Trần Lĩnh vội vã chạy về phía ngôi miếu hoang lúc chiều với ý nghĩ sẽ nhanh chóng lấy lại sự trong sạch.
Ngôi miếu thờ hung thần này được bao bọc bởi rừng cây rậm rạp chừa lối đi ở chính diện, nhưng vì đã lâu không có nhiều người qua lại nên cỏ cây móc um tùm chắn cả đường vào, khung cảnh quanh đây hoang vu, tĩnh mịch, không có một bóng người. Chàng nhẹ chân đi đến nghe ngóng, một hồi chẳng thấy gì liền đi vào bằng cửa chính.
Một khuôn mặt hung ác chợt hiện ra trong đêm tối, Trần Lĩnh giật mình giây lát rồi nhận ra đó là một bức tượng hung thần cao gần một trượng, dáng vẻ uy nghiêm, tay lăm le cây rìu to lớn. Chàng định tĩnh rồi thở dài lẫm bẫm: “Mình đã nhọc lòng rồi, ở đây chẳng có ai cả, lão già kia đạt được mục đích, hắn đã ra đi cùng linh vật của làng này.”
Chàng đi một vòng dò xét, sau bức tượng thấy có cái chiếu manh rách nát. Hôm nay là một ngày mệt mỏi, cả người chàng đã rã rời, Trần Lĩnh nằm xuống nghĩ suy mọi chuyện rồi ngủ thiếp đi lúc nào không hay.
*******************
“Mày là một tên ngu ngốc chưa từng thấy, tại sao lại ngu thế không biết! Việc của mày là im lặng chờ đến khi có cơ hội thì trộm, có vậy mà cũng không làm được. Tên chồng chỉ khoa trương lên cho vui thôi, cái gường của nhà giàu, cả họ mày nhảy lên cũng không dễ gì sập được, thậm chí có sập cũng không đè chết mày được!” Tiếng quát tháo khiến Trần Lĩnh bừng tĩnh, chàng dựng người dậy nghe ngóng.
Nghe tiếng người khóc than, cất giọng ngố ngáo quen thuộc: “Ôi đau quá… khoa trương là gì?” Giọng lão già lại cất lên đầy vẻ trách móc: “Ngu quá, nghĩa là nói quá lên, làm quá lên chứ không thể xem là thật được!”
Tên trộm lại nói: “Tao biết rồi dù ai có nói quá, tao cũng không tin là thật nữa, có sập gường hay cháy nhà tao cũng không chui ra nữa… Mày bày cách cho tao với!” Ông già lại cất giọng đầy khí tức: “Bày cái gì, đám cưới đâu phải ngày nào cũng có… hừ!”
Tên trộm lại xuýt xoa, giây lát sau ông già mới nói: “Hôm nay mồng tám tháng chạp, cũng là một ngày tốt để cưới vợ gã chồng cho con. Mày đi qua làng Quảng Xương bên cạnh dò xét xem thử… Nhớ lời tao dặn đấy!” Tên trộm đáp: “Ừ! Tao biết rồi, tao đi đây!”
Tên trộm nhanh chân chạy đi, ông già cũng đứng dậy định đi, Trần Lĩnh liền xông đến chế ngự tay phải lão vặn ngược ra sau quát: “Nói mau lão là ai, tại sao lại xúi dục tên đó đi ăn trộm rồi nhân cơ hội đánh cắp con cóc đồng… hả?”
“Ối! Không không… Lão không hề lấy ông cóc đồng … đó là vật linh đến sờ vào, lão già này cũng không dám… đau quá gãy cái tay của lão rồi!” Ông già nhăn nhó nói, Trần Lĩnh nhìn điệu bộ xem ra lão không phải là người biết võ công, lão cũng không phải là người Chiêm Thành. Chàng buông ông già ra nói: “Lão già rồi mà không nên thân, tại sao lại xúi dục anh chàng kia đi ăn trộm chứ!”
Ông già đáp: “Tô Trí là lão già ác ôn, hắn tham lam, hãm hại nhiều người… Lão phần cũng muốn kiếm chác một tí, phần muốn thằng Ngốc lấy lại một ít vốn từ tay lão lý trưởng tham lam ấy thôi. Thằng nhỏ đó cha mẹ mất sớm, nó ngốc nghếch bị đổi sạch ruộng vườn… Giờ nó lang thang hai bàn tay trắng… lão vì thế…”
Trần Lĩnh lại nói: “Thế sao lão còn bảo sang làng bên?” Ông già ấp úng nói: “Lão… lão thấy nó tội nghiệp!”
Trần Lĩnh nghiêm giọng quát: “Từ này tôi cấm lão làm thế nữa, anh chàng đó khờ khạo, chất phác có ngày bị đánh chết không chừng… Mà này, lão biết cóc đồng ấy có gì đặc biệt, tại sao có người muốn cướp lấy?” Ông già đáp: “Đặc biệt ư tôi cũng không rõ… Ông cóc là linh vật làng này đã hương khói từ rất lâu, để cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa vụ bội thu… thế thôi!”
Trần Lĩnh lẫm bẫm “thế sao” điệu bộ ngẫm nghĩ, ông lát sáng mắt lên lại nói: “Nếu cậu muốn, hãy đến tìm người kể chuyện ở làng bên, ông ấy biết nhiều chuyện xưa nay, chắc sẽ giải đáp được thắc mắc của cậu.”
Trần Lĩnh hơi ngạc nhiên nói: “Tại sao lại là làng bên, làng này không có người truyền miệng sao?” Ông già đáp: “Có thì có, nhưng ông ta đã bị giết hại mấy hôm trước rồi… Ngày xưa lúc Cồ Việt còn bị đô hộ, họ bị đuổi giết, cấm cản thì không lạ… Không hiểu tại sao, giờ nhà Lý đã được ngôi, đất nước yên ổn, những người đó lại bị hại... Cậu đi về hướng đông bên kia quan lộ là làng Quảng Xương, đến đình làng vào những buổi chiều có thể gặp ông ta.”
Trần Lĩnh nói “cám ơn” rồi quay lưng đi với cái đầu bộn bề suy nghĩ, cái bụng trống trơn. Đương là buổi sáng chàng nghĩ mình không cần vội, nên thong thả đi.
Được một đoạn vài chục trượng, hai người từ phía sau chàng nhanh chân vượt lên, một người mặc áo xám tro, tóc ngắn, tuổi chừng ba mươi nói: “Nhà họ Đỗ đãi tiệc mừng gọi mời cả làng, mau đi đi!” Người bên cạnh cất lời: “Nhà này kỳ nhỉ, mới sáng sớm lại gọi rồi!”
“Chẳng lẽ may mắn vậy sao? À đúng rồi!” Mắt Trần Lĩnh sáng lên với ý nghĩ gì đó, chàng lấy bộ đồ ông Bụt trong bọc hành trang ra hý hửng thay vào, cẩn thận dán thêm bộ râu dài, rồi đi theo mọi người.
Đỗ gia xem ra cũng là gia đình địa chủ, nhà cửa khang trang rộng rãi, người ở đến hàng chục. Trần Lĩnh giả dáng điệu người có tuổi vừa đến đã được đón tiếp, dẫn thẳng vào nhà trên dùng trà. Chàng ngồi cùng mâm trên với tám vị bô lão thâm niên, họ nhìn chàng thấy lạ, có người gạn hỏi, chàng thản nhiên tự xưng bên họ ngoại, có người hoài nghi nhưng cũng không tiện vạch trần. Cũng may là buổi tiệc này mời cả làng, nếu chỉ nội trong gia đình thì không lừa được ai rồi, chàng không dám nói nhiều, chỉ ậm ự theo câu chuyện của các vị bô lão khác, tránh nói nhiều để lộ ngữ giọng non trẻ ra, chàng mỉm cười tự nhủ: “Mình cũng có khiếu đóng kịch ấy nhỉ!”
Lát sau tiệc rượu được dọn lên, đều là các món ngon ngày thường không dễ gì được ăn, Trần Lĩnh đương đói lòng nhưng phải cố gắn nén cơn thèm lại. Lát sau một ông già tuổi trạc ngũ tuần dẫn hai cậu thanh niên đi ra khách đường cất tiếng nói: “Trong một ngày vui thế này, được các vị bô lão, các vị thân hữu đến đây chung vui đông đảo thế này, thật là vinh hạnh cho gia đình họ Đỗ chúng tôi.”
Đỗ lão dáng người cao lớn, mặt vuông chữ điền, tinh thần quắc thước, lời nói thâm trầm uy nghi ra dáng đấng anh hào. Trần Lĩnh nhanh chóng đoán được lão là danh gia võ thuật, liền sinh lòng kính ngưỡng. Ông ta đưa tay giới thiệu hai anh thanh niên tuổi đôi mươi nói: “Đây là Sơn và Hải hai thằng nhóc con trai của Đỗ Bách tôi, rời làng lên núi Tản Viên bái thầy học nghệ đã bốn năm, đến này đã thành tựu, đã trở thành những người đàn ông thực thụ… Nam nhi chí ở bốn phương, học võ luyện thân, góp sức cho nước nhà là việc nên làm, phải làm, để khỏi uổng phí dòng máu Lạc Hồng đương chảy trong người, các vị bô lão thấy cháu nói như vậy có đúng không.”
Nhiều vị đáp phải, Trần Lĩnh cũng gật đầu lia lịa. Đỗ Bách lại nói: “Làm cha như cháu, muốn hai đứa nó ra mắt trước các vị, có dịp được chào hỏi các vị bô lão thâm niên học hỏi kinh nghiệm, giao lưu vui vẻ với bạn bè cùng trang lứa. Đây cũng là buổi tiệc chia tay với nơi chôn nhâu cắt rốn. Để hai cháu nó vui vẻ lên đường, tiến thẳng ra xa trường, làm nhiệm vụ bảo vệ biên cương, bảo vệ lương dân.”
Nhiều người vỗ tay phấn khởi, lúc đó một lão già tuổi trên năm mươi từ nhà dưới đi lên, nghe có người nói “lý trưởng đây rồi”, ông ta đi đến chính đường, đưa tay ra hiệu dừng lại nói: “Các vị yên lặng, thay mặt cho cả làng, họ Tô tôi có đôi lời. Hai cháu trai nhà anh Bách đây thành tựu võ công ở một môn phái tiếng tăm lừng lẫy như Tản Viên thật không dễ dàng, thật là điều đáng cho cả làng Quảng Tân chúng ta tự hào. Nhưng hai cháu hãy cố gắn thêm nữa, để xứng đáng với cha ông anh hùng của chúng ta… Đi đầu đánh giặc, chiến đấu bất khuất không khoan nhượng với kẻ thù, chết không đầu hàng, làm trai tráng ra đi bảo vệ biên cương thân yêu, thật là quý hóa, vô cùng quý hóa… Hãy cố gắn lên!” Nói rồi lý trưởng đưa nắm đấm lên thể hiện quyết tâm. Hai anh thanh niên Sơn và Hải cũng đưa lên thể hiện quyết tâm, nhiều người hùa theo riêng Trần Lĩnh chẳng tỏ thái độ gì.
Một vài người đứng ra cổ vũ vài lời, động viên hai chàng thanh niên, sau đó buổi tiệc mới bắt đầu. Trần Lĩnh im lặng ăn uống qua loa, rồi lặng lẽ rút lui khi cuộc vui mới đến cao trào, bỏ lại sau lưng tiếng nói cười hào hứng của mọi người. Vừa đi chàng vừa lẫm bẫm: “Là anh hùng đứng ra giúp nước ư! Mình đã từng nghĩ đến rồi ấy nhỉ, nhưng bây giờ Trần Lĩnh này đang mang tiếng là tội phạm hại dân hại nước, ha ha… Cuộc đời thật trớ treo!”
Trần Lĩnh theo hướng đông mà thẳng tiến, hôm nay là một ngày vắng mây, ánh mặt trời ấm áp làm tiêu tan bớt cái lạnh giá những ngày cuối năm, chàng đi trên con đường đồng rộng nửa trượng. Hương đồng nội khiến tình thần chàng bớt trống trải khi thấy mình và mẹ thiên nhiên đang ở rất gần. Xa xa thấy bóng dáng một mục đồng đương ngồi trên lưng trâu thổi sáo, thanh âm có vẻ yếu ớt và thiếu tự tin. Trần Lĩnh vội la lên: “Em thổi hay lắm, rất hay đấy!” Không thấy tiếng đáp lại, không biết cậu bé có nghe được không, nhưng không lâu sau đó tiếng sáo dần thay đổi, nghe rõ ràng hơn. Trần Lĩnh nỡ nụ cười, lại cất bước đi.
Không lâu sau đó đã đến quan đạo, đối diện là rừng cây rậm rạp chừa lối đi vào làng Quảng Xương. Chàng đi khoảng hai mươi trượng là đến cổng chào của làng, thấy phía trước có nhiều người tụ tập, đoạt chắc có náo sự.
Đến gần mới thấy một người đàn ông trung niên mặt mày đầy sẹo đang lăm le thanh đao trên cổ cô gái tuổi khoảng hai mươi lăm, đối diện là một nam nhân tuổi chừng ba mười trông ra dáng thư sinh, đạo mạo cốt cách, đầu tóc chỉnh chu, khuôn mặt thanh tú.
Thư sinh từ tốn nói: “Lê Hạ! Là đàn ông thì mau thả cô gái ấy ra, chúng ta đấu tay đôi!” Người mặt hung ác nói: “Tao không điên, tao biết mình đấu không lại mày, tao không muốn ăn cơm tù! Bách Thủ Tú Tài ngươi không muốn ông nội giết cô gái này, thì mau cút đi!”
Nhìn cuộc diện đã rõ, Trần Lĩnh quát lớn lên: “Nhà ai thì người ấy mau chóng về đi, bộ không biết sống chết hay sao, mà còn đứng đó trố mắt xem! Còn đứng đó!”
Mọi người giật mình, tiếng quát của chàng chứa đầy nội khí sung mãn, dân làng hơn hai mươi người dáo dát chạy đi kiếm chỗ nấp ló mặt ra xem, khoảng đất trống chỉ còn bốn người. Anh chàng tú tài quay sang nói: “Cám ơn cụ!” Tên Lê Hạ trợn mắt kinh dị hấp tấp nói: “Cả lão già này nữa, ông đứng yên đó, còn tiến một bước là tôi cắt cái đầu cô ta xuống liền.” Cô thôn nữ sợ hãi ra mặt, khóc lóc liên hồi. Tên Lê Hạ mặt hung nạt lớn “im ngay” cô ta mới chịu nín lại.
Trần Lĩnh trong bộ dạng ông già lụ khụ nói: “Này mặt sẹo, cậu thả con bé ra đi, hai người sẽ đấu tay đôi, cậu nói anh chàng tú tài kia giỏi hơn cậu phải không. Thế này cậu ta sẽ tay không đấu với thanh đao của cậu. Lão lấy thân phận là bô lão để cam đoan công bằng. Chấp cậu mười tuổi chấp luôn thanh đao, chẳng lẻ cậu không đánh lại anh tú tài kia sao?”
Thấy anh tú tài có vẻ không chịu, tên họ Lê gật đầu nói: “Được! Lão lấy kiếm của anh ta đi!” Anh chàng thư sinh cứ nhưng nhị, Trần Lĩnh đi về phía anh ta liếc mắt xảo trá làm hiệu. Anh chàng vội hiểu ra hai tay dâng kiếm.
Trần Lĩnh lại đi về phía họ Lê nói: “Này! Giờ đẩy con bé sang đây, hai người giao đấu!” Lê Hạ vội làm theo. Trần chỉ đường cho cô gái chạy đi rồi nói “bắt đầu”, hai bên xông vào nhau chàng liền ném thanh kiếm về phía anh chàng tú tài. Vì bất ngờ họ Lê đánh mất tiên cơ, liên tiếp bị dồn ép, hắn ta tức điên mà không rảnh miệng để chửi. Sau hai mươi chiêu khốn đốn đỡ gạt, thoát chết trong gang tất, hắn bị chém một nhát kiếm ở bắp tay phải, từ đó di chuyển kém linh hoạt. Anh chàng tú tài ra chiêu rất nhanh nhẹn, chiêu thức biến hóa linh động, đầy đặn, có công có thủ rất thập toàn.
Họ Lê nghiếm răng nổi khùng lên, thanh đao nặng chém liên tiếp bất chấp tất cả, hắn vận lực hùng hậu đánh như là trận đấu cuối cùng trong đời vậy. Bộ vị hắn lộ nhiều sơ hở, nho sinh nhìn thấy nhưng tạm thời chưa thể công vào, đối phương đã tỏ ra liều mạng, sơ sẩy là bị chết chung ngay.
Qua hơn bốn mươi chiêu, lực đạo trong tay đối thủ giảm dần, nho sinh nhân cơ hội hắn chém quá tay, anh đảo người né tránh cong như cánh cung, cùng thanh kiếm quay ngược lại đâm chéo lên bàn tay phải đang cầm đao của đối phương. Họ Lê la lên như mãnh thú vừa vùng vằn đã bị thanh kiếm của nho sinh chỉ vào yết hầu.
Trần Lĩnh cười ha hả rồi chạy vào ngôi nhà đầu tiên xin một đoạn dây thừng, chạy đến cột tay tên họ Lê. Anh tú tài nói: “Cám ơn cụ đã ra tay tương trợ. Trần Lĩnh liếc mắt thấy bên hai lưng bàn tay của anh chàng này có xăm hình đóm lửa màu đỏ.
Thấy ánh mắt chú ý của Trần Lĩnh, nho sinh cung tay nói: “Tiểu sinh là người của hội “Thắp Lửa”, tên là Nguyễn Công Toàn xin chào bô lão! Một lần nữa cám ơn người!”
Trần Lĩnh cười khoái trá nói: “Cám ơn thôi à! Tên tội phạm này võ công không tệ, hắn được treo thưởng bao nhiêu!” Công Toàn đáp: “Hắn chỉ cướp của, gây thương tích chứ chưa giết người, nên chỉ có năm mươi quan thôi ạ!”Trần Lĩnh lại cười nói: “Năm mươi quan số tiền đủ sống thoả mái nửa năm, đâu phải là ít, chia cho lão một ít mua bát cháo ăn chơi! Lão cũng có công trong vụ này mà!”
Công Toàn nói: “Nhưng cháu chỉ còn có mười mấy quan thôi! Phải áp giải hắn về kinh thành nữa!” Trần Lĩnh nói: “Đưa cho tôi… đưa cho già mấy quan lẻ cũng được. Có cần cậu phải chia cho một nửa đâu!”
Công Toàn lấy bốn quan tiền trong bọc đưa cho Trần Lĩnh nói: “Nếu có cơ hội qua đây cháu sẽ hậu tạ cụ!” Trần Lĩnh xua tay nói: “Thôi khỏi, có qua cũng không gặp lại lão đâu, đừng phí công!” Nói rồi chàng hý hừng đi vào trong làng, miệng lẫm lẫm: “Cái nghề này tuy nguy hiểm nhưng kiếm tiền thật là nhanh… Cha mình rèn năm cái cuốc mới kiếm được một quan, năm mươi quan là hai trăm rưỡi cái cuốc, số đó phải làm nửa năm mới được. À mà nói đi cũng nói lại, tìm người đã khó, tìm một tên cướp luôn hành động về đêm càng khó hơn.”