!… Ơ! Nhưng sao chúng lại bay đến đây? Tính đổ thêm quân để quyết ăn gỏi đối phương một lần à? Tốt thôi! Một đống lúc nhúc chưa đủ sao mà lại còn phải thêm mới nếm? Giàu thế, các người anh em ngoại quốc? Tốt thôi! Để bọn này quạt cả thể cho đã tay. Ba chiếc trực thăng sà xuống thấp, nới rộng vòng lượn, chao cánh chuẩn bị hạ càng… Tôi thở phào. Dù sao cũng nhẹ đi một việc. Chỉ trách Hai Hợi ù lì, thích bám cứng lấy cụm rừng đó, nói rằng để tiện bắt liên lạc với người của Tám Tính bên kia sông khi có tình huống xấu xảy ra.
Ba chiếc cán gáo đã hạ càng, bụi đỏ bốc lên mù mịt như ở đó đang xuất hiện một cơn lốc máu, sức gió táp rát mặt những thằng lính đang lăm lăm đặt tay vào cò súng ở chiến tuyến bên này. Từ trong các lô cốt thép cơ động, những căn lều bạt trấn bao cát, những thằng người vâm vam to tát dường như đã cồn cào chầu chực từ lâu, chỉ đợi có thế là túa ra đủ màu trắng đỏ đen. Chắc những thằng con nhà giàu này chạy ra đón bia, rượu đồ hộp hay đón một viên tướng nào đó lên uý lạo chúng trước cuộc càn? Ngực tôi bỗng rung lên bởi một niềm vui gần như khoái trá sắp được nhả đạn hết cỡ tay vào một đối phương đích đáng đang sắp hiện ra bằng xương bằng thịt. Cái khoái trá bản năng của những sinh vật đã chịu đựng biết bao u uất, khổ ải đang cần được giải toả vào sự tiêu huỷ những hình bóng lờ mờ, xám đục, không rõ hình thù, không thành ranh giới chứ hầu như có rất ít tia sáng lý trí rọi vào. Giải toả xong là em, trở về với em, được tắm táp, được ăn một chén cơm thật nóng và sau đó là một giấc ngủ bên em, ngon lành. Thế thôi.
Nhưng không phải! Nhảy xuống từ ba cái lồng sắt dữ tợn chẳng hề có một thùng thực phẩm, một viên tướng hai sao, ba sao nào. Như cái trò đùa dớ dẩn, chỉ có một đống những đứa con gái Việt Nam da vàng, ăn mặc đủ kiểu, trắng hồng phấp phới, mini jupe phướn lên, ống quần loe xoạc rộng, rốn hở, đùi hở, ngực phây, mông mẩy bay ra, bị lôi ra, kéo tuột, xốc nách, vác lên vai, cắp ngang bụng, ngầy ngậy, nhốn nháo, phát rồ, biến mất tựa những con nhái đã lột trắng nhễu vào lều, vào hầm, vào bụi, vào sau gò đất, vào tất cả những nơi có thể hạ được cái lưng con gái xuống để làm trò đực cái… Tưởng chừng cả khu chốt rung giật từng cơn, bụi mù, nghiêng ngả trong cơn tình dục quá đỗi khát thèm của bầy vượn nhung nhúc, nhếnh nháng và đám gái ** trét bự phấn từ Sài Gòn bay lên. Tưởng chừng nghe trong ngọn gió tinh khiết có lẫn cả tiếng rên rỉ, cấu cào, hồng hộc của những con nái đi tơ, những con đực động mùa… Trước khi vào trận, chúng cũng đòi hỏi được sống tận cùng cuộc sống để biết đâu không trở về nữa? Tôi nhìn sang Tuấn. Mắt nó trợn trừng, gò má nó tái nhợt đi trong một vẻ u uất khó tả. Những con điếm nội địa và hình ảnh thằng da đen đái bậy vừa rồi có liên quan gì đến nhau trong suy nghĩ của nó không? Hay cái võng thần tiên đêm qua đã gợi cho nó sự nhức nhối trước cơn dục tình mù mịt này?
- Chuẩn bị nhé! - tôi nói - nện ngay vào những nơi chúng vừa ẵm nhau vào. Nện thật căng!
- Khoan đã anh - Tuấn thần mặt, nước miếng đặc quánh ở khoé miệng - Chậm lại một chút có được không? Chúng nó đang…
- Đang cái gì? Tôi quắc mắt nhìn nó - mày thương à? Không nỡ à? Diệt hết! Diệt luôn bọn điếm dơ dáy ấy. Chúng nó còn đáng chết hơn những thằng ngoại quốc đang nằm trên bụng chúng. Sẵn sàng chưa? Bắn!
Cùng một lúc, 45 trái 40, 72 trái tạc đạn US, 540 viên AK có đầu đạn phá… giội lửa xuống, đốt cháy, xuyên thấu, xé nát những thân thể trần truồng căng rướn, quấn chặt. Cơn động tình nghiền nát bản năng. Cái tỉnh táo tiêu diệt cái mê cuồng. Cái không có gì tiêu huỷ cái đáng có tất cả… Cuối cùng là đều không có gì. Cả khu chốt bỗng chốc bị san thành bình địa như nơi đây đã hàng ngàn năm chưa hề có dấu chân người qua lại. Một mảnh của khung cảnh đại hồng thuỷ, của ngày tận thế hiện ra trước mắt tôi: nhà bạt cháy rụi, lô cốt rách toang, máu đọng thành vũng bầm đỏ như tiết đông, xương thịt ngào trộn bùn đất, những thân người chết gục, những thân hình giật giật, cái mất chân, cái mất đầu, cái chỉ còn là một đống thịt băm có trộn cả hành răm, húng tỏi… Và ở đâu đây, như vọng lên từ địa ngục, có những tiếng rên rỉ đau đớn đang lịm dần, tạo nên cái vĩ thanh đối lập và tất yếu của những tiếng rên la đến tột cùng hứng khoái trước đó. Bầu trời trên cao cũng đỏ lòm, những áng mây phản ánh sắc máu chung chiêng dừng lại…
Cạnh tôi, Tuấn đã bắn hết đạn, bắn lên trời hay găm xuống đất, cái đó không quan trọng, miễn là đã bắn hết, đang ghì chặt cây súng như hoá đá, con mắt bạc đi nhìn vào trận địa.
- Sao thế Tuấn? Rút chứ! Muốn ăn phản pháo à?
- Kệ mẹ tôi. Anh rút trước đi.
Tôi nắm ngực áo nó đứng dậy:
- Lại định giở trò hả? Rút!
- Đồ dã man!
Nói thế nhưng nó cũng xách súng đứng dậy. Sự phẫn nộ của nó thật quá! Thật tới nỗi tôi chỉ còn cách nhìn vào mắt nó im lặng. Ngay bây giờ nó có thể gí súng vào giữa ngực tôi nếu tôi máy mồm nói thêm một điều gì lắm chứ. Tôi lao người xuống chân đồi.
Thằng Tuấn lao theo, bậm bạch, xiêu đảo, mũi AK lom khom chĩa về phía trước… Gáy tôi thoắt tê lạnh. Nó nổ này… Nó có thể nổ lắm… Biết đâu đấy. Cái gì chả có thể xảy ra với những cơ số đạn vô nghĩa đó sao? Thêm một vài viên cũng vô nghĩa nữa, có thấm tháp gì!…
Nhưng nó không bắn. Chúng tôi, những người lính miền Đông khoác áo giải phóng, dù thần kinh có hư hỏng đến như thế nào cũng chẳng bao giờ nã đạn vào lưng nhau như mấy vị cầm bút ở phía sau hay cố tình sắp đặt vào cho câu chuyện thêm vẻ lâm ly, trần trụi, nhân văn, nhân bản.
Nó không bắn nhưng khi trở về đến cửa rừng, cuộc đời đã bắn vào nó bằng một viên đạn chí tử. Cô gái của nó bị toán biệt kích Mỹ mai phục trên đường mòn dẫn về hậu cứ giết chết!
Khi chúng tôi bám ra đến nơi, Thu chỉ còn là một cái xác loã lồ, chân tay dẹo dọ nằm trong một tư thế kỳ dị. Rừng xanh, đất xanh, trời xanh… Da thịt sao trắng thế? Mái tóc xoải dài, chấm ngọn xuống suối, đen đến tức tưởi. Tưởng như cô đang nằm ngủ hớ hênh sau một đêm giao liên dẫn khách kiệt sức và sắp tỉnh dậy, cười thẹn thùng, vấn lại tóc nếu như giữa cặp đùi trắng muốt hơi chăng ra của cô, ở chỗ kín, không có một chiếc cọc sần sùi, vạt nhọn cắm sâu vào, xuyên tới đất… Máu đổ như sơn nhểu xuống tận bắp chân bắn từng giọt lên bụng, lên gò ngực vẫn no tròn cái sự sống mới nứt, tạo thành những cánh bằng lăng ma quái vừa ở đâu đó trên cao rụng xuống.
Tuấn lầm lì xua đi tất cả mọi người rồi còn lại một mình, nó cúi xuống, mắt mở trừng trừng, mặt cứng đanh, lặng lẽ và quyết liệt rút mạnh cái cọc ra khỏi thân hình cô gái quẳng xuống suối. Mặt suối loang ra một chút sắc hồng rồi trôi theo dòng nước. Vẫn lầm lì, nó tháo bỏ hết quần áo trên người đắp hờ lên da thịt cô gái, quỳ xuống, gục đầu rất lâu… Khi ngẩng lên, con mắt nó vẫn khô ráo, dài dại, không có một chút nước mắt. Cười lên một tiếng ghê rợn, nó chĩa khẩu AK lên trời siết một tràng dài sằng sặc.
… Cứ để cho nó ở lại một mình em ạ! Tôi nói thầm với Sương lúc ấy đang rũ người ra như một tàu lá héo. Về đi! Nếu thằng Tuấn biết trước được cảnh này, hồi nãy nó đã chẳng nhìn vào cơn dục tình của kẻ thù với đôi mắt như thế. Chiến tranh là một luật chơi tàn bạo. Biết làm sao khác được. Về đi… Về đi em! Đừng nhìn lâu vào đó.
Rừng xanh quá, sao thịt da trắng thế…
Thưa bạn đọc! Tôi đâu có biết rằng, màu trắng nhức nhối của thịt da người con gái giao liên nằm chết giữa rừng xanh hôm nay và hình ảnh búi giun đũa vấy máu ngoằn ngoèo bơi trong bể nước này hôm qua đã là lý do sâu xa để tôi ghi lại những dòng này chứ chưa hẳn vì người đàn bà bí hiểm chết đi lại sống lại kia. Hay cũng có thể do cả hai mà viết tới đây, chính tôi cũng chưa thật biết.
Cuộc càn đã được kết thúc tức tưởi ngay sáng hôm đó, tất nhiên không thể không kể đến phần trợ lực đáng kể của tiểu đoàn Tám Tính khi chính anh đã dẫn một thê đội cảm tử thọc vào giữa đội hình ba chục chiếc xe bọc thép của chúng. Vậy mà mãi đến tận nửa đêm, tôi mới tạm xong mọi việc để ngồi bên em. Sau dông bão, em càng bé nhỏ, đôi mắt đã to lại dường như mênh mông hơn, ngổn ngang, xao động chất chứa đủ điều. Con chim non ốm yếu sẽ còn chịu được bao mùa dông bão nữa? Thương em rời rã cả người, định kéo em vào lòng, ôm chặt lấy em, dùng tất cả sức lực còn lại sau một ngày đã tiêu huỷ đi gần hết để hà hơi, tiếp nhiệt cho em, có biết bao điều để nói nhưng em khẽ đẩy tôi ra, giọng nói toàn nước mắt:
- Chị Hai… bỏ đi rồi! Có lá thư chị để lại cho em…
Tôi vội cầm lấy tờ giấy học trò nhăn nhúm dính đầy đất cát, có những hàng chữ thô kệch ngoằn lên ngoằn xuống bấm đèn pin đọc:
“… Sương yêu của chị!
Chị đi đây! Anh ấy chết rồi, chị chả còn lý do gì để ở lại rừng nữa. Chỉ tiếc chị không kịp có một đứa con với ảnh. Ra đi lúc này, chị tự biết có trọng tội với mọi người, với em, với các chú các bác Cách Mạng. Nhưng dù còn ở lại, chị cũng chỉ là con vô tích sự thôi. Ba hiểu cho chị, chị đâu có ngán đánh đấm, ngán hy sinh, cực khổ cỡ nào cũng chịu được, cái chết đối với chị chả có nghĩa gì, vậy mà chị phải đi để ngày ngày khỏi phải nhìn thấy ảnh có mặt ở ráo trọi những gốc cây, bụi rậm, bến sông, đường mòn… Chị khổ lắm! Giả dụ chị có thể chết thay cho ảnh, chết theo ảnh được… Chị là tên phản bội, tên chiêu hồi, con đảo ngũ khốn nạn!… Em hãy chửi chị, nguyền rủa chị đi nhưng hãy thương chị với Ba nhé! Chán cuộc đời đen bạc, chị vô rừng. Tính ở rừng mãn kiếp, ở rừng tới chừng trúng đạn ngã xuống là rồi đời ai dè lại gặp ảnh! Bắt đầu chị chỉ chấp nhận ảnh để giúp ảnh ra khỏi căn bệnh ghê người. Miết rồi, con người thô bạo, bị mọi người sợ hãi xa lánh đó đã làm chị sống lại mọi ước mơ, hy vọng, làm chị dần dần tìm lại được cái tâm tính đàn bà tưởng đã vĩnh viễn chôn chặt đi với tay đại uý đó và cùng với những trận đánh dữ tợn sau này. Ngược lại, chị cũng tìm thấy ở ảnh một khí chất đàn ông toàn vẹn, hơi méo mó nhưng vẫn toàn vẹn. Ảnh cần có chị và chị cũng cần có ảnh. Vậy thôi. Bây giờ ảnh không còn nữa, chị phải lội trở lại với cõi đời đen bạc vậy. Ba ơi! Đừng cười chị, cho rằng vì chuyện đực cái mà nay vào mai ra. Hổng phải đâu. Trăm điều xấu xa hơn thế nhiều mà chị không biết cách diễn đạt thế nào cho trúng. Chị là đàn bà. Đã là đàn bà thì còn lắm nỗi đa đoan vượt ra ngoài mọi chuyện đâm chém chết chóc kia em ơi!
Cho chị Hai quỳ xuống tạ tội cùng em, cùng mọi người, cùng anh Hùng. Đừng để mất Hùng nghe em! Đó là người đàn ông ngon lành nhất chị chưa hề gặp kể cả bên này lẫn bên kia. Ra ngoài đó, nếu sống nổi, chị sẽ đêm đêm cầu nguyện cho hạnh phúc của em, cho sự anh toàn của mọi người và nếu có thể giúp được gì cho mấy em, chị sẽ không tiếc gì hết.
Chỉ mình em biết chị đi. Đối với thiên hạ, chị là kẻ mất tích, bị bắt, bị giết trong trận càn mà chị đã vĩnh viễn mất ảnh này…”.
- Tám Tính chết hồi nào vậy?
Tôi hỏi sau một phút chìm lắng ê ẩm. Sương nhìn lên, cái nhìn côi cút và đầm đìa nước mắt:
- Chết ngay từ loạt đạn đầu khi dẫn đội cảm tử đi trợ lực cho mấy anh. Từ bên kia sông, người ta báo qua đây bằng điện đài…
- Biết tin, Hai Hợi bỏ cuộc luôn à?
- Không! Chị chỉ chui xuống hầm khóc âm thầm một lúc rồi dẫn mọi người ra mặt lộ chặn đánh bọn bảo an sắp tràn vào. Trời! Chưa khi nào em thấy chỉ đánh giặc kỳ cục như vậy. Đánh để chết, đánh khơi khơi, đánh không cần biết ai vào ai, xài hết loại súng này tới loại súng khác, vừa bắn vừa gừ gừ cái gì trong cổ nghe sợ lắm!… Cả đại đội ác ôn gần trăm đứa rạp gần hết mà chỉ vẫn bắn, bắn đến kiệt sức, vấp mặt xuống sình, mọi người phải vực lên mới thôi. Và đến tối thì chị…
Sương khóc. Khóc nức nở như một đứa trẻ bị bỏ rơi giữa chợ. Khẽ khàng ôm em vào lòng, lau nước mắt cho em, tôi chợt thấy lòng buồn man mác…
- Thế là mất đi hai tay súng thiện chiến, hai con người trung hậu. Sương ơi!… Rồi mai đây cuộc chiến tranh còn ngặt nghèo hơn nhiều nữa, em có bỏ tôi mà đi không?
- Không!… Em ở lại với anh. Suốt đời… Đến chết! Tuấn lù lù đi tới, mặt mày đã có thần sắc hơn.
- Cái gì đó anh Hai?… Chị Ba?
- Hai Hợi bị chúng bắt mang đi rồi. Tôi trả lời.
Ông Hùng bừng tỉnh dậy. Trời đã tắt nắng từ lâu. Bên kia sông, khu chốt Mỹ đang chuyển màu xám dịu, hiu hắt buồn, như thể câu chuyện diễn ra trong óc ông vừa rồi là không có thật, là chuyện cổ tích xa xưa mà không mấy ai còn nhớ.
Phía sau ông, những đôi trai giá vẫn tiếp chui ra và chui vào cam-pinh.
Bất tận không mệt mỏi, không biểu cảm thái độ gì. Trong những đôi đó, đôi nào là tình nhân? Đôi nào là trốn chúa lộn chồng? Đôi nào là hợp đồng ** điếm? Và trước mặt ông, muôn vàn những con sóng ký ức đớn đau, nhọc nhằn, cả êm dịu không ngừng xô đập vào người.
Tối trời nên không một ai hay biết ông già vận áo quần nhàu nát, có bộ dạng thần kinh đó đang lặng lẽ đứng khóc một mình…
CHƯƠNG XI
Tuấn vẫn chưa về. Toà nhà hai tầng có vườn cây bao quanh mang dáng dấp một điền trang u tịch vẫn im lìm sau cánh cổng sắt đóng kín. Liệu đêm nay nó có về không? Hay mai? Hoặc mốt? Mai hay mốt tôi có thể nán chờ được nhưng lâu hơn nữa thì sao?… Một sự mệt mỏi trộn lẫn hoài nghi xâm chiếm lấy tôi, đến tận từng kẽ răng. Chờ ư? Cái đó dễ rồi. Thất nghiệp, về hưu, đang đi tìm kế sinh nhai, thời gian là của mình, thời gian dài đến thê lương, có gì mà vội. Ấy nhưng chờ chỉ để hàn huyên, để thi nhau lục lại mọi kỷ niệm nọ kia (mà chắc gì nó đã thích lục?) để nhậu, để vỗ đùi vỗ về, cười hả hả, cười méo mó, khen nhau, chê nhau, đánh trận này, đập trận kia, thằng này sống, thằng kia chết… mệt đầu lắm mà chả được cái tích sự gì. Có khác gì phải đánh nhau khổ sở trở lại trong cùng cuộc chiến tranh ấy. Tôi muốn gặp nó chỉ để hỏi tung tích về Sương. Bởi lẽ cái đêm cướp xác chôn xác ấy, nó cũng có mặt. Chỉ có nó mới xác định giúp tôi thật giả thôi. Nên vừa muốn gặp vừa muốn không. Tôi lo sợ khi nghe nó bảo cô ấy đã chết, càng lo sợ khi nó nói cô ấy còn sống. Đối với tôi hai cái đều quá đỗi dở dang. Hoặc giả, giống như thằng Quân, thằng Ba Thành, nó lại cười phì phì vào mũi tôi mà kêu tôi là rồ dại, là mắc bệnh hoang tưởng, thì lại nhức cái đầu hơn.
Số tiền ông già đại tá cho tôi vẫn còn, gần như còn nguyên vẹn. Về đây là coi như trở về nhà, ghé bất cứ chỗ nào, nơi nào, cũng có thể có cơm nuôi được… mười năm. Nhưng tôi ngại lắm. Tôi không muốn bạn bè cũ, người quen xưa nhìn tôi, một kẻ đã từng được mệnh danh sáng giá là Người hùng Việt Cộng lại thê thảm nhàu nát thế này. Chính vì thế mà, trừ một vài anh em thật chí cốt, tôi chẳng muốn quét rộng luồng ra đa thăm hỏi và dò tìm ra làm gì. Gặp ông tỉnh đội trưởng nay là bí thư tỉnh uỷ ư? Hay gặp ông bí thư nay vì một nguyên cớ tế nhị nào đó lại đang làm một phó thường dân? Hay gặp bà trưởng ban tổ chức tỉnh uỷ vốn trước kia là cấp trên trực tiếp của cánh Hai Hợi, Ba Sương? Hoặc… Mà thôi, điểm làm gì. Cuộc chiến đấu giành đất trong những cánh rừng năm xưa giờ đây đang được chuyển hoá khốc liệt thành cuộc chiến đấu giành ghế ngoài đời, các vị ấy còn một góc tĩnh lặng nào đâu để nhớ về dĩ vãng, nhớ về bạn bè một thuở, những người sống và những người chết! Vả lại, đây mới là nguyên cớ chính, tôi thực sự không muốn giáp mặt họ một khi ngày trước, giữa tôi với họ bao giờ cũng có một khoảng cách e dè không dễ lấp đầy. Suốt chục năm lăn lóc, tôi chỉ là một đối tượng cần nhưng kiềng của họ. Cần ở khả năng xả thân giữ đất nhưng lại rất kiềng ở tính nguyên tắc và thái độ không khoan nhượng với sự xúc phạm đến những đạo lý làm người. Chiến tranh càng cần phải gìn giữ tính người chứ chiến tranh đâu có phải miếng đất bẩn thỉu cho thú tính tràn vào. Cho nên… Chao ôi! Sau mười lăm năm, người lính gần như còn sống sót duy nhất lặn lội trở lại địa bàn xưa mà sao lắm cho nên, lắm xa lạ đến thế? Những mái nhà ấm cúng đang toả ra làn khói bữa cơm chiều kia, những cửa hàng sang trọng, những đường phố trải nhựa rộng dài mịn như lụa kia, những cô cậu học trò tươi xinh mơn mởn, những con người ngày trước chỉ lo trốn tránh, ngày trước có tội, có nợ máu với bà con và cả những vị ngày nào còn cùng chui hầm ở bụi, còn bám dính đằng sau bộ đội đột ấp kiếm từng hạt gạo bây giờ quyền uy chất ngất, tiền vàng ngập hòm ngập tủ kia có hay rằng cả thời trai trẻ của tôi, của lũ xa quê chúng tôi thay nhau gục xuống với tất cả nỗi niềm lãng mạn chân thành để hôm nay trở lại trở thành xa lạ đến thê thảm thế này không?
Khát thôi mà không ấy đói, dẫu rằng cả ngày mới lót bụng có độc một đĩa cơm nông choèn ngoài chợ. Tôi kiếm một quán nước mía nằm xế xế ngôi nhà của Tuấn, ngồi xuống. Thôi thì, Tuấn ơi! Ngoài những đứa đã chết, những đứa còn sống nhưng đang ngắc ngoải, trong đội hình năm ấy ít nhất cũng được một mình mày là còn ra người. Một mình mày đại diện chung cho cả một thế hệ khổ đau và oanh liệt vậy. Ít còn hơn không, một thằng còn hơn sạch bách, tao cũng mừng.
- Ông bác chắc vừa ở xa đến? - Chị hàng nước mía mặc áo màu mỡ gà, còn trẻ, tóc vấn cao, mau mắn hỏi.
- Vâng! Nhưng… Sao chị biết?
- Ôi dào! Thị trấn vẻn vẹn vài trăm người, ai lạ ai quen biết liền à. Vả lại, thiên hạ bây giờ ở tuổi bác, không ai mặc đồ lính như thế. Chỉ có dân cựu trào hay dân ở ngoài kia vào đây làm ăn sinh sống mới mặc vậy thôi. Cháu nói thiệt, dòm tội lắm!
Vận đồ quân phục mà tội ư? Trong đầu tôi phực lên một chút chua chát nhưng rồi lại gượng mỉm cười:
- Thế chị bảo tôi là dân cựu trào hay là là dân tứ chiếng đi làm ăn?
- Bác ấy ạ? Cũng khó… Cái dáng lững thững nhàn tản là của mấy ông cách mạng, nhưng vẻ mặt ốm o lại là của mấy người đi làm ăn.
Lấy cái vui của chị hàng chừng trên ba mươi tuổi, tôi ướm:
- Thế chị thử đoán tôi… chừng bao nhiêu tuổi nào? Đoán vui thôi.
- Bác ấy ạ? - Chị hàng nhìn xeo xéo vào mặt tôi - Chắc cũng tới sáu mươi. Ba cháu ngày xưa trạc tuổi bác, cũng có những nét hao hao như bác.
- Thế à!
Tôi vục miệng vào cốc nước đá có màng bọt vàng vàng, che đi cái nhếch môi méo mó. Thế đấy! Gần năm mươi tuổi, không vợ không con, không nhà không cửa, tứ cố vô thân lại được một mẹ xề trên ba mươi tuổi kêu bác bác cháu cháu ngon lành. Không sao! Cũng phải thôi, may mà mẹ chưa gọi mình bằng cụ.
- Này, ông chủ cái nhà to to kia ấy mà, thế ông ta thường xuyên đi vắng à?
- Ông Tuấn hả bác?… Dạ, chẳng mấy khi có nhà.
- Thế thằng cha ấy sống có khá không?
- Ối trời! Hết biết đâu mà nói. Cái nhà này chỉ là một thôi đó. Ổng còn một ở Biên Hoà, một ở Sài.. ý quên! Một ở thành phố nữa kia. Mỗi nhà là một bà vợ nhỏ.
- Như vậy là bà cả ở đây, căn hộ trung tâm?
- Đâu có. Ông ở một mình với một bà thím ở ngoải vô. Hai bà kia kêu là vợ nhưng thực chất là nhân tình. Ông tuyên bố chưa đến lúc lấy vợ, chỉ cặp bồ thôi. Ổng bảo còn lo làm ăn, không có thời giờ cho bầu đoàn con cái. Mà ổng làm ăn giỏi lắm bác ơi! Hồi mới về đây, chỉ có độc túp lều lợp tôn. Thế rồi chẳng rõ vốn liếng ở đâu, ổng nhảy vô rừng buôn gỗ. Bắt đầu là làm thuê, sau là ông chủ xe Reo. Rồi cứ vậy phất lên. Tới nay ổng có ba cơ sở sản xuất ở ba nơi cháu nói. Cái thì đồ mộc xuất khẩu, cái thì xà bông, cái thì ti vi điện tử gì gì đó, giàu lắm! Kia, cái trường học cấp hai mái bằng đẹp nhất tỉnh kia là ổng giúp không cho thị trấn đó - Chị hàng ghé sát khuôn mặt bầu bầu xuống tôi, hạ giọng - Nghe nói ổng trước cũng làm lớn lắm, sau bị đánh bật ra. Mấy ông người Bắc ở trong này, trước sau cũng bị bật, người nào khôn ngoan lắm mới trụ lại được.
Không muốn nghe thêm cái điều đã trở thành nỗi nhức nhối quá nhàm chán ấy, tôi trở lại cái chi tiết đã neo bám vào đầu tôi từ hồi nãy:
- Chị nói ông ta chỉ ở với bà thím thôi à? Bà thím nào vậy? Thế ông già bà già của ông ta đâu?
- Nghe nói ông bà già bị bom chết cả ở ngoài đó. Chỉ còn bà thím này, mà cũng không phải thím bà con đâu. Người ta nói bả là mẹ của một liệt sĩ ngày trước cùng đơn vị với ổng. Mà người liệt sĩ này chết khổ lắm, chết khi đang ở trong căn cứ, chết lúc đang nấu cơm…
- Thằng Bảo rồi! Tôi buột miệng thốt lên.
- Sao kia ạ? Chị hàng nhìn lên ngơ ngác - Thiệt mà. Ông không chỉ đưa bà thím mà còn đưa cả mấy người bà con của bả vô sắp xếp công ăn việc làm đâu vào đấy hết. Ổng thường kêu bả bằng mẹ.
- Không!… Là tôi tính nói cảm ơn chị không cho tôi là kẻ xấu, là kẻ gian đi dò chuyện thiên hạ nên chị mới xởi lởi kể hết như thế.
- Mèng đéc ơi! - Chị hàng cười giòn tan, hai hàm răng trắng bóng - Tạng người như bác, có quẳng vàng vào người cũng chẳng biết đường mà mang chứ nói chi đến chuyện trấn lột, lừa đảo của ai. Mà thời buổi cơ chế thị trường, nói thẳng nói thật có gì đâu mà phải giấu, bác! Nói giỡn chơi, em ngồi ngoài này tiếp xúc va chạm nhiều, kẻ gian người ngay, chỉ cần nhìn thoáng qua là biết à.
- Cảm ơn! - Tôi đứng dậy định móc túi giả tiền nhưng không hiểu sao lại nói thêm. - Ngồi đây, nếu cậu Tuấn về, nhờ cô nói giúp là có người cùng đơn vị cũ đến tìm chơi.
- Thế… Tên bác là gì ạ?
- Cứ nói tôi là Hùng. Hùng tàn bạo.
- Khí… khí… khí… Bác mà tàn bạo? Tàn bạo với con sâu. Nhưng ổng muốn tìm bác thì tìm ở đâu, để em còn biết đường mà nói.
- Ờ… Có thể tôi lang thang ít bữa. Đêm nay tôi đang ở nhà Ba Thành, chắc nó biết đấy.
- Dạ! Em nhớ rồi. Ông bác cứ yên tâm.
- Cô tốt bụng và vui quá! Ly nước bao tiền để tôi trả.
- Khỏi mà bác. Bạn của ổng mà em lại lấy tiền ư? Cái quán này là ổng cho vốn đó.
- Thôi, tôi đi! Cám ơn!
- Dạ! Không có chi. Chào ông bác… Tàn bạo!
Có chứ! Tôi nghĩ trùng với tiếng cười khúc khích của chị hàng. Rút cuộc tôi cũng được nghe chữ em ở một người đàn bà kém tôi có chục tuổi, đáng cám ơn lắm chứ. Bởi vì, nhỡ ta trong mấy ngày trở lại miền Tây tính giáp mặt trực điện với người đàn bà đó tới đây, người ta cũng kêu tôi bằng bác xưng cháu thì sao? Hơn nữa, tôi nhẹ cười, chỉ cần nhìn cái mắt, nghe cái cách nói của cô khi nhắc đến nó kể về nó, cái thằng Tuấn ấy là tôi, tuy lẫn cẫn, cũng đủ hiểu con người của nó đang là cái gì đối với cô rồi. Cám ơn!
*
- Ba Thành về đi! Để tôi ở lại đây một mình.
- Rồi mày về cách sao? Những bảy cây số lận.
- Bảy mươi cây cũng vậy thôi. Ngày xưa…
- Dẹp cha nó cái ngày xưa đi cha nội! Mày như cái thằng ăn mày ngày xưa. Lúc nào cũng ngày xưa, nghe chán thấy mẹ! Xưa khác, nay khác, hiểu chưa? Thời thế này dễ có thằng con mẹ nào nghĩ đến ngày xưa hết trọi.
- Đối với tao không khác. Không bao giờ khác hết. Và tao cũng không phải là một thằng ăn mày. Hiểu chưa? Về đi! - Tôi nói bật căng như bị chạm nọc.
- Hiểu cái con khẹc! Thôi được, muốn thân làm tội đời thì cứ việc. Nhưng tao chờ ở quán nhậu đầu xã, nhớ đó.
- Tuỳ!
Nó phóc lên xe cun cút phóng đi, để rớt lại mấy tiếng làu bàu sền sệt hơi rượu.
Tôi lặng lẽ bước vào nghĩa trang liệt sĩ của huyện, tâm trạng chia hai thật là khó chịu. Nếu em chết thật rồi lại đi một nhẽ, tôi sẽ hun hút ngồi xuống bên em cho tới sáng. Nhưng em nửa sống nửa chết, buộc tôi phải nửa buồn nửa nghi, nửa mê nửa tỉnh trong cái hành vi đáng ra chỉ nên độc tôn một trạng thái cảm xúc này thôi. Cho nên bước chân tôi vừa hăm hở lại vừa ngại ngần. Không thể không đi nhưng thực chất đi cũng chỉ để mà… đi!
Nghĩa trang ban ngày đã vắng, giờ này càng cô quạnh. Đời, có lẽ cái gọi là bị quên lãng không nơi đâu có độ đậm đặc như nơi này. Một nghĩa trang liệt sĩ trong hàng trăm nghìn nghĩa trang nằm rải rác khắp nước. Vì một lý do chính trị hay xã hội bức bách nào đó, không loại trừ cả lý do nghĩa tình sâu xa, người ta vội vàng thu gom về đây những mảnh hài cốt vương vãi ở khắp các chân bãi, xô rừng, có cái có, có cái chỉ hàm nghĩa tượng trưng rồi xây trát, rồi cắt băng khánh thành, làm lễ truy điệu, đọc đôi lời ai điếu ròn rảng hoặc mùi mẫn và sau đó là hết. Hết nhẵn cho một thời kỳ thương khó. Cỏ lác lại mọc lên, tường vôi tróc lở, hương hoa cả năm chỉ xuất hiện vài lần gọi là, thân nhân người tới người không, có nhiều người không bao giờ tới được. Đường sá xa xôi, tuổi cao sức yếu, tiền nong eo hẹp, ngồi một chỗ đã không sống nổi huống hồ còn đi đâu! Chỉ có những người cắt cỏ, người ghé vào nghỉ trưa lại thường xuyên có mặt cùng với tiếng con chim già kêu mãi ở ngọn cây cụt mạn bắc nghĩa trang…
Với chiếc đèn pin Thành cho mượn, tôi bước hụt hẫng qua từng nấm mộ để tìm em mà lại không phải tìm em(?).
Chiều nay, thể theo yêu cầu khẩn thiết của tôi, Thành đã lóc cóc đạp xe lên phòng thương binh xã hội. Năm tiếng đồng hồ sau, Thành trở về, mồ hôi mồ kê như đi phát rẫy, cười khề khề: “Đã bảo rồi mà chú mình không nghe anh..."
"...Chết! Chết đứ đự! Hỏi ba thằng thì cả ba thằng đều phát cùng một giọng như phát với ông già nhà nó: Chúng tôi đã tìm kiếm, đã bốc cốt, đã đưa về nghĩa trang, đã làm đúng thủ tục, đã cho vào danh sách, đã… Đã cái con khẹc nhà nó hay sao lắm đã thế? Sợ cái đầu dở hơi của mày chưa tin, tao bò tiếp lên ban chính sách tỉnh đội, ban tổ chức tỉnh uỷ, gõ cả cửa lão bí thư, cha đại tá tỉnh đội trưởng, cha giám đốc công an nữa. Các cha đều khẳng định rằng con nhỏ đã chết. Thậm chí có cha còn hỏi lãng xẹt:
“Sương nào hé?… Có phải Sương… ấy không?” Ha! Sương ấy thì đến ông cố nội tao cũng chịu. Mẹ con mẹ họ! Song được cái cũng còn ngon, cha nào cũng nhớ ra tao cả. Mà không nhớ thế chó nào được khi hầu hết mấy cha đều được tao lột truồng, chữa vết thương, vết bỏng cả. Tức cười! Tới sở công an, gặp cha đại tá giám đốc đang ngồi chễm chệ trên chiếc Ford xanh biếc bon ra cổng, tao chặn lại hỏi. Nó xuống xe, nói lần đó không nhờ có tao thì nó đã chết vì miếng đạn M79 rồi. Mẹ! Cha này hồi ở rừng tao lạ gì. Phó ban an ninh, chơi gái thành thần, nhát như thỏ đế, được cái đọc báo cáo kêu như mìn nổ nên thăng tiến hoài. Thôi được, chú khoẻ anh mừng, miễn là thời buổi tham nhũng đầy trời này, chú phải làm ăn cho cẩn thận.
Nói xong, Ba Thành chui tọt vào bếp, quất đầy nhóc một bụng cơm nguội với dưa leo chấm mắm nêm rồi sang lối xóm mượn chiếc xe máy cà tèng chở tôi đi tiếp.
Trôi theo dòng bi thảm, tôi hỏi đường đến nghĩa trang với hy vọng cuối cùng. Và giờ đây, trong khuya khoắt rợn mình, tôi vật vờ đi giữa cái thế giới vô hình và hữu hình của người chết… Nguyễn Văn Hùng, quê Lạng Giang - Hà Bắc. Hy sinh ngày… Đặng Tuấn Bảo… Nghiêm Xuân Khiển… Quê quán… Hy sinh ngày… Quê quán… Mắt tôi nhoà đi. Những hàng chữ khắc trên bia nhảy nhót, phồng lên, nở ra, dài ngoằng thành những thân người, mặt người lạ lẫm và thân thuộc. Tất cả đều còn trẻ, rất trẻ, đều mang bộ đồ quân phục sắc xanh lá rừng, thịt da trắng như sáp, tất cả đều tráng kiện, vạm vỡ, miệng cười tươi tỉnh, duy có đôi mắt chỉ hai lỗ trũng sâu vô định… Cây đèn trong tay tôi tắt lịm. Tôi lo sợ. Tôi ngợp. Chết nhiều quá! Trẻ quá! Hầu hết là trai tân, hầu hết ở ngoài kia vào. Họ xuất hiện mỗi lúc một đông, dàn hàng ngang, xếp hàng dọc, rùng rùng lay động, bóng thấp bóng cao, cái nét, cái mờ. Hơi thở của họ lạnh buốt, con ngươi trong hố mắt họ đỏ lòm…
Tôi rảo chân bước nhanh. Những cái bóng bước theo đuổi kịp, vây bủa chân lướt ràn rạt không chạm đất. Tiếng chụp, đậu lên vai, luồn vào tóc, chui cả vào ngực nhồn nhột, không mùi không vị: “Thủ trưởng ơi! Có nhận ra chúng tôi không? Có ân hận vì đã để chúng tôi chết chùm chết đống trong khi mình vẫn còn sống không? Hay thủ trưởng đi tìm ai, tìm cái gì, để chúng tôi mách cho. Biết mà, chúng tôi biết rồi thể nào cũng có một lần thủ trưởng sẽ đến đây. Chúng tôi vẫn chờ. Chờ gần hai mươi năm rồi. Lâu quá! Chậm thế? Chả lẽ quên phứt anh em bè bạn rồi ư thủ trưởng? Ấy, đừng đi. Đứng lại tí đã…”. Tôi càng đi nhanh. Cái bóng của Viên vượt lên, hơi thở ram ráp liếm vào tai tôi: “Anh quên em rồi sao anh Hai? Giá như đêm ấy anh đừng lệnh đi thì em đâu có chết! Em biết là sẽ chết nhưng không thể nói ra, không dám nói. Em sợ anh đánh giá em là hèn nhát. Em chỉ còn cách dùng cái chết để biện minh. Khổ vậy. Chị Ba thế nào rồi anh? Có đúng như lời em tiên đoán không? Sao anh lúc này trông cơ khổ thế?…” Bóng Viên biến mất, cái bóng của Bảo thay thế, cũng hơi thở ram ráp: “Sao lại chôn vội thế thủ trưởng ơi! Lúc ấy giá anh cứ cho rút bỏ cái chuôi đạn ác nghiệt ra khỏi bụng tôi, tất nhiên ruột gan sẽ theo ra cả đống nhưng biết đâu tôi chả có thể sống? Sao ác thế? Anh đâu có nghĩ đến tôi, đến mọi người, anh chỉ nghĩ tới trận đánh, tới nhiệm vụ người ta trao sẽ bị ảnh hưởng thôi, đúng không? Cái bóng của Khiển xồ tới, tanh nồng và rách rưới: “Anh khỏi áy náy. Tại tôi cả thôi. Tại tôi mụ mị, tôi ngơ ngáo. Đánh tới trận thứ mười mà chưa chết thì cũng thành ngơ ngáo mụ mị thôi phải không anh? Nếu đêm ấy, trước khi đi, tôi được gặp vợ tôi, hoặc bất kỳ một người đàn bà nào đó thì chắc tôi đã không nhét cái đồ giết người vào ngay túi áo ngực như thế. Tại tôi…” Một cái bóng khác, cái bóng khác nữa… Rồi lại một cái bóng… Xào xào, rin rít, khò khè. Không chịu nổi sức ép quá tải của những tấm bia đá, tôi rơi người ngồi bệt xuống, lịm đi, tay chân từng chập run lên, mỏi rã rời. Một cái bóng khác thấp đậm hơn không biết từ đâu lướt tới, che chắn, ngồi xuống bên tôi nhẹ như chiếc lá, từ đó phả ra cái hương vị hoi hoi ngầy ngậy của đàn bà. Tôi bừng mở mắt. Cái bóng biến mất, chỉ còn vương lại một tiếng nói mơ hồ, oai vệ, nửa nam, nửa nữ: “Dẹp! Dẹp tất cả đi bọn bay! Đây không phải là lúc làm nhàm kêu khổ. Đừng hành lão ta nữa. Bọn bay thử mở to mắt ra mà coi: Lão ta có còn ra người nữa đau. Này lão! Ngày xưa lão thế nào mà bây giờ nom khổ đến thế? Khổ! thôi tha cho lão. Lão sống đó mà có hơn gì tụi mình đã chết. Sống để được như lão thì sống làm khỉ gì. Chết như tụi ta lại hay. Trẻ nguyên, trẻ mãi và chẳng phải bận tâm về cái sống nhiễu nhương nặng nề. Lão đi đi!… Tiếng cười, tiếng nói, tiếng thở từ dưới thảm lá khô, từ trên lả lướt ngọn dương rì rầm dội lên. Tôi sững sờ nhận ra đó là giọng của Hai Hợi! Trời ơi! Sao cô ấy lại ở đây? Cô ấy chiêu hồi rồi kia mà? Và nếu có chết thì không thể nằm xuống ở chốn này. Phải chăng ở dưới kia, mọi đường biên, mọi đẳng cấp, cách ngăn, mọi học thuyết cách biệt đều bị xoá nhoà, đêm đêm chỉ có những linh hồn bè bạn vất vưởng tìm đến thăm nhau? Hay là… Một phán đoán chợt loé đẩy tôi bật dậy. Hai Hợi ơi! Có phải cô Hai đó không? Dừng lại cho tôi hỏi một tý, một tý thôi… Nhưng cái bóng thấp đậm, cái tiếng nói khàn khàn nửa nam nửa nữ đó đã không còn nữa và dưới ánh đèn pin run rẩy của tôi, trong hàng trăm những nấm mồ đứng xếp hàng như chuẩn bị làm cuộc xuất kích công đồn nơi đây, tịnh không một tấm bia nào có chữ Hợi cả. Thế Sương đâu? Có tất cả sao không có giọng Ba Sương? Em ở đâu? Thử hiện ra một chút coi! Thà hiện ra giây lát để tôi được nghe em nguyền rủa, em giễu cợt, em khinh miệt còn hơn em vẫn biến mất trong mờ mịt sương đêm thế này!
Không còn sức lực, tôi lại buông rơi người xuống thảm cỏ ướt rượt. Bất chợt tiếng nói hách dịch của Hai Hợi lại bay đến: “Đi đi lão già khốn khổ! Có phải hàng quân đâu mà lão làm động tác điểm danh. Lão tưởng bọn này chết rồi mà vẫn thích nghe lệnh lão để tiến lên à? Còn lâu! Trước thì có đấy nhưng bây giờ thì… Còn lâu. Lão đi đi! Tôi không có ở đây đâu. Tôi có ở tất cả. ở bất cứ chỗ nào lão đặt chân tới. Đi đi! Đi tiếp một đoạn nữa, quẹo tay mặt, cái mà lão định tìm và không bao giờ tìm được đang nằm ở đó, sát bìa chân rào. Chia tay nhé! Lão già tội nghiệp!”.
Như kẻ hoàn toàn mất hồn, tôi thập thững đưa chân theo lời mách bảo vô hình… Và một dòng chữ khắc vội chói gắt đập vào mắt:
Phạm thị thanh Sương
Hy sinh ngày… Quê quán…
Dòng chữ quê quán đã bị thời gian làm cho xói mòn nhìn không rõ nhưng tôi cũng lờ mờ đoán ra địa danh của một huyện, một xã nào đó dưới miền Tây. Như vậy là cô ấy khi xưa đã nói đúng về nơi chôn rau cắt rốn của mình và tấm bia này càng củng cố thêm niềm tin trong tôi rằng người đàn bà bí hiểm kia chỉ có thể là cô ấy. Tôi tắt phụt ngọn đèn. Nghẹn thở. Lại vội bật lên . Lại tắt. Lại bật… Dường như muốn mượn cái độ sáng loá của dòng điện pin để xoá đi, để khẳng định thêm cái cảm giác chới với cho rằng những hàng chữ kia chỉ là một ảo ảnh. Những dòng chữ vẫn còn đó , xù xì, giá buốt. Cuối cùng tôi ngồi im, chìm người vào vũng tối, đầu óc muốn rữa chảy.
Nhưng ở đây? Phạm Thị Thanh Sương… Tư Lan… Sao lại trớ trêu đến thế? Tấm bia đá giống như một sự trêu ngươi phũ phàng, thật hư, nóng lạnh đang lặng lẽ giễu cợt tôi, không cho tôi được chìm lịm đi trong một chút khoái cảm nhỏ nhoi. Tuy vậy, tôi vẫn thấy lòng mình sao mà tê tái quá thể. Dù sao dưới đó, dưới tấm bia câm lặng này cũng có một nửa em, một nửa sự thật và cả một đời trận mạc của tôi trong đó.
Giá như cái buổi sáng ấy cả hai đừng trằn trọc lâu như thế, em không ngượng ngùng ngồi lên và tôi không dằn em xuống, vồ vập, ngấu nghiến? Giá như khi trái mìn màu xanh lá cây sắp nổ, tôi đủ tỉnh táo đẩy em lên trước, đủ can đảm để, và đây mới là cái điều khốn nạn nhất, không vùng dậy chạy cắm cổ cắm đầu phó mặc em phía sau mà chỉ cần nhìn lại một lần thôi, một lần ngay sau đó chứ không phải vọt qua bên suối rồi mới ngó sững trở về? Giá như… Vâng, cả cái giá như ba đêm sau lấy được xác, tôi tĩnh trí vượt qua được cái mặc cảm hãi sợ tồi tệ để nhìn kỹ vào mặt em, vào bàn tay thiếu ngón của em thì giờ đây, tôi đâu có đến nỗi lòng dạ phải ngược xuôi chia nửa bên mộ em! Mộ em hay là mộ của…
Chợt một ý định bạo liệt nổ ra nhoáng trong đầu như một viên đạn phá… Nhưng ngay liền sau đó tôi lại phải chua chát lắc đầu. Muộn rồi, quá tuổi rồi, hết khí lực để thực hiện hành vi đào mồ rồi. Đào mồ!… Chao ôi!… Cách đây hai mươi năm, tôi đã đào mồ chôn em xuống, và giờ đây, sau hai mươi năm, tôi lại nảy ý định đào mồ moi em lên để phân rõ thực hư ư? Sống nhọc nhằn mà chết sao cũng nhọc nhằn quá vậy? Đào mồ… Khi ấy, nếu bàn tay phải của em chỉ còn lại một nhúm xương còng queo phải rảy rượu mới nổi lên, thiếu đi một lóng xương trỏ thì tôi sẽ sẵn sàng tin rằng người đàn bà đang quay cuồng trong cơn hãnh tiến kia chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, rất ngẫu nhiên. Và như thế tôi sẽ thanh thản chịu riêng một bề ân hận mà chẳng oán thán ai, oán thán cái gì. Nhưng nếu dưới ấy, hai bàn tay em vẫn còn nguyên lành mười nắm xương co quắp thì em là ai? Hay không phải là ai? Thậm chí không phải là cái gì, không có cái gì hết, trống không, vô nghĩa mà sự hiện diện nơi đây chỉ là một thứ tượng trưng đau đớn như thường xảy ra tại các nghĩa trang liệt sĩ thời hậu chiến? Nếu vậy lại càng buồn! Buồn lắm! Thà chỉ có một nửa em, một nửa sự thật được đất đai che giấu, đồng loã còn hơn cái khối hư không hình chữ nhật kia. Lại một cái bóng thấp đậm từ ngoài cổng lệt quệt đi lại. Kệ mẹ bóng! Mày có đến hay đi thì mày cũng chỉ là một nửa hình hài. Tao cũng chỉ là một nửa tao. Tất cả đều một nửa. Chán lắm rồi! Chính ta cũng đang là một cái bóng tanh tưởi, u tối hơn bất cứ một cái bóng nào đây. Tôi gườm gườm nhìn nó. Thằng nào thế? Lại trách móc, lại làu bàu báo oán ư? Báo đi! Ta đếch cần. Chính ta cũng có cái để báo đây. Xin mời!… Cái bóng vẫn tiến đến, chân bước vòng kiềng, miệng thở phì phò, thỉnh thoảng lại vấp đánh hự! Mẹ, hồn ma bóng quế mà cũng vấp à? Xoàng thế? Lại còn hơi rượu phả ra nồng nặc nữa. Hiện đại thật!! Dưới ấy mà cũng có cả dịch vụ rượu chè thì đã thật. Sướng! Cái bóng đã tiến sát… Bực mình, tôi bấm đèn vào giữa mặt nó… Trời đất! Hoá ra thằng Ba Thành! Nó đứng chạng chân, nhìn tôi trợn trừng trợn trạo:
- Biết mấy giờ rồi không cha? Cha tính để tôi ngồi nốc hết cả chục lít rượu ở đó hay sao mà ngồi hoài đây vậy? Ngủ à? Giấc ngủ ngàn năm à? Khóc à? Hay táo bón kiết lỵ không rặn không ỉa ra được?
Tôi đứng dậy, đũng quần ướt đẫm sương nhưng lòng dạ tự nhiên thấy ấm lại:
- Ờ… Đang táo bón. Táo bón quá khứ mãn tính. Nhưng… Xong rồi. Về đi.
Sáng hôm sau , tôi từ biệt Ba Thành nhảy xe đò trở lại miền Tây. Đưa cho tôi một túi giấy bóng to những bánh mỳ, giò chả, trái cây, thuốc lá và cả một chiếc võng chiến trận còn giữ được, Thành nhăn nhó:
- Mà tao vẫn không hiểu mày lộn trở lại đó làm cái con khẹc gì? Ừ! Thì cứ cho mày trở lại chính quê gốc cô ta để biết cổ còn sống thiệt đi (Tất nhiên làm đếch gì có chuyện đó) nhưng mụ nhất định không nhận mày, chối bỏ mày thì chả lẽ mày lăn đùng ngã ngửa ra đó mà ăn vạ à? Mà giở trò nọ kia à? Dơ thấy mẹ! Dẹp đi! Nghỉ cho khoẻ.
- Kệ tao. Tao phải đi. Sau đêm hôm qua tao càng không thể không đi, thế thôi. Tao không ăn vạ, tao đi tìm sự yên ổn ở trong tao. Đã chót lao vào vòng luân hồi nhân quả, dừng lại lúc này là tao sẽ tự nghiền nát tao, sẽ vữa nát thần kinh luôn.
- Sẽ con mẹ gì nữa. Thần kinh mày đã vữa nát ra rồi. Tao là thầy thuốc, tao nói thiệt đó. Ráng an thần, đừng nghĩ ngợi quá sức rồi chết sông chết chợ không ai biết mà tìm nghe cha!
- Yên trí! - Tôi nói vui để yên lòng nó - Chết tao khó lắm. Mà chết được đã may. Tao sẽ trở về. Chỉ xin mày một thẻo đất trồng dăm chục gốc điều sống qua tuổi già.
- Mày nói giỡn hay nói thiệt? - Mắt Ba Thành sáng lên.
- Thiệt.
- Hay! - Ba Thành vỗ vào đùi tôi cái bách - hai con sói già cô đơn dựa vào nhau, quắp lấy nhau, sống và nhậu tối ngày. Nhậu cho tới khi nhắm mắt. Đã! Cha chả là đã! Má mày! Thế mới gọi là chiến hữu bang giao chí cốt chớ. Ý! … Chắc mày cà trớn rồi! Bộ thằng Tuấn nó nỡ để cho sếp của nó phải nai lưng ra đặng kiếm miếng cơm à? Nó là thằng biết trước biết sau, nhất định nó sẽ kéo thủ trưởng về nuôi không, ngày ngày hút thuốc thơm và nốc bia lon mệt nghỉ.
- Chưa chắc. Và nếu chỉ cần có như thế, tao đã không đến nỗi lếch thếch tha phương cầu thực như thế này. Nó về, mày nhớ nói tao đến.
- Được! Trong khi mày ở dưới đó, tao với nó sẽ tìm đến chỗ thằng cha đại uý tình nhân của Hai Hợi coi nó về chưa? Ở đâu? Vì nỗi lòng ngớ ngẩn của mày và vì cả nỗi lòng ngớ ngẩn của tao chớ thực tình tao ngán gặp hắn lắm. Có gì mới tao sẽ điện.
*
Trên đường đi ra bến xe, chẳng ngờ tôi lại gặp Quân.
- Ủa! Về hồi nào đó anh Hai? Sao hổng ghé thăm em?
Chiếc LADA màu kem phanh kít trước mặt tôi và khuôn mặt tươi mởn của nó ló ra hỏi um sùm, không kể gì đến ánh mắt của những người dân hai bên đường ngó lại lom lom. Họ ngó lại là phải. Một quan chức cỡ sang trọng như nó mà phải thắng xe lại, chào hỏi lễ độ một kẻ khố rách áo ôm giống kẻ vừa ở tù ra như tôi, âu đó cũng là chuyện lạ đời nay lắm chứ.
Biết tôi lại định đi đâu, Quân giơ cao hai tay lên trời, lắc đầu:
- Khổ! Lại vẫn thế! - Em tưởng anh qua cơn rồi. Cuộc sống giờ đây đang hết sức xô bồ, thiên hạ phải lấn nhau từng bước, giành giật nhau từng miếng để khỏi chết đói mà anh lại cứ loay hoay vào ba cái chuyện đó hoài! Thôi được! - Nó phẩy tay - Anh đã muốn thì em sẽ cho cái xe này đưa anh đến tận nơi rồi quay về. Chịu không?
- Không - Tôi giãy nảy - Ai lại làm phiền cậu thế? Vả lại, tớ lủi thủi một mình đã quen, dính dáng vào xe cộ, hỏng việc.
- Anh còn tiền không?
- Còn.
- Dóc! Ghé cơ quan em, cầm tạm vài trăm xài đỡ. Đi!
- Được rồi, khi nào thiếu mình sẽ tới.
Tôi nói thế nhưng thừa biết mình sẽ không bao giờ tới cả.
- À này - Như chợt nhớ ra điều gì hệ trọng, Quân kéo tôi vào một quán cà phê bên đường, gọi hai ly đen, một gói Hê rô rồi hạ giọng – Người đàn bà mà anh đang đi tìm đó nay đã là phó chủ tịch rồi. Phó chủ tịch kiêm giám đốc sở nông lâm. To phe lắm! Kiểu này còn lên nữa.
- Thế à? - Tôi cố làm ra vẻ tỉnh bơ - Mừng thôi.
- Mừng gì. Cái thế tuy vậy coi ra rất chênh vênh.
- Chênh vênh sao? - Tôi hỏi với vẻ quan tâm thật sự.
- Một là lên rất cao, hai là phá sản, xuống rất thấp.
- Nói đi! - Tôi đặt vội ly cà phê xuống như chính mình sắp phá sản thật.
- Qua làm việc mấy lần, nhất là lần đầu tuần vừa rồi, em thấy bả táo bạo thông minh, nhạy bén, dám quyết, dám chịu trách nhiệm nhưng táo bạo quá, táo bạo đến đôi khi không hiểu gì cả, bỏ qua cả những nguyên tắc kinh tế tối thiểu mà đáng ra ở cương vị ấy, bả phải hết sức thận trọng.
- Ví dụ?
- Trời! - Quân phì cười - Anh làm cái gì như quan thanh tra thế? Ví dụ hả? Thế mạnh của bả là rừng, là lâm sản. Thiên hạ tìm đến liên doanh liên kết, làm ăn với bả cũng trên thế mạnh ấy. Nhưng vừa rồi không hiểu bả nghe ai xúi dại mà cho phá trụi ráo trọi giống cà phê, bạch đàn đi, trồng toàn điều. Loại này hiện nay đang có giá, dễ ăn, vốn đầu tư ít nhưng một khi giá điều trên thị trường hạ xuống, mà hạ để ghìm nhau, chơi khăm nhau là thường chớ, bả sẽ rơi vào tình trạng trắng tay, trong khi giống cà phê, bạch đàn tuy khó ăn đôi chút nhưng thị trường hồi nào cũng cần. Bả nóng vội quá.
- Thế thôi à? - Tôi nhẹ thở phào trong lồng ngực.
- Chưa hết. Bả khá bốc đồng. Không lượng sức tỉnh nhỏ, táo tợn vươn tay tùm lum ra cả nước ngoài, mới ngửi thấy cái lợi là vung tay ký kết lung tung, ký kết không cần biết nó chơi với mình có thật bụng hay là chỉ thăm dò, dền dứ, chưa nói tới chuyện nó tìm cách khai thác triệt để sự ngớ ngẩn thích ăn xổi ở mình. Trong làm ăn đầu tư, liên kết, thiên hạ lo giữ miếng nhau nhiều chớ thân tình mấy. Nhưng nguy hại nhất là người ta nói bả đang choáng váng trước bước đường công danh đang thăng tiến vù vù, không biết ta biết mình, không thích nghe lời khuyên thật, chỉ ưa nghe lời ngon ngọt. Kiểu dùng người như thế, theo kinh nghiệm của em, sẽ bị phản hồi nào không hay. Trong thương trường và trong chính trường của bọn em, người như vậy kêu bằng hãnh tiến.
- Thôi! - Tôi chóng mặt thật sự vì hàng loạt những mệnh đề và phản đề rắc rối từ miệng nó luôn ra một cách quá lạnh lùng, sắc sảo.
- Về đời tư thì nghe nói gần đây - Có vẻ thoả mãn thấy thái độ của tôi, nó làu bàu nói tiếp - Cũng chỉ là nghe nói thôi heng! Bà bắt đầu sanh tật cưa sừng làm nghé. Tức là cặp bồ toàn loại trai trẻ, vâm con, vừa phục vụ công việc vừa đáp ứng sinh lý luôn. Hồi xuân mà.
- Kệ mẹ cái hồi xuân ấy - Tôi sầm mặt, bỗng dưng gắt lên - Cậu nói cái chuyện đó ra ở đây làm gì? Tôi muốn biết rồi Sương… Rồi bà ấy sẽ đi đến đâu?
- Đi đến đâu à? - Nó cười ngoác miệng - Sao nổi nóng ngang hông vậy anh Hai. Rất đơn giản: Theo nghiệp vụ kinh tế thì bả sẽ mất hết. Còn theo nghiệp vụ thanh tra thì chắc chắn bả sẽ được ra điều trần trước toà.
Tôi đứng phực dậy, toàn thân rung lên:
- Một chuyện như thế mà cậu có thể nói năng ráo hoảnh vậy được à? Đáng lẽ là chỗ làm ăn đi lại thì cậu cũng phải nhắc bà ta mấy câu chứ.
Nó cũng đứng lên, gần như ôm lấy vai tôi:
- Ôi! Hoá ra ông anh tôi còn nặng tình nặng nghĩa dữ! Ngày trước thế nào, bây giờ vẫn thế. Yên tâm đi! Những thông tin đó có thể đúng, có thể không mà cho dù có đúng đi nữa thì với một người như bả, thiếu gì những cái ô che chắn. Em nói đại như vậy để anh Hai nản, anh Hai bỏ phứt cái chuyến hành hương vô vọng về dĩ vãng này đi. Vô lý, vô bổ và vô cùng! Thôi, lên xe, ta làm một chầu ăn sáng cho ấm bụng. Nào mời anh!
- Không! Chính thế tôi càng cần phải đi. Cám ơn cậu.
|