Xem bài viết đơn
  #13  
Old 16-04-2008, 04:39 AM
kiet1991's Avatar
kiet1991 kiet1991 is offline
Sơ Cấp Học Đồ
Huyết Hoả Kỳ Lân
 
Tham gia: Mar 2008
Đến từ: UNDERWORLD
Bài gởi: 1,398
Thời gian online: 14052
Xu: 0
Thanks: 9
Thanked 88 Times in 61 Posts
chương 7 tiếp

Kiếm Hiệp

Nam thiên nhất tuyệt kiếm


Chương 7
Xuôi Trường Giang, Phạm Hữu Xứ thổ lộ chân tình
Nhập Cấm Thành, Trần Nguyện Huân truy tầm bí kiếp.


Suốt ba tháng trời ròng rã, một hôm thuyền đến Ứng Thiên Phủ ( Kim Lăng). ứng Thiên Phủ là kinh đô cũ của nhà Minh, kể từ khi Chu Nguyên Chương cùng Quách Trí Hưng khởi binh ở Hào Châu, đem quân vượt Trường Giang chiếm cứ Tập Khánh, từ đó thu được thiên hạ, nên khi lên ngôi Hoàng Đế, đã chọn Tập Khánh làm kinh đô gọi là Kim Lăng, còn gọi là ứng Thiên Phủ, do đó, thành quách, đền đài cung điện vô cùng nguy nga lộng lẫy, nhà cửa san sát, dân cư đông đúc, việc buôn bán rất tấp nập, phồn thịnh.
Ngày ấy, tuy nhà Nguyên đã bại vong, Nguyên Thuận đế Hậu phi và Thái Tử đã phải vượt Trường Thành bôn tẩu, nhưng lực lượng của Mông Cổ không phải đã hoàn toàn tan rã, thường liên tục nổi lên quấy nhiễu, hòng mưu đồ lấy lại nghiệp đế. Bởi vậy, Minh Thành Tổ, do lo họa Mông Cổ, nên đã dời đô, lấy đất Khai Phong làm kinh đô mới, gọi là BẮC KINH để đề phòng con cháu của Nguyên Thuận Đế và Khoách Quách Thiết Mộc Nhỉ. Việc dời đô này làm cho Trần Nguyên Huân vô cùng phân vân.
Thường lệ, việc dời đô mang tính chất quân sự, chỉ có nghĩa là dời toàn bộ đầu não của Vương triều đến một nơi mới, hòng sẵn sàng đương đầu kịp thời với những biến loạn, do đó, cố đô vẫn được giữ nguyên và trở thành một kinh đô thứ hai. Việc dời đô này hoàn toàn khác với việc Đóng Trác thời Tam Quốc, ép Hiến Đế bỏ Lạc Dương về Trường An năm xưa . Bới vậy, Nguyên Huân vẫn còn một chút hy vọng, những văn hóa phẩm tịch thu từ Đại Việt vẫn còn được tàng trữ ở Thư Khố trong Hành Cung Kim Lăng. Điều hy vọng ấy thực ra rất mỏng manh, vì VẠN KIẾP BÍ TRUYỀN không phải chỉ là một tác phẩm văn hóa, mà còn là một bí kíp võ công, biết đâu nó chẳng nằm trong tay một kẻ khác. Việc tìm kiếm hết sức khó khăn, vô cùng diệu vợi.
Nguyên Huân buồn bã ngày đêm, nhưng không phải vì vậy mà tiêu tan ý chí. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu: Muốn truy tìm được bí láp, phải tìm cho ra kẻ tử thù, mà kẻ tử thù này, Nguyên Huân đã mơ hồ đoán ra.
Trong suốt gần ba năm ở Võ Đang, Nguyên Huân thường lợi dụng những lúc cùng anh em của Vân Hạc đàm đạo mà để tâm đò la manh mối. Cứ theo lời của Đoàn Lục thúc, võ công của thân phụ chàng chẳng phải tầm thường, số người trong toàn cõi võ lâm Trung Việt đả bại được ông thật hiếm; vậy mà, ông cùng Lục đệ của ông đã phải chiến đấu hết sức vất vả với một kẻ thù chỉ có hai bàn tay không, đã đủ sức đánh bại hai địch thủ của mình. Người có công lực ấy, trong thiên hạ chỉ có một. Và chàng thường được nghe về võ công của Quang Minh Vương Dương Tiêu, hiện giờ đang là cố vấn của Minh Thành Tổ, cực kỳ cao siêu ảo diệu, không biết thế nào mà lường; người mà một thời danh trấn võ lâm, và cũng là thân phụ của Hân phu nhân, tức Ngoại tổ của anh em Vân Hạc, Bảo Thư, và là Quang Minh Tả Sứ của Hỏa Giáo. Hỏa Giáo còn được gọi là Yêu Giáo, là Quốc Giáo của Ba Tư do Tô Lỗ Chi sáng lập, đã đem đến cho đời một cuộc chiến đấu giữa Thiện Thần và ức Thần. Quang Minh đại biểu Thiện Thần, Hắc Ám đại biểu Ác Thần. Do đó, thờ lửa và mặt trời .
Hỏa Giáo truyền vào Trung Nguyên dưới thời Nam Bắc triều Hỏa Giáo được các Vua chúa Bắc triều như Thái Võ Đế, Đạo Võ Đế nhà Ngụy, Văn Tuyên Đế, và nhất là Đế Vĩ nhà Bắc Tề và Tĩnh Đế nhà Bắc Chu tin theo. Đến đời Đường, Ba Tư bị nước Đại Thục xâm chiếm, tín đồ Hỏa giáo bị ngược đãi nên phải trốn sang Trung Thổ.
Ma Ni giáo cũng do từ Hỏa giáo mà ra, do người Ba Tỉ Luân là Ma Ni sáng lập, và người Ba Tư cũng tin sùng. Đến năm Giáp Tuất đời Võ Hậu Võ Tắc Thiên, người Ba Tư là Phật Đa Đàn đem kinh điển vào chầu Võ Hậu và được Võ Hậu sùng tín. Nhưng đến năm Nhâm Tý đời Đường Huyền Tôn, giáo phái này bị cấm, sang đến đời Đường Túc Tôn lại được thịnh. Sự suy thịnh của Ma Ni Giáo có từng giai đoạn thăng trầm, đến đời Nam Tống, Ma Ni Giáo lại hoạt động, tự xưng là Minh Giáo. Tín đồ không ăn thịt, sùng nhượng, tiết kiệm, giúp đỡ lẫn nhau, từ đó trở nên giàu có. Đến cuối đời Nguyên, trở nên buông tuồng, giáo chúng làm nhiều điều xằng bậy, do đó, võ lâm Trung Nguyên đã có lần hợp sức lại tiêu diệt.
Chức Tả Sứ trong Minh Giáo là nhân vật thứ hai. Ngày ấy Dương Tiêu, tuổi còn trẻ mà đã là Tả Sứ , võ công đã lên đến hàng siêu tuyệt. Chu Nguyên Chương vốn là một giáo chúng của Minh Giáo, nhưng đội lết nhà sư của Phật giáo để nương bóng thiền môn mà kiếm ăn cho qua ngày đói khổ. Vì vậy khi gồm thâu thiên hạ, lên ngôi Hoàng Đế, trọng dụng những người trong Minh Giáo. Khi Trương giáo chủ VÔ Kỵ, vì chán nản lòng người gian trá, bỏ đi qui ẩn, Hữu Sứ Phạm Dao cũng tuyệt tích giang hồ, Tứ Đại Hộ Pháp Vương về bọn Ngũ Tảng Nhân bất phục Dương Tiêu nên tản mát hết. Dương Tiêu điều hành Minh Giáo, nên được Thành Tổ phong làm Pháp Vương hay còn gọi là Quang Minh Vương, do chữ Quang Minh đại biểu Thiện Thần mà ra . Khi nắm Minh Giáo trong tay, Dương Tiêu đã trở thành Ác Thần.
Đến năm Hồng Võ thứ mười ba, đời Minh Thái Tổ, Tể Tướng Trung Thư Tỉnh là Hồ truy Dung làm phản, Thái Tổ bãi chức Tể Tướng và dặn con cháu không được đặt ra chức này nữa, do đó, quyền hành nằm trọn trong tay nhà vua, dùng Pháp Vương làm cố vấn. Bởi thế Dương Tiêu ở vào một địa vị cực cao, quyền hành thực lớn, điều hành Minh Giáo làm nhiều điều tàn ác, xằng bậy. Minh Thành Tổ cai trị trăm họ rất nghiêm bạo, gây cuộc chiến tranh làm nhân dân đồ thán cũng do Quang Minh Dương Vương ( gọi tắt là Dương Minh Vương) mà ra cả.
Trên đường đi, Nguyên Huân đã gặp lại Kiến Nghiệp Đại sư nguyên là Quang Minh Hữu Sứ Phạm Dao của Minh Giáo thuở trước. Chàng đã làn quen được cùng nhân vật tiếng tăm này, và Phạm Dao quý mến chàng, rủ chàng xuôi thuyền theo Trường Giang mà về Kim Lăng. Suốt thời gian trên thuyền, Nguyên Huân đã được ông tin cẩn, thổ lộ rất nhiều mật sự của giang hồ, ông nói:
- Chủ đích của Minh Giáo, lấy cái thiện mà trừ cái ác, lấy cái sáng mà thay cái tối. Thế mà từ cái ngày Dương Phá Thiên Giáo chủ tuyệt tích, Dương Tiêu điều hành Minh Giáo, để đến nội bộ chia rẽ, dung túng bọn giáo chúng, khiến cho võ lâm có thời đã gọi là Ma giáo, gây nên vụ thảm sát Quang Minh đỉnh năm xưa. Những tưởng Trương Vô Kỵ Giáo chủ đã phục hồi được Minh Giáo, lấy lại uy tín giang hồ, dựa theo tôn chỉ của Đức Tổ sư mà hành đạo. Ai ngờ, lần thứ hai, Dương Tiêu lại một lần nữa làm sa đọa Minh Giáo. Việc tuyệt diệt Dương Tiêu không phải là dễ, nhưng cũng có thể làm được. Nhưng giết Dương Tiêu một cách âm thầm phỏng có ích chi. Hạ sát Dương Tiêu phải đi cùng với việc chấn hưng Minh Giáo mới là điều tâm nguyện, bởi thế cho nên bao năm nay, ta ẩn thân, bôn tẩu giang hồ cũng vì lẽ ấy!
Nguyên Huân rụt rè hỏi:
- Đại sư nếu vãn bối không lầm thì Kình Dương đại hội có liên quan đến việc này?
Kiến Nghiệp Đại sư trầm ngâm, một lúc lâu mới ngần ngừ nói:
- Việc này, việc này chưa thể tiết lộ ra được!
- Xin Đại sư thứ lỗi vì sự tò mò của vãn bối!
- Thiếu thí chủ, thật ra, ta rất quý mến thí chủ, có nói ra cũng chẳng ngại gì!
Ông im lặng, dáng vẽ suy nghĩ, một lúc rất lâu, ông hỏi:
- Tiểu thí chủ, thí chủ có nghe dư luận võ lâm về Đại hội Kình Dương chăng?
- Vãn bối cũng được biết qua đôi chút, nhưng chẳng hiểu ra sao cả!
Kiến Nghiệp mĩm cười nói:
- Gần gũi thí chủ ít lâu nay, ta biết thí chủ là một người rất thông tuệ, chẳng nhẽ thí chủ không có chủ kiến gì sao?
Nguyên Huân thưa:
- Bạch Đại sư, cứ theo dư luận võ lâm suy đoán thì có nhiều giả thuyết: Có người cho rằng Kình Dương đại hội do người họ Dương ở núi Chung Nam, nhằm dương uy trên chốn giang hồ. Có người cho rằng tổ chức do Dương Tiêu lập nên, có liên quan tông tộc với họ Dương ở Chung Nam, nhằm mưa đồ điều gì đó!
- Điều này ta có nghe, nhưng theo thí chủ thì thế nào?
- Theo ngu ý của vãn bối, Kình Dương là một ngôi sao hung hãn, một hung tinh trong tử vi, do Từ Dương Nhận, mộ ttên cùng hung cực ác của giang hồ thuở trước. Kình Dương là điềm xấu, vậy cả hai cách suy luận trên đều sai. Theo thiển ý thì có phải chăng việc này có bàn tay của Minh Giáo? Đại sư hỏi đến, nên vãn bối mới dám lạm bàn!
- Không sao! Thí chủ thật là thông minh, sỡ dĩ sự hình thành Kình Dương Đại hội không lộ rõ chủ đích vì một lẽ đặc biệt. Nhưng Dương Tiêu là một nhân vật cực kỳ thông minh, thí chủ đoán ra được, thì Dương Tiêu cũng đoán ra được Ta đã biết không thể dấu y!
Nguyên Huân hỏi:
- Bạch Đại sư, thế còn các vụ thảm sát và việc xảy ra ở Võ Đang Sơn mà vãn bối đã trình bày cùng Đại sư, việc này thế nào?
Kiến Nghiệp cau đôi mày bạc, âm trầm nói:
- Chắc chắn thí chủ cũng đoán ra kẻ chủ mưa là ai rồi nên mới hỏi như thế. Việc tấn công Võ Đang càng làm cho ta thấy rõ điều ấy. Tất cả bọn cao thủ đều không động tới Vân Hạc và Bảo Thư, tránh né không giao đấu, và khuê phòng của Hân phu nhân không hề bị xâm phạm!
- Chẳng nhẽ là Dương Tiêu?
- Còn ai vào đó nữa!
- Nhưng y làm vậy với mục đích gì?
Kiến Nghiệp Đại sư cười, nói:
- Đó là phản ứng của y, nhằm đổ tất cả lên đầu của tổ chức Kình Dương những việc làm tàn bạo, khiến võ lâm tẩy chay Kình Dương Đại hội. Ấy là chưa kể võ lâm còn liên kết lại mà đối địch với Kình Dương Đại hội nữa là khác, một mũi tên bắn hai con nhạn. Việc này ta không thể coi thường được y là người chuyên ném đá dấu tay như việc Vi Nhất Tiếu năm xưa !
- Chính y đã ám hại Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu?
- Việc này Trương Giáo chủ có nói cho ta biết, người phải dùng Cửa Dương Thần Công để hóa giải khí âm hàn cho Bức Vương.
Trần Nguyên Huân hồi hộp hỏi:
- Bạch Đại sư, trong giang hồ, người xử dụng Hàn âm độc chưởng có những ai?
- Ngày xưa Trương Giáo chủ trúng Huyền Minh thần chưởng của Huyền Minh nhị lão nhưng hoàn toàn khác hẳn với loại âm hàn mà Vi Nhất Tiếu trúng phải. Vi Nhất Tiếu trúng Hàn âm Ngọc chưởng khiến máu đông lại nên y phải hút máu người hoặc động vật mà bảo toàn sự sống. Người trúng nhẹ thì tuy âm hàn không đủ làm đông máu, nhưng tích tụ tại các huyệt đạo cũng làm phế võ công, thân thể suy nhược xanh xao, cái chết đến từ từ. Vi Nhất Tiếu nội công cao, nhưng phải dùng Huyết Sinh mà hóa giải thường ngày, y trở thành con dơi hút máu, khiến cho võ lâm kinh hoàng, và Minh Giáo trở thành Ma giáo là vì vậy!
Nguyên Huân nghĩ đến Lục thúc và cái chết của thân phụ chàng, nên hỏi:
- Võ lâm Trung thổ, người biết được môn công phu này là những ai vậy?
- Ta đi lại giang hồ đã trên năm mươi năm nay, nhưng chưa hề biết ai có công phu tà độc ấy. Hình như môn công phu này do một vị lão nhân gọi là Hy Mã Thượng Nhân, đã ở trên vùng tuyết vạn niên Hy Mã Lạp Sơn luyện thành. Ta chỉ được nghe thế thôi, không hiểu vì sao Dương Tiêu có được công phu ấy!
Nguyên Huân ngậm ngùi nói:
- Phụ thân của vãn bối bị công phu ấy đánh trúng mà qua đời !
Chàng tóm tắt kể cho Kiến Nghiệp Đại sư nghe toàn bộ câu chuyện liên quan đến cái chết của cha chàng. Kiến Nghiệp trầm ngâm suy nghĩ một hồi lâu, gật đầu nói:
- Cứ như những sự kiện ấy, thì mười phần hết chín, thủ phạm chính là Dương Tiêu. Tuy nhiên, còn phải xem xét lại cho thật kỹ mới được. Bần tăng xem mục quang của thí chủ, biết được nội công thí chủ đã có tám, chín thành hỏa hầu, nhưng nếu thù nhân chính là y thì việc trả thù cho Tôn phụ không phải là dễ, vì võ công y, ngay cả bần tăng cũng khó lòng địch lại. Trong khi đó, thí chủ có một thân, một mình, còn y thì kẻ làm tai mắt đông như kiến, phải thật thận trọng và che dấu tung tích đi mới được. Nhưng thí chủ cũng đừng vì thế mà tuyệt vọng, bần tăng cũng có thể vì thí chủ mả giúp được đôi chút!
Nguyên Huân hỏi:
- Bạch Đại sư, theo ý của Đại sư, nếu hung thủ đích thực là Dương Tiêu, thì Bí phổ chắc chắn y không giao nạp vào Thư khố mà giữ làm của riêng. Việc đến Kim Lăng chắc hẳn không có kết quả gì?
Kiến Nghiệp Đại sư nói:
- Điều này cũng có thể. Tuy nhiên Dương Tiêu là người giảo hoạt khôn lường. Khi biết Bí kíp vô dụng đối với hắn, hắn chẳng giữ riêng làm gì? Cũng có thể hắn sao thành bản khác mà giữ lấy, còn bản chính hắn đem nộp cho Minh đế để tỏ dạ trung thành. Bởi vậy, biết đâu chẳng cất dấu trong Thư khố ở Kim Lăng !
Nguyên Huân nghĩ ngợi, chàng biết là mình đang đứng trước một công việc hết sức khó khăn, tựa như đáy bể mò kim. Thư khố nhất định có người coi giữ, vã lại nếu lén lút mà tự tìm kiếm, thì trong khu rừng sách kia biết làm sao tìm cho được; mà tra khảo viên Thủ thư thì chẳng khác chi bứt dây động rừng. Nhưng dù thế nào chăng nữa, dẫu nguy hiểm đến tính mạng, chàng cũng phải tìm kiếm bằng được. Chiều hôm ấy, Kiến Nghiệp Đại sư và Nguyên Huân rời thuyền lên bờ. Đại sư đã hóa trang để che dấu khuôn mặt đặc biệt của ông. Thuật dị dung của Đại sư khiến Nguyên Huân thán phục, đến chàng cũng chẳng nhận ra ông. Ông bảo:
- Kim Lăng không thiếu gì người của Quang Minh Vương và cả những thuộc hạ cũ trong Minh Giáo năm xưa. Giáo chúng Minh Giáo không phải hoàn toàn là người của Dương Tiêu, tuy nhiên phần lớn tham danh lợi, đã phục vụ Dương Tiêu một cách đắc lực. Ta không nên lộ diện.
Hai người thuê một căn phòng trong khách điếm, nằm trên một khu vực tên tỉnh, cách Hoàng thành cũ một đoạn ngắn. Năm đêm liên tiếp, Nguyên Huân đã tìm cách vượt vào Hoàng thành. Khinh công của chàng đã đến mức tuyệt kỹ . Với Hoán Ảnh Thân pháp, và bộ quần áo dạ hành, chàng vượt qua những vọng gác, những toán lính tuần hành mà không bị chúng phát giác.
Thực ra, sự canh gác có phần chiếu lệ. Tử Cấm Thành gần như bỏ trống. Cung điện, đền đài san sát và lộng lẫy. Nào là Trung Cực điện, Kiến Cực điện, Văn Hoa điện, Võ Anh điện, Đông Các điện, Văn Uyên các. Trong suất đêm đầu chàng đã mất hẳn cả đêm để tìm kiếm Thư khố. Gần sáng, Nguyên Huân mới tìm ra Văn Uyên các; và trong dãy nhà mênh mông này là nơi cất giữ, lưu tàng văn khố, thư mục của Minh triều.
Qua đêm sau, chàng ra đi vào đầu giờ Tuất với cây bạch lạp lớn. Khu điện Văn Uyên hoàn toàn yên tỉnh, nhưng không phải hoang phế, cây cảnh vẫn tết tươi, rõ ràng vẫn được chăm sóc và quét dọn hàng ngày. Nguyên Huân lọt vào Thư khố một cách vất vả, không để lại dấu tích, vì chàng biết rằng, mỗi sáng, những người có bổn phận coi sóc vẫn thường xuyên có mặt, chúng sẽ phát giác ra những dấu vết bất thường.
Từng kệ sách cao đến tận xà ngang, hết dãy này đến dãy khác cơ man toàn là sách, đúng là một rừng những sách là sách, tuy vậy, chúng được sắp xếp thứ tự, chia thành từng loại Từ Văn học, Y dược, Pháp chế... mỗi loại một khu vực riêng. Chàng đã tìm kiếm từ đêm đến sáng. ở đây, Nguyên Huân nhận ra một số văn hóa phẩm của Đại Việt bị thu ngày trước nằm im lìm trên giá sách, rải rác đó đây, từng khu vực một. Phẫn uất, đau lòng, căm giận, nhưng dù khao khát được mang về cho Tổ Quốc tất cả những di sản tinh thần quý báu này, chàng biết là chưa thể thực hiện được, hơn nữa, số lượng sách không phải nhỏ.
Đêm thứ tư, Nguyên Huân đã tìm kiếm một cách tuyệt vọng. Không bỏ sót từng kẻ, từng xó, từng khu vực, nhưng vẫn không hề thấy được dấu tích của Vạn Kiếp Bí Truyền. Đêm thứ năm, lần này, chàng tìm thấy được cuốn Thư mục dày cộm, liệt kê toàn bộ số sách trong Thư khố, và chàng đã thấy trong danh mục, VẠN KIẾP BÍ TRUYỀN và Binh Thư Yếu Lược, nhưng cả hai đã được gạch bỏ. Như vậy dù không tìm được sách, nhưng vết tích đã có, Nguyên Huân mừng rỡ vô cùng.
Hai quyển này, và một số sách khác nữa đã từng lưu trữ ở đây nhưng đã được di chuyển đi nơi khác. Ai có quyền làm việc này? Hoàng đế nhà Minh chắc chắn không để ý đến chuyện vặt vảnh ấy, chắc hẳn là đo các bộ liên hệ đến từng loại thư mục chuyển đi. Một ý nghĩ bỗng lóe lên trong đầu: Biết đâu chẳng có bàn tay của Dương Minh Vương trong việc này.
Chàng trở về khách điếm trong đêm ấy và suy nghĩ rất lung. Và Nguyên Huân đã đi đến một kết luận chắc chắn: Vạn Kiếp Bí Truyền nằm đâu đó trong Ngự Thư phòng, trong Thư Khố ở Yên Kinh, hoặc là trong Thư phòng của Dương Minh Vương. Nghĩ đến điều ấy, Nguyên Huân cảm thấy trong lòng thanh thản, dù rằng việc xâm nhập vào những nơi mà Hoàng đế đang ngự là việc cực kỳ khó khăn và nguy hiểm; nhưng dù sao chàng cũng thấy được cái đích mà đến.
Những đêm chàng bỏ đi xâm nhập Hoàng thành, Kiến Nghiệp Đại sư cũng không rảnh rỗi. Nhiều đêm, Đại sư vắng mặt đến tận sáng, sau lúc trở về, cả ngày ông trầm lặng, khuôn mặt biểu hiện những lo nghĩ rất lung, dường như ông đang gặp những khó khăn mà chưa thể giải quyết được.
Tài sản của kiet1991