Toàn bộ dân chúng quanh cổng làng được khuyên tạm lánh đến nơi an toàn. Vì vậy trong vòng tám mẫu[1] đất quanh cổng làng chỉ còn lại năm mươi tráng sĩ và một cây cổ thụ, chính là dị mộc kia. Sau một tiếng hô vang như sấm của người thủ lĩnh, toàn bộ nhóm trai làng nhất loạt vung rìu lao tới gốc cây. Khi còn cách gốc cây chừng hai quang gánh, các chàng trai bỗng cảm nhận một áp lực khủng khiếp phà vào mặt. Họ thấy như có bức vách vô hình vững chãi ngăn cản họ chạm đến gốc cây. Hơn thế nữa, bức vách này có xu hướng đẩy họ lùi ngược lại. Không chịu khuất phục, nhóm tráng sĩ vận hết sức bình sinh, chỉa thẳng rìu rựa về phía trước, bấu chặt bàn chân xuống mặt đất dần dần bước tới hòng chọc thủng vách ngăn vô hình kia. Năm mươi chàng trai sát cánh bên nhau, tay phải cầm chắc vũ khí, tay trái choàng chặt vào vai người bên cạnh, tạo nên thế liên hoàn như chiếc thòng lọng dần thắt lấy gốc cây. Họ cứ thế vận lực tiến tới, một bước, hai bước, rồi ba bước. Khi nhóm người chớm mừng vì bức vách vô hình dường như đang bị khuất phục, thì không gian bỗng dưng sầm tối và bầu trời vần vũ dữ dội. Từ trong đám mây trên cao vọng xuống tiếng sột soạt khó hiểu. Và rồi bộp bộp bộp, các xác chim, xác dơi,con to con nhỏ liên tục rơi xuống mặt đất, miệng chúng sùi bọt trắng. Người thủ lĩnh hô to:
“Dị mộc tung thán khí, mau hành động theo kế hoạch!”
Lập tức các chàng trai kéo ngay lớp khăn vấn trên đầu xuống che kín mũi miệng, chỉ chừa lại đôi mắt để quan sát. Cần biết người thủ lĩnh là tay săn lão luyện có nhiều năm kinh nghiệm. Chàng đã từng đối mặt với muôn vàn chim quý thú lạ ở chốn rừng thiêng nước độc. Trong số ấy có loài chồn Trúc Đào. Loài chồn này được đặt tên theo cây trúc đào, một loài cây có hoa mỹ miều và quả hấp dẫn, thế nhưng lại cực độc. Hầu như bộ phận nào của cây trúc đào cũng có độc. Người ăn phải quả của cây này thì xem như đã đi hai phần ba đoạn đường xuống âm ty. Ngay cả khi lấy thân cây này làm củi đốt thì khói tỏa ra cũng sẽ khiến người ta tắt tiếng và khó thở. Chồn Trúc Đào thường tự vệ bằng một thứ mùi hôi có tác dụng tương tự khói từ củi trúc đào. Vì thế nó được đặt tên theo loài cây này. Khi kẻ thù đối mặt với cơn khó thở là lúc để con chồn thoát thân. Vỏ quýt dày có móng tay nhọn. Người thợ săn là con cháu của một gia đình có truyền thống săn bắn. Một kho kinh nghiệm gia truyền giúp ông thừa sức đối phó chồn Trúc Đào. Người thợ săn chỉ cần thoa tinh dầu cây Tuyết Liên phương Nam lên tấm khăn che mũi là hóa giải được khí độc của chồn Trúc Đào, hay bất thứ khí độc nào khác. Nguyên ủy của hiệu ứng này là do đặc tính kỳ diệu của tinh dầu Tuyết Liên phương Nam. Tuyết Liên vốn dĩ chỉ mọc trên các đỉnh núi phương Bắc quanh năm tuyết phủ. Hạt giống của loài cây này có thể bay theo gió phát tán đến những vùng đất xa xôi. Tuy nhiên nếu đáp xuống những nơi khí hậu nóng ấm thì hầu như Tuyết Liên không thể nảy mầm. Vậy nhưng trong vũ trụ bao la chẳng quy luật nào là không có ngoại lệ. Một số hạt Tuyết Liên ít ỏi nhờ những đột biến trong vật chất di truyền mà nảy mầm và sinh trưởng được trên vùng đất phương Nam ấm áp, từ đó tạo nên giống Tuyết Liên phương Nam mầu nhiệm. Sự mầu nhiệm thể hiện ở tính chất đặc biệt trong tinh dầu ép ra từ loài hoa này mà Tuyết Liên nguyên thủy phương Bắc không bao giờ có được: Tính khử độc. Tinh dầu Tuyết Liên phương Nam là thứ chất lỏng có thể vô hiệu hóa bất kỳ độc tố nào khuếch tán trong nó. Hơi độc chồn Trúc Đào đi qua tấm khăn bịt mặt có thoa tinh dầu tuyết liên phương Nam sẽ bị hóa giải hoàn toàn, vì đó mất đi độc tính.
Hoa của dị mộc nở trong những đám mây, thán khí tung ra trên cao khiến lũ chim chóc bay ngang lập tức ngộ độc chết rơi lả tả. Dấu hiệu này giúp năm mươi tráng sĩ kịp thời hành động. Họ nhanh chóng che mặt bằng khăn tẩm tinh dầu Tuyết Liên phương Nam trước khi thán khí dị mộc lan tỏa xuống mặt đất. Quyền năng Tuyết Liên phương Nam mầu nhiệm đến mức dù thán khí dị mộc đã nhuộm vàng cả một vùng trời mây nhưng các chàng trai vẫn thản nhiên khép chặt vòng vây quanh gốc cây. Đột nhiên họ nghe từ thân cây phát ra tiếng gì đó răng rắc, như thể có ai đó dùng dao lóc đi từng lớp vỏ cây. Các tráng sĩ căng mắt quan sát gốc cây, họ tin chắc dị mộc này đang tung ra chiêu tiếp theo của nó. Nhưng nếu quả thật tiếng răng rắc kia là âm thanh của vỏ cây bị lóc đi, lẽ nào thứ quỷ quái này lại tự lột da chính mình?
Thắc mắc này lập tức được làm sáng tỏ. Trong làn sương mờ ảo, các chàng trai trông thấy những dáng người siêu vẹo bước ra từ phía thân cây. Chúng mỗi lúc một tiến gần và diện mạo dần lộ rõ. Nhóm tráng sĩ trố mắt nhìn thứ sinh vật đang tiến lại phía họ. Bộ mặt chúng nhăn nheo, khoang miệng móm xọm ngoác ra, quai hàm cong vênh và hốc mắt lõm sâu nhắm nghiền. Người thợ săn thủ lĩnh hô to:
“Hình nhân bong ra từ vỏ cây, vững tay rìu mà chiến đấu anh em ơiiiiii!”
Thế là năm mươi chàng trai nhất loạt hô to một tiếng, vung rìu chém túi bụi vào đám hình nhân đang tiếp cận. Kỳ lạ một điều, lũ hình nhân bước đi siêu vẹo, chân nam đá chân chiêu như kẻ say rượu, vậy mà ứng biến nhanh nhẹn cực kỳ. Ai cũng biết các khớp xương conngười đều có giới hạn của chúng. Ai ngoan cố vượt qua những giới hạn ấy sẽ chuốc lấy chấn thương. Thế nhưng các hình nhân này dường như không bị ràng buộc bởi một giới hạn nào. Chúng có thể xoay vai, lắc hông, khom mình... theo những tư thế vạn phần quái dị. Người thường nếu làm thế hẳn phải đứt gân lìa khớp. Vì đó các tráng sĩ chiến đấu vô cùng vất vả vẫn không hạ được lũ âm binh này. Họ chém ngang thì chúng né dọc, họ bổ dọc thì chúng lách ngang, họ vạt xiên thì chúng tránh xéo. Nói chung không đòn nào khiến chúng thọ thương. Tình cảnh các chàng trai thì hoàn toàn ngược lại, nhiều người đã trầy da rách thịt. Lũ hình nhân không chỉ thủ mà còn công. Mỗi bàn tay chúng có năm ngón dài như năm cành cây vót nhọn, vô cùng sắc bén. Những cú vả của chúng tung ra có thể hủy hoại diện mạo đối phương, khiến nạn nhân chịu một lúc năm vết cứa dài. Nhóm tráng sĩ hầu hết là những tay săn thiện nghệ. Họ không ít phen phải đương đầu với sói hung hổ dữ trong rừng sâu nên phòng vệ kín như bưng, hình nhân khó mà sát thương được họ. Tuy nhiên cũng có những chàng chỉ là nông phu hoặc thợ thủ công. Ngoài sức trẻ ra họ không còn ưu thế gì. Những thành viên này nhanh chóng lãnh chịu những đòn tấn công hiểm độc của đối thủ. Người thủ lĩnh thấy rõ điều đó, chàng lập tức ra lệnh:
“Các tay săn, lập tức hỗ trợ những người bị thương!”
Nhóm tráng sĩ mau chóng thay đổi đội hình, mỗi người nông phu hoặc thợ thủ công được kèm bởi hai tay săn. Họ đâu lưng tạo thế tam diện vừa công vừa thủ, nhờ vậy người ta không thọ thương thêm mà còn lác đác chém gục được vài hình nhân. Hai phe giằng co với nhau hồi lâu không phân thắng bại. Sức người có hạn, dù dẻo dai cường tráng đến đâu cũng phải đến khi thấm mệt. Trong khi bọn quái vật kia đã nằm ngoài quy luật của tự nhiên, chúng càng đánh càng điên cuồng hăng máu. Người thủ lĩnh thấy cứ tiếp tục thế này không phải cách tốt, tay chàng không ngừng vung rìu nhưng não chàng bắt đầu suy nghĩ. Hẳn phải có cách gì đó trị được lũ hình nhân này. Mắt chàng sáng lên khi nhìn thấy chiếc đó trên ao. Người thủ lĩnh lao nhanh đến bờ ao và không quên vỗ vai một tráng sĩ nói:
“Chú em tách nhóm chạy về miếu Thành Hoàng lấy cây đuốc và chum dầu thắp đèn lại đây ngay nhe.”
Trong chớp mắt người thủ lĩnh đã tháo được tấm lưới to trên chiếc đó ở bờ ao. Chàng chạy như bay về nơi đôi bên đang giao đấu và phát lệnh: “Tất cả nghe đây, mau chóng dàn hàng ngang, chúng ta phải dùng tấm lưới này tóm gọn bọn chúng.” Chưa đầy một khắc[2], toàn bộ bốn mươi tám chàng trai dàn thành hàng ngang, lưỡi rìu không ngừng khua vù vù như cánh ong trước mặt. Đội hình thay đổi khiến lũ hình nhân thoáng khựng lại vì ngạc nhiên. Trong một thoáng quý báu đó, tấm lưới đã nhanh chóng được truyền dọc theo hàng ngũ các tráng sĩ. Người thủ lĩnh lại phát lệnh, giọng chàng vang như sấm:
“Hàng ngang lập tức uốn thành hình cánh cung, vây lũ quái vật lại!”
Các chàng trai răm rắp tiến bước, tay trái nắm chặt mép lưới, tay phải không ngừng khua rìu khiến lũ hình nhân không cách gì chạm đến họ. Lũ hình nhân cứ gầm gừ tức giận, xồ tới xồ lui nhưng không thể tiếp cận các chàng trai. Đội hình cánh cung nhanh chóng hình thành, vây lấy lũ hình nhân. Phía sau là gốc cây to và một vách đất cao, phía trước là các tráng sĩ đang hừng hực khí thế, đám quái vật vì thế không lách được đi đâu. Khi chúng còn đang ngơ ngác thì một mệnh lệnh tiếp theo được phát ra chắc nịch:
“Một, hai, ba, quăng lưới!”
Bốn mươi tám cánh tay phải thu rìu, bốn mươi tám cánh tay trái vung ra, tấm lưới to lập tức được tung lên. Lũ hình nhân còn chưa hiểu chuyện gì thì tấm lưới đã trùm xuống đầu chúng. Nhanh như chớp, nhóm tráng sĩ tách ra làm đôi. Một nửa giữ chặt mép lưới bên này, một nửa bắt ngay lấy mép lưới bên kia. Đôi bên đồng loạt ghì mạnh hai mép lưới xuống mặt đất. Lũ hình nhân bị tấm lưới ràng mạnh, khuỵu gối quỳ cả xuống. Thừa thắng xông lên, các tráng sĩ kéo lê mép lưới bên kia về phía mép lưới bên này. Lũ hình nhân bị động tác ấy giật cho ngã chúi mũi. Hai mép lưới khép vào nhau tóm gọn lũ quái vật như ngư nhân thu hoạch một mẻ cá. Vừa khi ấy, chàng trai nhận lệnh chạy về miếu Thành Hoàng đã quay lại, kịp thời mang đến một bó đuốc lớn có ngọn lửa cháy phừng phừng và một chum dầu thắp đèn to tròn. Người thủ lĩnh đón lấy chum dầu hắt ngay lên lũ hình nhân đang nhung nhúc ngọ nguậy trong tấm lưới. Ngay sau đó là ngọn đuốc to đáp xuống đầu chúng. Nhóm tráng sĩ nghe phừng một tiếng lớn và cảm nhận luồng khí nóng rát phà ra. Lũ hình nhân quằn quại trong biển lửa. Tiếng gỗ cháy đượm nổ tanh tách. Nhóm tráng sĩ phải lùi lại để tránh những đốm lửa văng ra khi đám quái vật giãy giụa đau đớn. Lũ hình nhân mau chóng hóa thành những tác phẩm điêu khắc kinh dị được tạo nên từ than hồng. Chỉ một lúc sau chúng không còn cựa quậy, ngọn lửa cháy dịu dàng báo hiệu chúng đã chết hẳn. Thừa thắng xông lên, các tráng sĩ người thì dùng rìu, người thì dùng giáo hất văng những xác hình nhân đang cháy vào gốc dị mộc. Người thủ lĩnh ném chiếc chum dầu vào gốc cây. Chiếc chum vỡ tan và phần dầu còn lại bắn tung tóe. Dầu này bắt lửa từ các xác hình nhân bùng lên phừng phừng. Trong chớp mắt gốc dị mộc chìm trong khói lửa.
Nhóm tráng sĩ ôm chầm lấy nhau mừng rỡ, khúc khải hoàn dường như đã ngân nga bên tai. Riêng người thủ lĩnh chưa vội nói cười, chàng vẫn chăm chú quan sát gốc cây. Chàng muốn đợi đến khi dị mộc kia chỉ còn là khúc củi khô rồi vui mừng cũng chưa muộn. Bất chợt chàng nghe có tiếng gì lép nhép phát ra từ gốc cây. Giống như tiếng chân người bước đi trên đường đất trong ngày mưa lầy lội. Các tráng sĩ cũng nghe thấy âm thanh này sau chàng không lâu. Tiếng cười nói dần dần biến mất. Có một linh cảm bao trùm rằng chuyện này chưa kết thúc tại đây. Linh cảm ấy càng rõ ràng hơn khi lửa đỏ quanh gốc cây cứ yếu dần, yếu dần. Từ một đám cháy mãnh liệt hóa thành ngọn lửa tầm thường, rồi từ ngọn lửa tầm thường hóa thành ngọn đèn leo lét. Và cuối cùng chỉ còn lại khói. Khi làn khói dần tan, các chàng trai thấy rõ quanh gốc gây nhầy nhụa một chất nhớt xanh nhờn. Hẳn chính thứ nhớt này chảy ra đã tạo nên âm nhanh lép nhép ban nãy và dập tắt ngọn lửa. Các tráng sĩ ngơ ngác nhìn nhau, chưa biết sự tình lành dữ ra sao. Rồi hết thảy họ quay đầu nhìn về người thủ lĩnh. Người thủ lĩnh không để ý điều đó, mặt chàng đăm chiêu, đôi chân mày chau lại và ánh mắt nhìn chăm chăm vào dị mộc. Các chàng trai đều có thể đoán được trong não người thủ lĩnh của họ đang có muôn vàn luồng suy nghĩ nhằm tìm ra lời giải cho nhiệm vụ gian nan này. Đột nhiên chàng hét to:
“Các chàng trai! Cẩn thận trên cao!”
Mọi người nhất loạt ngước lên. Họ chỉ kịp trông thấy những bóng mờ nửa đen nửa đỏ lao vụt xuống như các bóng ma. Năm mươi tráng sĩ lập tức gom lại sát bên nhau, tất cả mở to mắt quan sát xem thứ ma quỷ gì vừa lao xuống. Trước mặt họ, các bóng mờ nửa đen nửa đỏ dừng lại, lơ lơ lửng lửng, run lên bần bật. Nhóm người chợt lạnh toát cả sống lưng khi họ cảm nhận được có tiếng cười khanh khách văng vẳng đâu đây. Rồi những tạo vật kia định hình rõ nét dần dù chúng vẫn không ngừng run lên từng đợt. Tiếng cười khanh khách vẫn khi gần khi xa. Các tráng sĩ thấy rõ chúng là những chùm rễ đen quăn tít rối bời của dị mộc, thường ngày vẫn buông thõng xuống từ mây cao. Dường như bộ phận nào của đại thụ này cũng chứa đầy cô hồn dã quỷ và có khả năng tách rời vật chủ để chiến đấu độc lập. Các chùm rễ cứ lòa xòa lơ lửng, dài đến mức kéo lê từng búi trên mặt đất. Trông chúng rù rợp đen đúa và dơ bẩn như tấm áo choàng của các phù thủy trong một bộ lạc ăn lông ở lỗ. Nhóm người căng thẳng quan sát, cảnh giác cao độ, lưỡi rìu giơ ngang, chưa dám manh động. Các chùm rễ ngừng run, tiếng cười khanh khách vừa lúc đó cũng im bặt. Những chùm rễ này mấy chục cái như một, đồng loạt xoay tròn, quay về phía các chàng trai phần mà nãy giờ họ chưa được thấy. Và khi chúng đã quay lại hoàn toàn thì hỡi ôi, những người vững tinh thần nhất cũng không kìm được một tiếng kêu trời. Còn những ai yếu đuối hơn thì hoảng hốt đánh rơi cả rìu, thậm chí có người nôn thốc nôn tháo như ăn phải cơm thiu.
Thứ mà họ vừa phải chứng kiến chính là chùm quả của dị mộc treo lủng lẳng trên búi rễ. Thứ này khi lơ lửng trên cao ai nhìn cũng đã khiếp đảm. Nay nhóm tráng sĩ phải đối mặt trực diện với chúng thì quả là không còn gì kinh tởm hơn. Nhìn chúng chẳng khác nào đầu người bị lột da lóc thịt, mọi thứ còn bầy nhầy tươi rói. Người thũ lĩnh biết tâm lý các tráng sĩ đang chấn động mạnh, chàng lập tức hô to:
“Mọi người bình tĩnh, nó chỉ là quả trên cây, không phải đầu người đâu. Lập tức nhặt vũ khí lên trước khi địch tấn công chúng ta!” – Rồi chàng quay sang các chàng trai đang nôn thốc nôn tháo – “Này các chàng trai, dừng lại ngay! Phải ráng dừng lại ngay để kéo khăn che mặt lên trước khi cáccậu chết ngạt vì thán khí!”
Những lời chỉ huy ấy vô cùng chính xác và cần thiết. Các tráng sĩ vận dụng hết sức mạnh tinh thần để ổn định đội ngũ trong mức nhanh nhất có thể. Nhưng các chùm rễ còn nhanh hơn. Ngay khi nhóm người còn đang hỗn loạn, những chùm rễ đã lao vụt về phía họ thần tốc như tia chớp khiến ai nấy ngỡ ngàng. Lạ thay chúng không đụng đến một sợi tóc của họ mà chỉ di chuyển lòng vòng len lỏi vào giữa các chàng trai. Các chàng trai đang cố gắng trấn tĩnh trước diện mạo kinh tởm của những chùm quả thì chúng lại tiến gần hơn và len lỏi vào giữa đoàn người khiến họ thêm một phen giật nảy mình. Người thủ lĩnh thấy gương mặt các chiến binh của mình vẫn chưa hết vẻ thất thần nên chàng hô lên một tiếng van rền rồi vung rìu nhắm thẳng một chùm rễ gần nhất mà bổ xuống. Rìu của chàng chưa kịp chạm đến chùm rễ thì nó đã vụt đi, và ngay lập tức tất cả các chùm rễ còn lại cũng vụt đi. Chúng chuyển động nhanh đến mức nhóm người chỉ còn biết ngơ ngác đứng nhìn. Các chùm rễ bay vùn vụt len lỏi giữa nhóm người, cứ từ trước mặt người này lách qua hông người kia rồi luồn sau lưng người nọ. Chúng nhanh và hỗn loạn gấp trăm lần một đàn nai bị sư tử đuổi bắt. Trong tình cảnh con người và rễ cây lẫn lộn thế này, bất cứ chàng trai nào dám vung rìu chém địch thì rất có thể sẽ chém trúng đồng đội của mình. Vì vậy không ai trong số họ, kể cả người thủ lĩnh, dám manh động tấn công.
Phen này người thủ lĩnh bối rối thực sự, chàng chưa bao giờ gặp phải một tình thế quái gở như vậy. Tất cả những gì chàng có thể chỉ đạo bây giờ là một giải pháp tình thế vô cùng thụ động:
“Anh em ơi, chúng ta phải tự dãn đội hình ra, đủ để mỗi người có thể múa rìu tự vệ quanh mình mà không chạm đến người khác. Đúng rồi! Đúng rồi! Cứ thế! Được rồi, mọi người hãy tích cực múa rìu bảo vệ chính mình.”
Người thủ lĩnh hiểu rõ các chùm rễ kia không thể cứ mãi di chuyển mà không làm trò gì khác. Chúng như bầy chó hoang đang chạy rông, chỉ đợi khi con người lơ là sẽ bất ngờ tung chiêu cắn lén. Điều người thủ lĩnh cần nhất lúc này là đồng đội có thể tự bảo vệ kín kẽ chính mình trong khi chàng suy nghĩ kế sách.
Dị mộc kia và người thủ lĩnh không biết ai mưu trí hơn ai. Bản thân dị mộc cũng đã mất đi mấy chục hình nhân bị thiêu rụi. Có lẽ nó đã hiểu giao đấu trực tiếp không phải cách tốt. Giờ đây nó bày ra một thế trận kỳ lạ có một không hai, chưa từng được nhắc đến trong bất kỳ binh thư nào. Các chùm rễ chạy rông liên tục không ngừng nghỉ. Ai nấy đều tưởng rằng trước sau gì chúng cũng sẽ dừng lại để giở trò gì đấy, nào ngờ chúng di chuyển càng lúc càng nhanh, nhanh đến mức nhạt nhòa hình ảnh. Những gì người ta còn có thể thấy về chúng chỉ còn là những vệt đen đen đỏ đỏ, mờ như một làn sương. Làn sương này len lỏi giữa đám người khiến mỗi cá nhân hoàn toàn bị cô lập, không tài nào nhìn rõ đồng đội xung quanh. Người thủ lĩnh cố gắng lắm cũng không đoán ra chúng đang mưu tính điều gì, chỉ thấy quanh chàng vù vù tiếng gió và tràn ngập hai màu đen đỏ. Mỗi chàng trai cảm thấy mình như đang đứng tại tâm của một cơn lốc. Luồng di chuyển thần tốc của những chùm rễ dài thượt đan chéo lẫn nhau đã hoàn toàn cắt đứt tầm quan sát của các tráng sĩ. Điều này khiến mỗi người thấy như mình bị cô lập vào một ngục thất riêng biệt, bất giác không tránh được cảm giác hoảng hốt.
“Các anh ơi, các anh đâu rồi?” – Một người kêu thất thanh.
“Tôi ở bên đây” – Một tiếng người đáp lại.
“Còn tôi ở bên này, có ai thấy tôi không?” – Một người khác kêu lớn.
“Tôi thì ở bên đây, các anh ở đâu, có nghe tiếng tôi không?”
“Có, có nghe tiếng anh, nhưng không nhìn thấy gì.”
“Tôi không biết mình đang ở đâu nữa, không thấy gì xung quanh hết. Thủ lĩnh ơi, giờ phải làm sao đây thủ lĩnh?”
“Thủ lĩnh, anh còn ở đó không?” – Nhóm người hỏi dồn.
“Tôi vẫn ở đây.” – Người thủ lĩnh đáp – “Nhưng tôi không thấy các chú em. Mọi người bình tĩnh, quan trọng nhất là phòng thủ cẩn trọng đừng để chúng đánh lén.”
Được sự trấn an của thủ lĩnh, các chàng trai vững dạ hơn. Họ bình tĩnh và liên tục quan sát trước sau, múa rìu trên dưới, lòng thầm mong đợi lớp sương mù kia sớm tan đi. Thực tế lớp sương mù kia sẽ tan nhanh theo ước nguyện các chàng trai. Có điều khi nó tan rồi, họ lại không mừng rỡ được như họ tưởng. Bởi lúc ấy họ phải đối mặt với sự kích động mạnh chưa từng có. Một sự kích động mà không phải ai trong đời mình cũng từng một lần bắt gặp.
Khi cánh tay các tráng sĩ còn chưa quá mỏi vì múa rìu, lớp sương mù kia dần tan. Điều này lẽ ra là do lũ rễ cây di chuyển chậm dần, và lúc sương mù tan hết ắt phải là khi các chùm rễ lại hiện rõ. Nhưng không, các chàng trai không nhìn thấy một chùm rễ nào. Trong tầm mắt của mỗi tráng sĩ, cùng với sự mỏng dần của lớp sương mù đang giam cầm họ, là sự xuất hiện của những dáng người. Các chàng trai thật sự mừng rỡ vì điều đó, đồng đội vẫn luôn ở quanh họ. Không được nhìn thấy nhau không có nghĩa là chẳng còn sát cánh bên nhau. Giờ đây sương mù tan và họ lại được thấy bạn bè. Không phải là hình nhân cong vẹo hay chùm rễ lòa xòa, đó là vóc dáng con người, những vóc dáng thân quen. Các chàng trai cười rạng rỡ giơ tay chào đồng đội, nhưng nụ cười chưa kịp tươi đã vội tắt ngấm, thay vào đó là những đôi mắt to tròn vì kinh ngạc.
***
Cách đó hơn chục dặm về phương Nam, gia đình những người dân tị nạn sống thấp thỏm trong nỗi chờ mong khắc khoải. Họ chờ mong chút tin lành, chờ mong các chàng trai khải hoàn trở về từ chiến địa. Có bà cụ thẫn thờ tựa cửa, mái tóc bạc phất phơ trong ngọn gió hắt hiu. Đôi mắt mờ đục của bà như đang cố vận chút sức mòn ban chiều, phóng tầm nhìn mệt mỏi về chốn xa xôi, nơi năm mươi tráng sĩ phải đương đầu yêu nghiệt. Chợt có ai đó bất ngờ ùa đến ôm lấy chân bà. Bà cụ giật mình như sực tỉnh, cúi nhìn hai đứa trẻ đang giật giật gấu váy mình. Bà ôn tồn hỏi:
“Gì vậy các cháu ngoan?”
“Chừng nào cha về vậy bà?” – Đứa trẻ bé hơn hồn nhiên hỏi.
“Sắp rồi cháu ạ.” – Bà cụ đáp, cố nén tiếng thở dài.
“Cha có giết được ma cây chưa bà?” – Đứa trẻ lớn hơn tỏ ra rất lo lắng.
“Bà cũng chưa biết nữa.” – Bà cụ trả lời mệt mỏi.
“Cháu muốn đi giúp cha. Cháu phải cùng cha đánh ma cây!” – Hai đứa trẻ bỗng nhao nhao lên.
“Không được đâu. Các cháu còn nhỏ.” – Bà cụ ngồi xuống xoa đầu hai đứa trẻ – “Hãy ngoan ngoãn ở đây để cha các cháu yên tâm chiến đấu nhé.”
Hai đứa trẻ phụng phịu quay đi. Chúng tấp tễnh bước ra hiên nhà, cố rướn đôi chân nhỏ ngẩng đầu ngóng về phía chiến địa xa xôi. Đứa trẻ lớn hơn thì thầm: “Cha ơi! Con mong cha chiến thắng!”
***
Những dáng người hiện rõ quanh mỗi chàng trai khiến họ sốc nặng đến không nói nên lời. Chẳng phải vì họ không quen biết những con người vừa hiện ra từ làn sương, mà ngược lại, vì chúng quá quen thuộc. Chúng... chính là họ.
Những tráng sĩ đã nhầm khi tưởng rằng đồng đội sắp gặp nhau. Chẳng có đồng đội nào và màn sương vẫn giăng dày. Chỉ một lớp sương mỏng tan đi, đủ để lộ các bản sao của từng tráng sĩ. Mỗi chàng trai ngơ ngác nhìn năm con người lạnh lùng bước về phía họ. Diện mạo chúng giống họ đến nỗi tưởng chừng đó là bóng phản chiếu qua năm tấm gương đang tiến gần. Không còn cách nào khác là phải bảo vệ chính mình. Bản chính vung rìu lên, hồi hộp chờ đón bất kỳ đòn tấn công nào của những bản sao. Và rồi cuộc hỗn chiến diễn ra trong năm mươi phân khu riêng biệt của năm mươi tráng sĩ. Trong chưa đầy ba khắc toàn bộ lớp sương mù tan hẳn, đây mới là lúc các chàng trai được thực sự nhìn thấy đồng đội. Nhưng hỡi ôi, mỗi đồng đội có đến sáu phiên bản giống hệt nhau,giống cả về diện mạo lẫn thần sắc, đều kinh ngạc và hoang mang. Cuộc chiến giữa năm mươi tráng sĩ và một đại thụ giờ đây biến thành cuộc hỗn chiến giữa ba trăm con người. Nói cho chính xác là năm mươi con người và hai trăm năm mươi thứ gì đó mang hình dáng giống họ.
Các chàng trai đều biết thứ gì đó ấy chính là những búi rễ cây ban nãy. Với trí thông minh của mình, trong đầu người thủ lĩnh lập tức nảy sinh muôn vàn dòng suy nghĩ. Chúng bày ra thế trận này để tung hỏa mù, gây nên tình cảnh hỗn loạn. Hỗn loạn vì mỗi chiến binh đều không thể biết đâu là bạn, đâu là thù. Chiêu ấycũng cho thấy bản lĩnh các chùm rễ quỷ quái kia không cao nên phải bày quỷ kế thay vì giao đấu trực diện công khai. Nhưng quỷ kế này của chúng thì quá thâm hiểm khiến người thủ lĩnh cũng phải thầm thán phục.
Thâm hiểm ra sao? Về khía cạnh tâm lý, bất kỳ chàng trai nào cũng nóng lòng hạ gục các bản sao để chứng minh mình là bản chính. Bởi một khi chết đi các bản sao sẽ hiện rõ nguyên hình. Khi đó đồng đội họ sẽ thấy rõ trắng đen đặng dễ bề chiến đấu. Mặt khác các chàng trai cũng không dám tấn công ai ngoại trừ các bản sao của chính mình.Họ sợ giết nhầm đồng đội. Do đó chắc chắn mỗi tráng sĩ sẽ dốc sức tấn công năm kẻ đang mạo danh mình, khi đó ắt hẳn họ lơ là đề phòng những kẻ khác. Việc các chùm rễ giao đấu với bản chính của chúng thực chất chỉ là động tác giả. Với bản lĩnh có hạn dù lấy năm chọi một thì chúng vẫn khó hạ được bản chính. Nhưng việc đánh lén để lấy mạng một bản chính khác thì lại quá dễ dàng, vì họ chỉ lo đối phó các bản sao của mình. Đây mới thực sự là điều các chùm rễ mong muốn: Mỗi tráng sĩ tập trung tấn công năm bản sao của chính mình để rồi bị hạ sát bất ngờ bởi cú đánh lén từ bản sao của một tráng sĩ khác. Và các chàng trai còn lại vì quá bận rộn với năm bản sao của chính họ nên không nhận biết đồng đội mình hy sinh dưới tay ai. Theo lẽ tự nhiên họ sẽ nghĩ đồng đội mình bị giết bởi năm bản sao của anh ta. Chỉ có người chết mới biết rõ mình bị giết bởi ai, nhưng người chết thì không còn nói được để mách bảo cho người sống. Năm bản sao không đủ nhiều để hạ gục một bản chính. Nhưng năm bản sao là đủ nhiều để một trong số chúng có thể tranh thủ làm điều mờ ám gì đó mà bản chính không kịp để ý. Cứ nhờ vậy âm mưu ấy không bị bại lộ cho đến khi đoàn tráng sĩ năm mươi người mau chóng bị tỉa gọn. Thâm kế nham hiểm của lũ quái vật chính là điểm này. Bắt mạch được thâm kế ấy, người thủ lĩnh lập tức hô to khiến các chàng trai như thức tỉnh:
“Hãy đề phòng cả những bản sao của người khác!”
Dứt lời, chàng quăng ngay cây rìu của mình ra. Bản lĩnh người đứng đầu có khác. Cây rìu rời tay chàng như mũi tên rời nỏ, vút đi với tốc độ kinh hồn. Ba tiếng phập phập phập liên tục vang lên, đầu của ba trong số năm bản sao của chàng đã lìa khỏi cổ. Đồng thời chiếc rìu lượn hết một chu kỳ lại quay về điểm xuất phát theo quỹ đạo mà người thủ lĩnh đã tính trước. Chàng khom mình đưa tay bắt lấy cán rìu không sai một ly. Ba bản sao mất đầu ngã lăn ra đất, co giật liên hồi rồi hiện nguyên hình là ba búi rễ dài thườn thượt đã bị tiện ngang, nhựa tuôn nhầy nhụa. Hai bản sao còn lại thấy vậy thất kinh hồn vía, toan quay lưng tháo chạy. Nhưng quá muộn, mũi giáo của người thủ lĩnh đã phóng tới. Sau hai tiếng xực xực, hai bản sao còn lại cũng bị xuyên tâm như món thịt xiên que. Người thủ lĩnh nhặt cây giáo của mình lên, hất văng đi hai chùm rễ cây rũ rượi xiên trên đó. Về phần chàng thế là đã giải quyết gọn gàng. Nhưng các chàng trai không phải ai cũng thiện nghệ đến vậy. Đa số họ chiến đấu thật vất vả, vừa phải đối phó các bản sao của chính mình, vừa phải đề phòng những bản sao khác ám toán, vừa phải nương tay sao cho không sát thương nhầm đồng đội. Lần này họ đối mặt với một thử thách về kỹ năng quán xuyến bao quát lẫn nghệ thuật phối hợp cương nhu nhịp nhàng. Nét bơ phờ hằn rõ trên gương mặt mỗi tráng sĩ. Bản thân người thủ lĩnh cũng thấy mình thấm mệt. Chàng nhớ rằng thường nhật mình có thể chiến đấu với hổ sói cả ngày dài còn chẳng hụt hơi. Vậy mà giờ chiến đấu với dị mộc này chưa hết buổi sáng đã thở hổn hển. Các chàng trai cũng có vẻ không đạt đến phong độ tối đa của họ, ai nấy thấm mệt quá nhanh. Họ không hiểu vì sao lại vậy. Hầu hết cho rằng sự căng thẳng và sợ hãi đã hút bớt sinh lực họ. Có người thì cho rằng ma thuật nào đó từ dị mộc kia đã hạ phong độ đối phương. Nhưng riêng điều này dị mộc bị nghi oan. Nguyên nhân nằm ở tấm khăn che mặt. Tấm khăn này thật hữu ích khi dùng để giải độc, nhưng hoàn toàn không phù hợp khi sử dụng quá lâu. Tấm khăn che mặt không những làm cho các tráng sĩ khó hít thở khí trời mà còn giữ lại một lượng lớn hơi thở. Cần biết hơi thở cũng là một thứ thán khí mà con người phải đào thải ra môi trường. Một lượng lớn chất khí này, vốn là thứ cơ thể phải thải hồi, lại được mũi hít trở vào khiến các chàng trai mau chóng kiệt sức. Ngay cả người thủ lĩnh khôn ngoan cũng không ý thức được điều này, nhưng chàng ý thức rất rõ một điều khác: Cần chấm dứt trò chơi này trước khi các tráng sĩ kiệt sức đến mức lũ súc sinh kia có thể hạ gục họ.
Ánh mắt người đứng đầu chợt sáng lên sau hồi lâu suy nghĩ. Chàng vụt chạy như bay thẳng đến một cánh rừng cách đó không xa. Chỉ ít lâu sau chàng đã quay lại, tay kéo lê một vật màu nâu hình hài méo mó to bằng đống rơm, hình như tổ của con gì đó. Chàng đẩy ngay khối màu nâu này vào giữa vùng hỗn chiến và hô to:
“Cái gì cũng có khắc tinh của nó, các chàng trai hãy chào đón viện binh của chúng ta!”
Các chàng trai không hiểu thủ lĩnh của họ làm vậy là có ý gì, chỉ thấy nét mặt các bản sao đột nhiên hoang mang thất sắc. Từ khối màu nâu méo mó có thứ gì ngọ nguậy chui ra. Chúng rất nhỏ, nhưng rất nhiều, và hình như có cánh mỏng. Một số chàng nông phu và thợ thủ công thì hẳn không hiểu gì, nhưng những chàng thợ săn thì lập tức nhớ ra một mảnh kiến thức mà hẳn ít nhất một lần họ đã nghe cha ông nhắc đến. Những sinh linh bé nhỏ có cánh đang túa ra chính là bọ Độc Dưỡng. Tên gọi của loài bọ này bắt nguồn từ đặc tính giống loài hết sức dị thường của chúng: Chúng sống nhờ chất độc. Bất cứ thứ gì các loài khác ăn vào chết tươi thì bọ Độc Dưỡng lại xem là món ngon. Chất nào càng độc thì đối với bọ Độc Dưỡng càng là cao lương mỹ vị. Đôi cánh dẻo dai giúp chúng bay đến bất cứ nơi đâu, và bộ hàm chắc khỏe giúp chúng nhai nát bất cứ chướng ngại vật nào, chỉ cốt sao tiếp cận được hoa độc, quả độc, nấm độc, hay bất cứ thì gì khác có độc.
Người thủ lĩnh phỏng đoán rằng thán khí từ hoa của dị mộc này đã độc đến vậy thì chắc chắn thứ quả gớm ghiếc của nó cũng là loại kịch độc. Lũ bản sao kia bản chất là những búi rễ mang theo chùm quả, hẳn là món mồi ngon của bọ Độc Dưỡng. Các chùm rễ có thể biến hình để che mắt con người. Nhưng không thể tẩy đi mùi độc tố để qua mặt khứu giác vô cùng nhạy bén của bọ Độc Dưỡng. Nhìn vẻ hoảng sợ của chúng khi thấy lũ bọ cũng đủ biết người thủ lĩnh đã đoán đúng. Chiêu chàng vận dụng lần này gọi là “tiêu diệt chọn lọc”, các bản chính hiển nhiên sẽ vô sự, còn những bản sao hẳn sẽ bị bọ Độc Dưỡng chọn lọc và xơi tái.
Không cần chờ quá lâu để thấy điều ấy xảy ra. Những tiếng ù ù mau chóng vang lên khi đàn bọ cất cánh khỏi mặt đất. Chúng nhiều đến mức bay dày đặc cả một khoảng không. Người ta có thể thấy rõ các kẻ giả mạo xám mặt đi vì sợ hãi, tựa hồ những tử tù trông thấy giá treo cổ. Đàn bọ tạo thành những cơn lốc đen di chuyển vù vù trên chiến địa, len lỏi giữa đám người. Đến khi này trắng đen đã phân định rõ ràng: Một ít người thản nhiên đứng nhìn, đó là các bản chính. Phần đông lại nháo nhác bỏ chạy tán loạn, chính là lũ bản sao. Bất kể chúng chạy nhanh cỡ nào, những cơn lốc đen vẫn đuổi kịp và vây xoáy lấy chúng. Lũ bản sao nhanh chóng hiện nguyên hình là những chùm rễ đứt gãy chỉ còn trơ lại chút vỏ quả bèo nhèo cùng những cái hột nhầy nhụa. Có những bản sao toan phóng mình lên mây xanh hòng trốn về với dị mộc. Nhưng chúng vừa bay đến lưng chừng đã có năm sáu cơn lốc đen vượt lên trên chúng rồi bất ngờ bẻ quặt quỹ đạo phóng thẳng xuống đầu chúng. Khi ấy con mồi lập tức bị đàn bọ đè xuống sát đất, chỉ còn kịp giãy giãy vài cái trước khi bị xơi tái. Trong chớp mắt, đàn bọ Độc Dưỡng đã tiêu diệt toàn bộ lũ quái vật trong tiếng cổ vũ hân hoan của các tráng sĩ:
“Hoan hô! Những người bạn nhỏ thật tuyệt vời” – Đó là cách họ nói về đàn bọ Độc Dưỡng.
“Chưa hết đâu!” – Người thủ lĩnh cười mỉm – “Đàn bọ vẫn còn đói lắm. Hẳn chúng sẽ viếng thăm cả mớ hoa độc trên kia.”
Người thủ lĩnh đoán không sai. Khứu giác bọ Độc Dưỡng cực nhạy với độc tố. Chỉ một làn khói mỏng cũng đủ để chúng phát hiện ra chất độc. Huống chi nơi này đang nồng nặc thán khí.Mà khả năng rất cao dòng nhựa sống của đại thụ ma mị này cũng độc không kém. Nếu thế thì thật tốt, lũ bọ sẽ khoét rỗng cả dị mộc đáng ghét, các tráng sĩ chỉ cần nhàn hạ khoanh tay đứng nhìn. Nghĩ vậy ai nấy hân hoan quá đỗi. Đàn bọ vút thẳng lên ngọn dị mộc, thần tốc như chim ưng tung cánh. Các chàng trai khoái chí nhìn theo, lòng hả hê khôn tả.
Chốc lát sau, từ đám mây trên ngọn dị mộc có những vật nhỏ lả tả rơi xuống. Trước giờ hoa độc của thứ quỷ quái này luôn ẩn mình trên cao, chưa ai một lần được thấy chúng tròn méo ra sao. Bây giờ chúng bị bọ Độc Dưỡng xơi tái, những mảnh vụn rơi xuống hẳn cũng chẳng còn hình hài, nhưng ít nhất cũng cho người ta thấy được màu sắc của loài hoa độc địa này. Chỉ cần vậy thôi cũng đủ thỏa mãn trí tò mò lắm rồi. Các chàng trai hào hứng chờ đợi những mảnh vụn rơi xuống, mong thấy rõ màu sắc của chúng. Họ thầm nghĩ thứ hoa hôi thối đến vậy có khi màu sắc cũng khá bẩn mắt.
Các mảnh vụn phấp phới thấp dần và rõ dần. Đoàn người đang vui mừng bỗng sa sầm nét mặt. Hỡi ôi, những gì đang rơi xuống hoàn toàn không phải cánh hoa độc, mà lại là xác bọ Độc Dưỡng, những con bọ chết còng queo co quắp đến đáng thương. Nỗi thất vọng phen này khiến người thủ lĩnh kích động thật sự:
“Tại sao? Tại sao lại thế này?” – Chàng gào lên – “Chuyện quái quỷ gì xảy ra trên kia chứ?”
Điều gì đã xảy đến với đàn bọ? Đây là một câu hỏi vĩnh viễn không có lời đáp. Các chàng trai không còn nhiều thời gian để nghĩ về câu hỏi ấy, cũng không còn nhiều thời gian để thương tiếc những người bạn nhỏ của mình. Bởi họ lập tức nhận ra một điều bất ổn đáng sợ: Mặt đất đang dần rung chuyển.
***
“Cha ơi! Không! Cha!!!” – Đứa trẻ gào lên, ngồi bật dậy khỏi mặt giường.
“Bà đây! Bà đây!” – Bà cụ vội vàng chạy đến – “Không sao! Không sao rồi! Có chuyện gì vậy cháu?”
“Cháu…cháu gặp…ác mộng!” – Đứa trẻ quệt mồ hôi trên trán. Em trai nó cũng bị tiếng gào đánh thức, đang dụi mắt lồm cồm bò dậy.
“Anh mơ cái gì mà hét om sòm?” – Thằng bé phụng phịu trách móc – “Em chỉ vừa mới ngủ được có chút xíu hà.”
“Cháu mơ thấy gì mà hoảng hốt quá vậy?” – Bà cụ hỏi. Nhưng đứa trẻ không trả lời. Chẳng rõ vì nó không nghe bà cụ hỏi hay vì chưa hoàn hồn. Chỉ thấy ánh mắt nó thất thần trợn trừng đỏ ửng. Một hồi lâu đôi môi đứa trẻ mấp máy run run:
“Cháu thấy cha…cha…bị…”
Giọng đứa trẻ lại tắc nghẹn. Nó ngước nhìn bà cụ, hỏi một cách tuyệt vọng:
“Cha…vẫn chưa về sao ạ?”
Bà cụ gật đầu chua xót. Đứa trẻ không nói nữa, đầu nó cúi gục, đôi môi mím chặt, nước mắt trào ra. Bà cụ chẳng hỏi gì thêm, giờ đây trong lòng bà chỉ đau đáu một ước nguyện, ước cho giấc mơ của đứa trẻ không trở thành sự thật.
***
Những tiếng động ầm ầm dội lên từ lòng đất. Khi các tráng sĩ chưa kịp hiểu chuyện gì đang diễn ra thì mặt đất đã nứt toác, để lộ thế giới ngầm hãi hùng của đại thụ kia. Từ trong lòng đất, hàng trăm con trăn khổng lồ gồng mình trồi lên. Những con trăn to ngang ngửa loài rồng lửa mà các truyền thuyết vẫn mô tả. Nhưng thật quái lạ, loài trăn nào mà lại dính vào nhau từng chùm thế này, con nhỏ gắn vào con to, con to gắn vào con to hơn, tạo nên hình hài thập phần cổ quái. Trong nỗi kinh hoàng, các tráng sĩ nhận ra lũ quái vật ấy thực tế là hệ thống rễ chằng chịt của đại thụ kỳ dị kia. Những chiếc rễ, mà có lẽ phải gọi là những khối rễ, cứ ầm ầm chuyển mình. Vùng đất mà chúng xé nát rộng gấp chục lần chiến địa nơi đoàn người giao tranh cùng dị mộc từ đầu đến giờ.Điều đó có nghĩa là các tráng sĩ lọt thỏm trong vòng vây tứ phía của những khúc rễ cuồn cuộn di chuyển như hàng trăm dòng lũ quét hung hãn. Chỉ cần một trong số chúng nện xuống cũng đủ tiễn một đàn voi từ cõi dương sang cõi âm, huống chi nhóm tráng sĩ chỉ là những con người nhỏ bé. Trong tình thế hung hiểm ấy, các chàng trai nghĩ gì? Họ nghĩ về gia đình...
***
Gia đình họ, theo tinh thần di tản ban đầu của trận đấu, đang cùng những người dân khác nương náu ở một nơi khá xa vùng chiến địa. Nơi ấy có những ông bố cố gạt đi niềm dự cảm chẳng lành về tiếng sét dữ chuẩn bị đánh ngang tai, và có những bà mẹ cố che giấu nỗi dằn vặt khôn nguôi về bữa ăn ngon cho con chưa kịp nấu. Đây đó vài cô gái tựa cửa thẫn thờ nhớ về nụ hôn đầu trao nhau đêm hội làng, và bao thiếu phụ bồn chồn không yên mong chờ tiếng gọi quen thường nghe khi tỉnh giấc.Tất cả dân làng, dù cứng rắn hay yếu mềm, dù tự tại hay nôn nóng, đều không khỏi bàng hoàng thất thần khi nghe thấy tiếng động kinh người trưa hôm ấy, tiếng động vang dội đến từ phía cổng làng Vỹ Phong, tiếng động ngay khi dị mộc kia vung rễ giương oai xé toạc đất. Người ta đổ xô ra khỏi nhà, hàng trăm cặp mắt hướng thẳng về chốn xa tít, nơi có khói bụi mù mịt và mây đen vần vũ.
“Tiếng gì... tiếng gì...” – Một bà mẹ già run run, và rồi bà gào lên:
“Trời ơi tiếng gì vậy?” – Bà lao đầu chạy thẳng về phía chiến địa – “Trời ơi con trai tôi!”
Tiếng kêu lạc giọng của bà lão như chén dầu đổ vào ngọn lửa lo âu vẫn âm ỉ trong lòng mỗi người thân tráng sĩ. Họ hết thảy hoảng loạn cực độ, kêu thét thất thanh, quên hết hiểm nguy, đâm bổ về hướng cổng làng Vỹ Phong. Kể cả những người khuỵu ngã trong hoảng loạn cũng cuống cuồng bò dậy rồi lập tức loạng choạng lao đi. Thế nhưng dân làng đã kịp chạy theo, những ai tỉnh táo đều hiểu rằng các gia đình này đến đó chỉ là nạp mạng vô ích. Cứ hai ba người ghì chặt lấy một người, dân làng bằng mọi giá quyết giữ chân các người thân tráng sĩ. Những lời khuyên can, những câu la lối, những tiếng gào thét, những cú giãy giụa, những cơn ngất lịm... tất cả tạo nên cảnh hỗn loạn chưa từng có. Suốt chiều hôm ấy dân làng trông chừng các gia đình tráng sĩ như thể coi sóc trẻ nhỏ. Coi sóc để không cho họ đâm đầu vào hiểm nguy, ngăn cản họ làm điều chi dại dột, và thắp lên chút hy vọng xoa dịu nỗi hoang mang. Bất chấp người ta cố gắng thế nào thì ngọn lửa hy vọng ấy cứ yếu dần theo tia nắng. Một buổi chiều dài như hàng thế kỷ. Và hy vọng vụt tắt cùng tia nắng cuối ngày khi đêm xuống các anh vẫn chưa về. Những người thân tráng sĩ giờ đây không nói gì, họ kẻ nằm bẹp, người ngồi rũ, nhưng hết thảy đều chỉ còn là những cái xác không hồn. Đôi tay họ buông thõng tựa tàu dừa héo khô và ánh mắt vô hồn như con ngươi tượng gốm.
Phía xa xa nơi cổng làng Vỹ Phong là một sự thinh lặng chết chóc, không tiếng nổ, không khói bụi, không mây gió, không trăng sao, không động tĩnh. Dân làng nhận thấy đã đến lúc phải tìm câu trả lời về số phận các chàng trai. Họ thắp đuốc sáng rực và dìu những gia đình đau khổ lũ lượt kéo nhau tiến về nơi chiến địa. Tại đoạn cuối con đường, trong ánh lửa mập mờ, cảnh tượng mở ra trước mắt họ là mặt đất nứt toác và rìu rựa ngổn ngang. Mấy mươi ngọn đuốc lướt dọc lia ngang cũng không thấy các chàng trai. Sự vắng mặt của xác người nhóm lên cho đám đông tia hy vọng. Bất chợt có ai đó kêu lên, ngọn đuốc trên tay người này chĩa thẳng vào một khe nứt trên mặt đất. Mọi người xúm lại và thấy rõ trên mép khe nứt có bốn vết hằn sâu. Rõ ràng là dấu tay người bám víu tuyệt vọng trước khi bị những khối rễ ác quỷ kéo sâu vào lòng đất.
Một câu hỏi có thể được đặt ra: Nếu thế giới ngầm của dị mộc ghê gớm đến vậy, vì sao nó lại đợi đến khi đã tổn hao vô vàn hình nhân bị thiêu rụi và hàng trăm chùm quả bị ăn nát mới chịu dùng đến thế giới ngầm ấy? Nếu rễ dị mộc xé đất vung lên ngay từ đầu hẳn các tráng sĩ đã lập tức hy sinh mà không kịp gây cho nó một tổn thất nhỏ nào. Nguyên nhân nằm ở mặt đất vùng này.
Năm xưa khi Viêm Đế Thần Nông[3] ban phát những sợi nắng lóng lánh đầu tiên trên giang sơn Xích Quỷ, ngài đã ban lời chúc cho đất này nhu thuận dưới lưỡi cày người lương dân nhưng cương kháng trước bước chân quân bạo tặc. Đất mẹ tuân thủ lời Viêm Đế đã ra sức kìm giữ bộ rễ chết người của dị mộc để bảo vệ con dân Xích Quỷ. Nào ngờ yêu nghiệt kia quá dũng mãnh nên chung cuộc mặt đất chỉ có thể trì hoãn chứ không ngăn chặn được thảm kịch xảy ra.
Càng rọi đuốc tìm kiếm, người ta càng liên tục tìm ra những dấu tay hằn bên các khe nứt khác. Ở đây một dấu, ở kia một dấu, lúc thì tập trung, khi lại tản mác. Có người lỡ miệng lầm bầm:
“Lẽ nào họ...chết mất xác?”
Ngay tức khắc có tiếng thân người ngã phịch ngất lịm trên mặt đất, rồi những lời khóc thương vang lên nỉ non như oán thư than trong đêm khuya u tịch. Từ đó miếu Thành Hoàng có thêm một linh đường trang trọng, nơi ghi tạc trang sử thi bi tráng của năm mươi tráng sĩ trẻ đã anh dũng hy sinh.
HẾT CHƯƠNG 1
[1] Một mẫu tương đương một héc-ta đất
[2] Một khắc = 15 phút.
[3] Vị thần Mặt trời trong truyền thuyết, được xem là thần bảo hộ cho nhà nông.