Xem bài viết đơn
  #11  
Old 16-04-2008, 04:36 AM
kiet1991's Avatar
kiet1991 kiet1991 is offline
Sơ Cấp Học Đồ
Huyết Hoả Kỳ Lân
 
Tham gia: Mar 2008
Đến từ: UNDERWORLD
Bài gởi: 1,398
Thời gian online: 14052
Xu: 0
Thanks: 9
Thanked 88 Times in 61 Posts
Chương 6

Kiếm Hiệp

Nam thiên nhất tuyệt kiếm


Chương 6
Trời Mộc Châu, Uyển Thanh tháng ngày hiu hắt nhớ
Đất Đại Việt anh hùng vận nước xót xa đau.


Kể từ ngày Nguyên Huân ra đi, mùa đông đến nữa vừa tròn hai năm. Suốt hai năm Uyển Thanh sống trong những ngày mòn mỏi nhớ thương. Căn nhà thêm quạnh quẽ. Cha nàng, từ ngày vắng Nguyên Huân, ông âm thầm hơn, ít khi ra khỏi phòng, ông cũng không còn những tiếng ho nặng nề mỗi sớm mai thức dậy, gương mặt ông đã bớt xanh xao, tuy nhiên vẫn giữ những thói quen cũ. Thỉnh thoảng có những người khách lạ từ xa đến, họ đối với ông rất cung kính, và một lần, người khách họ Trần đến thăm, lần ấy nàng cùng Dư Tứ xuống thị trấn mua bán những thứ cần thiết.
Ngoài việc ngày hai buổi bếp núc, khâu vá và săn sóc cha già, Uyển Thanh chú tâm luyện tập võ công. Thiểm Điện Kiếm đã thuần thục và khinh công ảo Hình thân pháp đã tiến rất nhiều so với ngày Nguyên Huân ra đi. Hỏa hầu của nàng cũng tăng tiến với Hỏa Ván công. Nàng còn quá nhiều thì giờ để nhớ nhung, se sắt.
Vì không muốn để lòng trĩu nặng những u buồn, nàng đã cùng Dư Tứ phá một mảnh rừng thưa để trồng trọt, nào bắp, nào khoai, nào rau cỏ, hoa trái. Nàng dồn hết thì giờ vào công việc để cố quên đi nổi nhớ nhung và lo lắng. ôi, ở phương trời xa thắm kia, những hiểm nguy và gian khổ đang chờ đợi chàng, đã hai năm qua rồi mà không có tin chàng. Tiêu lão bá cũng biệt vô âm tín, nàng ngày đêm lo lắng. Những buổi chiều mùa đông âm u, lạnh lẽo và giá buốt, nỗi buồn mỗi lúc càng nặng nề thêm trong lòng nàng, những buổi mưa phùn gió rét, cả khung trời, cả ngọn Liên Sơn co ro trong nổi buồn bã thê lương. Những kỷ niệm ngày xưa đốt cháy lòng Uyển Thanh. Nàng đã yêu chàng khi nàng vừa mười sáu, tình yêu thanh khiết, như nắng hồng dịu ngọt trên đọt cây những sáng xuân sang, trái tim nàng thơ dại, tình yêu thơm như cỏ hoa, như tiếng chim hót mỗi buổi sáng trong ngày xuân mới.
Uyển Thanh chống cuốc, nhìn luống khoai mì đang quắt đi vì khí lạnh, nàng đã vun gốc cho ấm thêm thân cây nhỏ bé. Cái lạnh của ngày chớm đông se sắt hơn những ngày Nguyên Huân còn bên nàng, ánh nắng chiều nhuộm vàng trên nương sắn và chim trời vội vã về Nam, từng đàn sát cánh, biết ngày nào chàng mới như chim kia quay về Nam, quay về với nàng bên bếp lửa chiều đông giá. Nàng lẻ loi một mình với người cha già im lìm, bệnh hoạn. Dư Tứ vốn ít nói, càng ít nói hơn nàng. Chỉ còn lại duy nhất nỗi thương nhớ héo hon. Dư Tứ đi về phía nàng đứng, không biết trong con người kia, có bao giờ buồn bã như nàng. Uyển Thanh hỏi :
- Dư thúc ơi, sáng nay Dư thúc đi săn có được gì không?
- Có đấy ?
- Con gì vậy?
- Một con nai !
- Sao mãi đến giờ điệt nhi hỏi Dư thúc mới nói, bây giờ để đâu rồi?
- Muối rồi, có để lại hai cân đấy!
- Chiều nay điệt nhi xào lăn cho gia gia và Dư thúc uống rượu nhé?
- Cũng được!
- Dư thúc này, gạo muối hết rồi !
- Biết rồi, mai đi bán da, mua luôn!
- Có nhiều không, lần này mua chiếc khăn quàng lông cho Dư thúc và gia gia nhé?
- Ừ mua cho gia gia ngươi thôi!
- Sao Dư thúc không mua?
- Cái khăn tiểu thư mua cho năm xưa vẫn còn đấy!
Ơ hay, điệt nhi mách gia gia bây giờ, sao Dư thúc cứ gọi điệt nhi như người xa lạ thế!
- Ta quên!
Dư thúc không thương điệt nhi sao?
- Sao không thương, thương nhiều lắm đấy!
Sáng sớm hôm sau, hai người xuống thị trấn. Uyển Thanh mặc bộ quần áo theo kiểu người Thái, làm nổi bật tấm thân đầy đặn, cân đối, căng tràn nhựa sống của nàng. Hai má nàng ửng hồng vì cái lạnh đầu đông, càng làm tăng vẻ đẹp của đôi mắt thăm thẳm như đáy hồ Vân Mộng.
Dư Tứ nói :
- Ngươi thay đồ khác đi, mặc đồ người phương Bắc ấy!
- Mặc đồ ấy làm chi, hài nhi có phải là người phương Bắc đâu!
- Thì vậy, nhưng để cho bớt rắc rối mà ?
- Sao lại rắc rối?
- Dưới trấn, bọn quan quân nhà Minh đi lại chọc ghẹo phá phách, thấy người cùng chủng tộc, chúng bớt gây chuyện!
- Gây chuyện gì thế ?
Sao ngươi dệt thế, bọn nó thấy gái đẹp thì chọc ghẹo làm hỗn chứ sao!
- Chúng dám chọc ghẹo hài nhi à?
- Sao chúng lại chả dám, là bọn ăn cướp mà chuyện chi chúng chả làm!
- Nhưng chúng đụng đến hài nhi làm sao được!
- Đành vậy, nhưng ngươi ăn mặc thế này, chiếc váy hẹp ấy, dụng võ làm sao được!
Uyển Thanh mĩm cười, thì ra Dư thúc không phải là không sâu sắc nàng nói :
- Nhưng hài nhi nhất định không mặc y phục của cái bọn cướp nước ấy đâu!
- Vậy ngươi may y phục ấy làm chi?
Trước đây, hài nhi may vội y phục cho Nguyên Huân cải trang khi vào Trung nguyên!
- Nhưng ta thấy có lần mi mặc, may cho Nguyên Huân sao lại là nữ phục thế?
- Hài nhi ... hài nhi may lầm!
- Vậy chứ không phải ngươi định xin phép gia gia ngươi cùng đi với y đó sao?!
Thấy Uyển Thanh im lặng, Dư Tứ nói :
- Thôi, mặc bộ đồ võ phục màu chàm như mấy lần trước ấy cho tiện!
- Nhưng lần này hài nhi không giả trai nữa đâu !
- Kệ ngươi, muốn sao cũng được!
Hai người vào thị trấn, quả như lời Dư Tứ nói, lần này bọn quân binh nhà Minh đi lại nghênh ngang có phần đông hơn những lần trước. Sau khi Dư Tứ bán xong hơn chục bộ da thú cho một tiệm quen và mua xong những đồ dùng cần thiết, vào một quán cơm định ăn uống qua loa rồi trở về, thì bất thần một bọn lính hơn chục tên ồn ào vào quán, chúng gọi đồ nhắm uống rượu, đua nhau chửi bới, văng tục một cách hống hách ngang ngược:
- Tiểu nhị, ta bảo ngươi. mang thêm rượu thịt, sao ngươi vẫn chưa mang tới? Muốn chết cả lũ hả?
Thường bọn này vào quán ăn uống rồi không bao giờ trả tiền, chủ quán biết là sẽ mất không, tiếc của, nên chỉ mang ra một ít gọi là. Mặt tửu bảo xám xanh, chủ quán đỡ lời:
- Thưa các quan, hôm nay các quan đến trễ, rượu thịt chỉ còn có bấy nhiêu!
Một tên trong bọn sừng sộ:
- Vậy thứ chi ngươi để trong quầy kia?
- Bẩm, những món này đã có người mua rồi!
- Mặc mẹ cái người mua rồi của ngươi , khôn hồn mang hết ra đây cho chúng ông!
Chúng vừa ăn uống nhồm nhoàm, vừa đập bàn la lối inh ỏi có đứa dùng vũ khí gõ ầm ầm, trố mắt gườm gườm nhìn mọi người, thực khách dần lui ra hết. Uyển Thanh tức giận, cố nuốt vội chén cơm, vội vàng kêu tính tiền rồi cùng Dư Tứ đi ra. Một tên lính nhác nhìn thấy, hắn rời bàn, đứng chặn ngang ở cửa :
- Ôi con nhỏ này xinh đẹp quá, lại đây vui với bọn ta, chóng ngoan ta thưởng cho!
Vừa nói, y vừa chụp vào tay Uyển Thanh, tay kia định vòng ôm lấy người nàng. Uyển Thanh lùi lại tránh vòng tay của tên này, tay phải xoay một vòng tránh cái chụp của gã, nàng tát mạnh vào hộ mặt đỏ gay, hai chiếc răng bật ra khỏi miệng, miệng đầy máu, đồng thời tay trái nàng dùng cầm nã thủ, chụp tay phải của gã vặn mạnh. Không chịu nổi, gã uốn cong người, đùng hữu chưởng, nàng vỗ mạnh vào hậu tâm, gã ngã sấp xuống mặt đất. Bằng ấy thủ pháp diễn ra trong chớp mắt. Khi tên lính.đập mặt xuống đất, miệng trào má u tươi nằm bất động, thì bọn lính . còn lại mới kịp định thần, chúng ào tới vây quanh Uyển Thanh, vung vũ khí chém xuống.
Cơn giận của Uyển Thanh chợt bùng lên, nàng phóng cước đá tạt vào ngực tên lính gần nhất, thân thể y tung lên cao, tay phải dùng cương đao chặt vào cườm tay của tên khác đoạt thanh kiếm, Uyển Thanh xử luôn sáu thế trong Thiểm Điện Kiếm, ánh kiếm như chớp giật, giết chết tên lính đứng phía trái, đường kiếm đảo lại, phạt phăng cánh tay tên bên phải, đồng lúc phóng cước đá văng tên phía sau vừa tràn tới. Thế kiếm Bạch Hồng Quán Nhật chém tạt ngang, ba tên bị trúng đòn, ngã úp xuống đất. Ba tên còn lại trợn mắt kinh hoàng toan phóng ra cửa nhưng vẫn không tránh khỏi nộ kiếm của Uyển Thanh, trong phút chốc cả ba cùng chung số phận.
Mọi việc xảy ra nhanh đến nổi chủ quán chưa kịp rời quầy hàng bỏ chạy. Dư Tứ thán nhiên đứng chờ ngoài đường. Uyển Thanh cùng ông bước vội vào một ngõ hẻm, nhắm hướng Tây Bắc mà đi, một giờ sau đã đến cửa rừng, còn nghe tiếng còi của bọn quan binh vọng lên từ thị trấn..
Dư Tứ nói:
- Chuyện này không yên đâu, dân Trấn Yên chắc chắn không tránh khỏi tai vạ. Ngươi nên nhịn đi mới phải!
- Thúc thúc, hài nhi nín nhịn thế nào được!
- Nhưng nên vì mọi người mà dằn xuống, chỉ khổ cho
người dân Yên Trấn thôi !
- Con tự nghĩ hãy vì mọi người mà diệt bớt bọn cướp nước!
Dư Tứ không nói gì nữa, cúi đầu rảo bước. Một lúc lâu Uyển Thanh hỏi :
- Dư thúc thúc, thúc thúc giận hài nhi đó chăng?
Dư Tứ thở dài nói :
- Ta giận con thế nào được. Có điều, làm việc gì cũng phải nghĩ đến hậu quả của nó, dân Yên Trấn sẽ chẳng yên được với bọn cường bạo ấy!
- Thúc phụ, chả lẽ chỉ vì thế mà cúi đầu khuất phục bọn xâm lược?
- Đã đành không phải thế, nhưng một mình con làm sao làm nên nghiệp lớn bằng những việc làm lẻ loi như vậy?
- Vậy Thúc phụ nghĩ sao?
- Việc đứng lên quật ngã quân thù phải đồng nhất, đồng loạt mới hy vọng thành công, bằng không chỉ làm khổ dân chúng mà thôi, mà chẳng đạt được ích lợi gì ?
Trên suốt đường về Uyển Thanh nghĩ đến lời nói của Dư Tứ, lời nói vang vang trong tâm trí nàng. Đến nhà, trời đã chiều, Uyển Thanh vào viếng thăm cha . Đoàn lão đang ngồi. đọc sách. Mái tóc ông bạc trắng, gương mặt xanh xao, mang một vẽ bình thản cam chịu.
Từ ngày lớn khôn Uyển Thanh hiểu được rằng, cha nàng tuy bề ngoài bình thản, nhưng tự trong lòng ông chất chứa một nỗi đau đớn khôn nguôi. Dù ông chẳng hé răng kể một lời về mẹ nàng, nhưng nàng biết ông yêu thương bà vô hạn. Uyển Thanh lớn lên, không được lưu một chút nào hình ảnh về người mẹ, những lúc buồn phiền, nàng ước mong có mẹ để được thổ lộ, để được cảm thông. Nàng biết cha yêu thương nàng, nhưng tình cha con dẫu đằm thắm, dẫu dịu dàng vẫn còn có điều gì xa cách, ông không thể thay thế một người mẹ trong tâm hồn nàng. Nàng làm sao ngỏ cùng cha những biến chuyển tâm tư của một đời thiếu nữ. Hàng đêm, nàng thao thức thương nhớ mẹ, dẫu rằng nàng chỉ có cái cảm giác thật là quá mơ hồ về một người mẹ, một người mẹ nàng không biết mặt, nàng chẳng còn nhớ được một kỷ niệm nào của những ngày thơ ấu, tất cả ký ức thuở ấu thơ như một đám mây mù . .
Nàng đặt gói trà quí và những chiếc bánh ngọt làm bằng đậu xanh mà cha nàng vẫn thích, lên bàn. Đoàn Chính Tâm ngước nhìn con gái :
- Có gì lạ không con?
Nàng ngần ngừ muốn kể lại mọi chuyện xảy ra trong chiều, nhưng chỉ sợ làm cho ông buồn phiền, nàng nói :
- Thưa cha, chẳng có gì, cha đã dùng cơm chưa?
- Có cha đã ăn chút ít rồi! Uyển Thanh, hình như con có điều gì không vui?
Uyển Thanh lại ngần ngừ, cuối cùng nàng đáp:
- Bọn quân lính nhà Minh ngang ngược quá lắm!
Đoàn lão thở dài :
- Con ạ ! Dân tộc nào trong cảnh nước mất nhà tan, trong xiềng xích nô lệ mà sung sướng được đâu con!
Uyển Thanh nói :
- Nếu con là trai, chắc chắn con chẳng thể ngồi yên trong những nhục nhằn ấy được!
- Điều mơ ước ấy có ích gì đâu con?!
Uyển Thanh im lặng nghe tiếng thở dài đau đớn của cha già, nàng lặng lẽ bước ra, sửa soạn buổi cơm chiều.
Tảng sáng ngày hôm sau, có hai người khách ghé thăm Đoàn Chính Tâm. Một người nho nhả, tuổi chừng ba bảy, ba tám, trán rộng, mắt sáng, mũi lớn, tai có thùy châu, bận chiếc áo bông ngắn đã cũ. Người kia, trái lại, khuôn mặt chữ điền, đôi mắt sáng quắt dưới đôi lông mày nét mác, thân hình cao lớn, chắc nịch, tuy trong bộ quần áo nông dân, vẫn không dấu được nét hiên ngang. Cả hai, mái tóc đã có sợi bạc, gương mặt sạm đi vì nắng gió, hằn rõ nét phong trần. Đoàn Chính Tâm ra tận thềm đón khách. Hai người khách cúi chào cung kính:
- Xin kính chào Đoàn tiên sinh, chúng tôi có công việc ngang qua đây ghé thăm sức khỏe của tiên sinhl
Đoàn lão vui vẻ nói :
- Lão phu rất vui mừng được nhị vị ghé thăm. Trần gia, xin cho lão được hỏi vị này...!
Người đàn ông cao lớn, tuổi trên bốn mươi đó chính là Trần Nguyên Hãn, cháu đích tôn của quan Tư đồ Băng Hồ Tướng công Trần Nguyên Đán năm xưa, cũng là cháu sáu đời của Thái sư Thượng Tướng quân Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải, người anh hùng thời chống Nguyên Mông ngày xưa. Nguyên Hãn nói :
- Xin lỗi Đoàn lão tiên sinh, tại hạ thật vô ý chưa kịp giới thiệu cùng tiên sinh. Đây là biểu đệ họ Nguyễn, hiệu Ức Trai húy là Trãi, mà tại hạ đã có lần nhắc đến. Quay sang phía người văn nhân, Trần Nguyên Hãn nói tiếp :
- Ta giới thiệu với biểu đệ, đây là Đoàn lão tiên sinh, vốn là một nhân vật khét tiếng trong võ lâm năm xưa, là anh em kết nghĩa của Thúc Tổ Trần Nguyên Lữ. Tiểu huynh đã có lần nhắc đến với biểu đệ đó!
Nguyễn Trãi đứng lên nghiêng mình thi lễ :
- Vãn bối thật may mắn mới được diện kiến lão trượng hôm nay, từ lâu đã nghe biểu huynh thường nhắc đến!
Đoàn Chính Tâm lật đật đứng dậy mừng rỡ:
- Thì ra đây là Nguyễn tiên sinh. Thật hân hạnh? Lão hủ đã bao nhiêu ngày mong đợi, lão hủ giờ đây chỉ là một người vô dụng tàn phế nơi xó núi, tiên sinh ghé thăm thật là điều làm cho lão thỏa lòng mong ước !
Đoàn lão đích thân rót trà mời khách quí, mùi trà thơm ngào ngạt :
- Mời nhị vị dùng trà!
Nguyễn Trãi nói:
- Xin lão trượng cho chúng tại hạ được tự nhiên. Lần trước có công việc ngang qua đây, không vào thăm lão trượng được lòng áy náy mãi. Lần này vãn sinh đến ra mắt để được cảm ơn.lão trượng về món quà quí mà lão trượng đã gởi cho khi trước.
- Việc ấy là bổn phận của lão phu mà thôi, thật ra trí nhớ còn khiếm khuyết lắm, vì bản văn ấy lão chỉ được đọc qua vài lần nên chép lại không được trọn vẹn!
- Đã mấy chục năm qua mà lão tiền bối còn nhớ được như vậy thật hiếm có lắm. Xin lão tiền bối thứ lỗi cho về sự tò mò này: Vạn Kiếp Bí Truyền có ba phần, hai phần còn lại nội dung chứa đựng những điều cao diệu gì tiền bối có thể cho biết được chăng?
- Phần thứ hai là Thiên y dược, phần thứ ba là phần Bí kiếp võ công, phần này uyên bác và ảo diệu lắm, lão phu dẫu là có đọc qua nhưng không thể nhớ nỗi!
Nguyễn Trãi thở dài nói:
- Biết bao nhiêu tinh hoa Đại Việt bị mất về tay giặc, nghĩ càng căm gan uất hận!
Đoàn Chính Tâm nói với Nguyễn Trãi:
- Tiên sinh, lần trước Trần gia ghé thăm có đọc cho lão phu nghe bài thơ " Qui Côn Sơn Chu Trung Tác" của tiên sinh, lão phu thích lắm, muốn dịch ra thơ nôm, hiềm vì chữ nghĩa kém cỏi, dốt nát, lại võ biền thô thiển, loay hoay suốt hai năm nay vẫn không dịch cho đủ dược cái tâm ý của tiên sinh. Nói xong Đoàn lão cất tiếng ngâm:
Mười năm trôi dạt thân bèo bọt,
Lòng nhớ nao nao tựa bóng cờ.
Hồn theo lối mộng tìm quê cũ
Huyết lệ mong đem rửa nấm mồ
Binh lửa đã rồi, tan tác mãi
Đất khách càng thêm da xót xa
Lòng đau ta biết làm sao được
Đến sáng thuyền trôi gối lệ nhòa.
Lão phu tạm dịch như trên, xin tiên sinh chớ cười. Tấm lòng tiên sinh đối với đất nước, quê hương cũng chẳng khác tấm lòng lão phu nhớ thương Tổ quốc mình đã mất tự trăm năm trước, nên làm thế nào có ngày trở về chỉ là mong ước mà thôi. Đến nay, sáu đời đã trôi qua, gởi thân tàn nơi đất Việt, chỉ còn biết lấy Tổ quốc này làm Tổ quốc của mình.
Trần Nguyên Hãn từ nảy giờ im lặng, bỗng cất tiếng:
- Đoàn đại hiệp, đại hiệp dịch hai câu cuối, vãn bối thích quá!
Lòng đau ta biết làm sao được
Đến sáng thuyền trôi gối lệ nhòa.
Tuy rằng không sát nghĩa lắm nhưng lột được tấm lòng đau đớn, trằn trọc, xót xa . Biểu đệ, ta nói vậy có đúng không?
Nguyễn Trãi mỉm cười buồn bã:
-"Lòng đau ta biết làm sao được". Lão tiền bối đã cảm thông được cái nỗi niềm của vãn sinh. Suốt mười năm dằn dặc, vãn sinh mang tấm thân phiêu dạt bốn phương, những mong thực hiện được lời di huấn của gia phụ ngày nào. Đến nay vẫn chưa tìm được minh chúa để tỏ chí bình sinh.. Ôi, lòng đau ta biết làm sao được..!
- Nguyễn tiên sinh, xin thứ lỗi cho lão phu được hỏi : các
cuộc khởi nghĩa của nghĩa sĩ bốn phương rầm rộ như thế,
theo chỗ lão phu được biết thì không thiếu gì hào kiệt, sao
- Tiên sinh lại thất vọng đến thế?
Nguyễn Trãi nhẹ thở dài :
- Tuy có đông đảo thật, nhưng không tính được kế lâu dài. Mỗi địa phương tự phát, không liên kết được với nhau, mỗi người mỗi nơi mỗi ý. Ý là chưa kể đến những tranh dành địa vị, quyền lợi như thời Hưng Khánh, Trùng Quang (Trần Ngỡi và Trần Quí Khoách), chỉ uổng hư danh, không thành công nghiệp, thất bại là do tranh dành quyền bính, như bọn Lê Ngã, chưa yên vị đã xưng vua, xưng chúa, ra vào hống hách, còn làm nên nghiệp lớn thế nào được!
Vãn bối đi lại suốt mười năm, trải khắp đó đây, tìm hiểu lòng người, biết cho tỏ hình thế núi sông để biết đường tiến thoái hòng thực hiện kế lâu dài. Vãn bối đã liên lạc nơi này, viếng thăm nơi khác, mong tìm được nơi gởi gắm tấm lòng trung. Cho mãi đến nay, vẫn còn vò võ.
Đoàn Chính Tâm nói:
- Tiên sinh có thể cho biết đến cuộc khởi nghĩa của người anh hùng áo vải đất Lam Sơn?
Nguyễn Trãi trầm ngâm, suy nghĩ một lúc rồi đáp:
- Chỉ riêng có vị này vãn sinh chưa nhắc tới, nhưng đó cũng là người vãn sinh đặt nhiều hy vọng nhất. Vị anh hùng ấy người làng Lam Sơn, huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, Thanh Hóa. Họ Lê, tên Lợi, sinh năm Giáp Tý. Năm Bính Thân, ông cùng mười tám người thân tín lập Hội Thề ở Lũng Nhai, cùng nhau gắn bó. ông đem hết gia tư điền sản tổ chức khởi nghĩa. Nhưng ở Lam Sơn có điều bất lợi: Thành Tây Đô kiên cố, một căn cứ quân sự rất mạnh của địch, đủ khống chế cả một vùng rộng lớn. Mà Tây Đô chỉ cách Lam Sơn có vài chục dặm, nên dễ bị đàn áp, lại nằm giữa màng lưới ngụy quyền đắc lực của giặc, vào năm Đinh Dậu đã bị những cuộc truy lùng gay gắt của địch. Lê Lợi không thể chờ đợi được nên ngày tám tháng giêng năm Mậu Tuất đã tuyên bố khởi nghĩa.
Lam Sơn địa thế trống trải, chỉ có vài ba ngọn đồi nhỏ như Đồi Đá , Núi Dầu không thể là căn cứ cố thủ được trước sức tấn công của giặc nên phải rút vào khu rừng núi. Ngày hôm sau, chín tháng giêng, Mã Kỳ đem bốn vạn năm ngàn quân đến đánh. Tuy chỉ có chưa dấn một ngàn người, nhưng nhờ đánh phục binh nên giết được ba ngàn quân địch. Từ đó đến nay đã hai năm trôi qua, đã phải hai lần rút về Chí Linh, nhưng vẫn không nản chí, cố gắng tổ chức lại hàng ngũ mặc dù sức cùng lực kiệt. Theo cái nhìn của vãn bối, người này quả là đáng mặt hào kiệt, nhưng tiếc thay ông ta vẫn chưa có được một sách lược, một đường lối để đưa đến thành quả lâu dài..
Đoàn Chính Tâm nói:
- Lão phu biết các hạ mang đầy bụng kinh luân, lược thao binh giáp, tài an bang tế thế hơn người. Lúc này đây các hạ không dụng đến còn đợi chừng nào?
- Vãn bối thật ra chỉ có một tấm lòng, tài an bang, định quốc quả không dám nhận, chỉ còn một nỗi ưa tư là, thuở xưa, nếu không có Từ Thứ tiến cử thì Lưu Huyền Đức làm sao biết được người mà tam cố Thảo lư. Ngọa Long cũng chỉ là người đọc sách ở Nam Dương đấy thôi. Hàn Tín được Trương Lương, Tiêu Hà tiến cử mà Hán Vương còn ngồi xổm trên giường khi tiếp kiến, huống chi vãn sinh chỉ là kẻ áo rách đất Chi Ngãi, tài học được bao lăm, kinh luân không lược mấy, bôn ba khắp chốn chỉ vì:
Niệm thế thù khởi khả cộng đái
Thệ nghịch tặc nan dữ câu sinh
( Quyết chẳng đội trời cùng kẻ địch
Thề không chung sống với quân thù)
Vãn sinh ý những muốn đến Lam Sơn từ trước, nhưng "Bình Ngô tam sách" chưa xong, biết lấy gì ra mắt!
Trần Nguyên Hãn trầm ngâm nói:
- Anh hùng đứng giữa trần ai, chẳng phải ai cũng có mắt xanh, hiền đệ lo cũng phải, nhưng tiếng tăm của hiền đệ không phải rằng đời không ai biết đến!
Nguyễn Trãi cười nói:
- Dăm bài thơ, vài câu phú nào có ra gì, bao nhiêu kẻ văn chương nhả ngọc phun châu, chỉ là một bọn cuồng nho rỗng tuếch, chỉ là cái hư danh!
Đoàn lão hỏi :
- Dám xin hỏi tiên sinh " Bình Ngô tam sách" là những sách gì?
- Dám thưa lão tiền bối, chúng ta cũng biết, đánh kẻ địch, tiêu diệt được quân thù thì phải có muôn ngàn cách; thuở nhà Trần chống Nguyên Mông năm xưa, thực lực quân sự có hơn được nhà Hồ ngày nọ là bao. Quân Thát Đát lại là quân vô địch, cương cường, bốn biển lừng lẫy uy danh, tám phương thủy triều run sợ. Nhưng ta đã ba lần thắng địch vì biết gom sức dân làm rễ, lấy lòng dân làm thân, lấy đoàn kết thương yêu làm cành làm lá, lấy ý chí kiên cường làm trái làm hoa. Nay kẻ địch trước mặt cũng tham tàn khôn xiết kể, mà bốn phương lại chia rẽ sức dân, người dân không biết đặt niềm tin kia vào đâu, bởi chẳng biết chốn nào là đúng, cái khó ấy không phải là không có cái dễ. Người làm tướng không chỉ biết cầm gươm chém giặc. Địch đông, ta ít, giặc mạnh, ta suy chém làm sao xiết. Ta phải biết đánh địch ở lòng dân, đánh địch ngay trong lòng địch, đánh địch bằng muôn ngàn lẽ duy có điều, nếu không làm được thì muôn phương ngàn kế cũng không thành. " Giơ gậy làm cờ cho dân cày bốn phương tập hợp" đấy là lẽ lớn nhất!
Sách lược là đường đi, ý dân là sức bước tới. Lo trước mọi việc phải lo là nên công, lo sau mọi việc phải lo là nên bại. Họ Hồ thoán đoạt ngôi vua nhà Trần, người cả nước coi tợ kẻ thù, dân chúng nếu không chống lại thì cũng thờ ơ; tay chân, thân thích phân ly nên chưa đánh đã tan là lẽ vậy. Nay vãn sinh cũng sắp viết xong Bình Ngô sách, ý muốn dâng lên, chỉ e còn nhiều thô thiển, đâu biết dạ người trên.
Đoàn lão thở dài nói :
- Lão phu là kẻ võ biền, đầu óc như bùn đất, được nghe tiên sinh luận bàn, mắt như sáng ra. Nếu mà năm xưa cố quốc có được người như tiên sinh thì đâu đến nỗi gần hai trăm năm nay trầm luân tan tác. Lão phu vẫn tin vào tiền đồ Đại Việt ngày mai hẳn sẽ tươi sáng!
Trần Nguyên Hãn nói:
- Sáng nay, chúng tại hạ đi ngang Trấn Yên, thấy dân chúng bị tàn sát, nhà tan, cửa nát. Hỏi ra mới biết, chúng tra khảo dân để truy lùng kẻ giữa ban ngày mà giết hơn mười tên lính chỉ trong chớp mắt, nghe nói thủ phạm chỉ là một thiếu nữ, giờ chúng đang truy lùng ráo riết. Bọn tại hạ phải vòng đường rừng mà đến đây!
Đoàn lão nghe nói, chợt nhớ ra điều gì, gọi lớn :
- Dư đệ, Dư đệ có đấy không?
Dư Tứ từ nhà ngang, nghe gọi, bước lên.
- Dư đệ ngồi đây ta có điều muốn hỏi, chiều qua có chuyện gì xảy ra dưới Trấn Yên vậy?
Dư Tứ lung túng, một lúc sau mới nói:
- Uyển Thanh đã giết hơn mười tên lính của chúng trong quán ăn đó, và Dư Tứ kể lại...
Đoàn Chính Tâm cau mày:
- Quái lạ ! Con nhỏ này ngày thường hiền lành ít nói, sao ra tay dữ dội như vậy. Chuyện này di họa không nhỏ, chúng chẳng bỏ qua, chỉ khốn khổ thêm cho lương dân!
Nguyễn Trãi nói:
- Trong đám lương dân, không phải không có những kẻ vì danh, vì lợi, mất hết lương tri, làm tai mắt cho địch, thế nào chúng cũng lần ra manh mối!
Trần Nguyên Hãn nói :
- Có tìm ra cũng còn lâu!
- Chưa chắc, Đại ca chớ coi thường chúng, nhất là từ năm Mậu Tuất đến nay, chúng đã kiện toàn tổ chức do thám, hòng khám phá để bóp chết bất cứ một dấu hiệu của một cuộc khởi nghĩa nào ngay trong trứng nước, không phải là sinh mạng của mười tên lính quèn, mà mối lo của chúng nằm trong tim, trong óc. Phải tính trước đi mới được.
Đoàn lão bình tỉnh nói :
- Việc đã lỡ xảy ra như thế. Dư đệ gọi Uyển Thanh lên ta bảo!
Một lát sau Uyển Thanh sợ hãi bước lên cúi đầu chào khách, lo sợ nhìn cha, Đoàn lão cau mày nói :
- Chuyện xảy ra dưới trấn, chiều qua ta có hỏi, sao không nói ngay?
Uyển Thanh bị cha rầy, cúi đầu đứng im, Đoàn lão tiếp
- Không thể ở lại chốn này được nữa, phải gấp rút sửa soạn hành trang, rời khỏi nơi đây, con bảo với Dư thúc mua ba con ngựa, một con lừa để thồ đồ đạc. Cái gì cần thiết mới mang theo, cái gì không đem đi được thì mang vào rừng kiếm chỗ mà chôn dấu. Phải bình tĩnh mà làm, vũ khí không được rời thân. Ý ta là vậy, liệu đấy mà sắp xếp cho nhanh gọn!
Uyển Thanh vâng dạ bước ra, Đoàn lão gọi giật lại :
- Nhà có gì đãi khách không con?
- Dạ có đấy, sáng nay Dư thúc bẩy được một con thỏ lớn, một con mang, một con gà gô nữa !
- Tốt lắm, sửa cho ta mâm rượu nhạt, để ta cùng nhị vị đây nâng chén giả từ. Chỗ rượu ta chôn cứ để nguyên lại đó, chỉ đào lên cho ta vò Hoàng Cúc thôi, vò ta chôn lâu nhất đấy dễ đã trên hai năm!
Uyển Thanh đi khỏi, Trần Nguyên Hãn hỏi:
- Lão tiền bối định về đâu?
- Việc này lão phu đã sắp đặt trước cả rồi, chẳng có gì đáng lo ngại!
- Bệnh tình của lão tiền bối lúc này ra sao?
- Đã khá hơn trước, chân khí, nội lực đã tụ được vài ba thành, nhưng khí âm hàn không thể nào khu trục được!
- Ít lâu nay lão trượng có được tin gì của tệ thúc chăng?
- Hai năm nay chưa có tin về, nhưng chẳng đáng ngại vì đã có Tiêu Đại Hùng cùng đi!
- Tiêu Đại Hùng là ai vậy?
- Lão Tiêu là một cao thủ của. Đại Lý. Võ công, kiếm pháp rất ảo diệu, là bạn già của lão phu. à, có điều này lão phu cứ thắc mắc mãi. Nguyên Huân là hậu duệ đời thứ năm của Thái úy Thượng phụ Thượng Quốc công Bình Bắc Đại Nguyên soái Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn nên Tam ca của lão phu mới được lưu giữ bí truyền của Tổ tiên. Lão đệ là dòng dõi của Thái sư Thượng tướng quân Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải, tuy gốc là một, nhưng nhánh đã xa, mà Tam ca của lão phu, với Lệnh Tổ phụ như ruột thịt. Điều này thế nào?
Trần Nguyên Hãn mĩm cười nói :
- Cứ theo Trần triều Thế phổ thì Hưng Đạo Đại Vương có ba con trai và một gái : Hưng Võ Vương Hiến, Hưng Nhượng Vương Tảng, Hưng Trí Vương Hiện và gái là Khâm Từ, Hoàng Hậu của Nhân Tông. Thúc tổ Nguyên Lữ là cháu đích tôn ba đời của Hưng Nhượng Vương Tảng, từ nhỏ vốn hay đau yếu nên Thái Tổ phụ Cung Tĩnh Vương của tại hạ mang về nuôi dạy coi như con đẻ, tên cũ là Trần Quốc Lữ sau mới đổi thành Trần Nguyên Lữ, và là người thừa kế duy nhất của
Đại Vương Hưng Đạo. So trong huyết tộc thì vốn dĩ là anh, nhưng ngày ấy về làm con của Thái Tổ phụ, tuổi còn nhỏ, mà tổ phụ của tại hạ tuy là con út mà tuổi lớn hơn nhiều, nên quen đi mà gọi vậy, do đó Nguyên Huân chính là tiểu gia thúc cơ đấy. Gia phụ là con lớn nhất, Thân mẫu của biểu đệ đây là con thứ ba , Nhị thúc là Trần Nguyên Thôi . Tứ thúc phụ là Trần Nguyên Khoáng, năm Mậu Tý, cùng với Nguyễn Đa Bí nổi dậy ở Thái Nguyên, Bắc Cạn, Vĩnh Phúc Yên, nhưng việc không thành. Nay đã mất cả!
Đoàn lão cười nói :
- Thì ra là vậy. Khi xưa lấy chỗ thân tình ta có hỏi Tam ca về việc này, Tam ca ta chỉ cười lắc đầu, nói không hiểu tại sao!
- Tại hạ có nghe nhắc đến danh tiếng của Bát Đại danh gia, là những ai vậy?
Đoàn lão nói :
- Bọn tại hạ có tám nhân vật kết làm anh em, võ lâm Đại Việt và Trung Nguyên vì yêu mến nên lạm xưng tụng như vậy thật ra chỉ là Bát Hữu là phải nhất..
Người đứng đầu trong Bát Hữu là:
- Hoạt Phật Đại Sư, xuất gia từ nhỏ,
- Thiên Hư Đạo Trưởng, cả hai là người Trung-nguyên.
- Nam Thiên Đệ nhất kiếm Trần Nguyên Lữ.
- Điền Hoành Thứ Lang và Phong Hạ Mặc Chi. Tứ ca và Ngũ ca đều là người Phù Tang.
- Thứ sáu là lão hủ vô dụng này,
- Người thứ bảy, quê ở Hải Dương, vốn dòng dõi Mạc Đình Chi tên là Mạc Thiên Bằng, và bát đệ là Phạm Chính Sơn. Thất và bát đệ cùng bị thảm tử với Tam ca khi xưa.
Vừa nói đến đây bỗng có tiếng cười kha khả, nội lực âm thanh vang dội núi rừng. Đoàn Chính Tâm mừng rỡ đứng lên, đi vội ra thềm. Tiếng cười thoắt một cái đã đến gần, rồi ngừng bặt. Trần Nguyên Hãn ngạc nhiên liếc nhìn Nguyễn Trãi định nói điều gì, nhưng thấy nét mặt bình thản của Nguyễn Trãi nên cũng không hỏi nữa.
Tài sản của kiet1991