Chương: 2 Gặp hải tặc trên đảo
Từ sau cuộc đàm thoại giữa Hoàng và ông Hoằng, cuộc sống của Hoàng đã có những thay đổi đáng kể. Theo yêu cầu của dân làng Hoàng đã mở lớp dạy chữ quốc ngữ cho dân làng. Ở lớp của Hoàng, mới bắt đầu chỉ thanh niên và trẻ nhỏ đến học. Dần dần cả dân làng cũng tham gia vào lớp học, bởi vì Hoàng không chỉ dạy chữ Quốc Ngữ mà còn truyền thụ nhiều kiến thức phổ thống cần thiết cho cuôc sống vào thời hiện đại nhưng rất cao xa vào thời này.Ngoài ra Hoàng thấy cuộc sống của dân làng quá đơn điệu, ban ngày đi làm, đến ban đêm thì đi ngủ nên Hoàng đã bày ra một số trò chơi cho dân làng giải trí. Nhờ đó uy tín của Hoàng trong làng ngày càng tăng.
Nghĩ đến việc chiến tranh sắp nổ ra, liên quân Pháp – Tây Ban Nha sắp tấn công xâm lược Đại Nam quốc, Hoàng thấy rằng cần phải có một lực lượng vũ trang để tự bảo vệ mình giữa cảnh chiến loạn. Trong cảnh loạn lạc, mạng người như cỏ rác, nhất là mạng người Việt trước mũi súng hung ác của các đế quốc phương tây, nếu lỡ chết đi thì thật uổng công “Tạo Hóa” đã đưa Hoàng đến thế giới này.
Thế nhưng, ông Hoàng cho Hoàng biết rằng, Hội Đồng Làng không được phép tổ chức lực lượng vũ trang của làng, nếu không triều đình biết được sẽ bắt tội phản nghịch. Để giữ gìn trị an, mỗi làng chỉ có một số ít Tuần Đinh, với vũ khí chủ yếu là gậy gộc, tùy theo quy mô làng lớn nhỏ mà số Tuần Đinh khoảng 10 người trở lại. Mỗi huyện cũng chỉ có vài chục lính ít được huấn luyện. Ngay cả thành Gia Định là trọng trấn của Nam Kỳ, là kho gạo của kinh thành Huế, mà lúc bấy giờ cũng chỉ có 1.000 quân phòng thủ. Tướng Charles Rigault de Genouilly, tư lệnh liên quân Pháp – Tây Ban Nha trong cuộc chiến tranh xâm lược Đại Nam năm 1859, đã viết trong lá thư gửi Bộ trưởng Hải Quân Pháp đề ngày 29/1/1859 : “Sài Gòn lại là một vựa lúa. Nhân dân và binh lính ở kinh thành Huế sống một phần nhờ gạo Sài Gòn. Đến tháng ba thì thuyền chở lúa gạo sẽ kéo buồm từ Sài Gòn ra Huế. Chúng tôi quyết chặn số lúa gạo đó lại ...”. Như vậy, ngay cả người Pháp cũng biết rõ tầm quan trọng của Gia Định đối với Đại Nam. Vậy mà khi chiến tranh nổ ra, thành Gia Định chỉ có 1.000 quân phòng thủ, sau lấy thêm quân từ các tỉnh mới được 2.000.
Sau khi bàn bạc với ông Hoằng,Hoàng đành đổi sang cách khác, thành lập một lực lượng bảo vệ của riêng mình. Tuy triều đình không cho phép làng tổ chức lực lượng vũ trang, nhưng cũng không thể cấm những người có tiền có thế thuê người bảo vệ mình. Thời bấy giờ, những nhà quan quyền hay phú hộ đều có thuê người chuyên lo bảo vệ tính mạng tài sản của mình và gia đình.
Muốn thành lập lực lượng vũ trang thì phải có vũ khí. Hoàng không muốn đặt an nguy của mình trên những trang bị thô sơ như đao kiếm, giáo, mác, mà nhờ ông Hương Chanh tìm mua giúp súng đạn. Ông Hương Chánh Nguyễn Văn Hưng có nhiệm vụ thu thuế, nạp thuế cho triều đình, thường đi lên huyện nên có thể hỏi thăm người ngoại quốc tìm mua súng ống, và tìm người làm giúp một số đạn chì để mọi người tập bắn( khi xuyên qua thì khẩu 631 tiệp khắc cũng xuyên theo). Chiến tranh thời này còn sử dụng đao kiếm là ko thích hợp.
Trải qua vô vàn gian khổ, cuối cùng Hoàng nhờ ông Hương Chánh tìm mua giúp súng, sau khi hỏi thăm cũng mua được một khẩu súng trường mà nghe nói là vũ khí của quân Anh sử dụng ở bên Tàu, cùng với 300 viên đạn, và lượng thuốc súng tương ứng, tốn của Tuấn Văn hết 5 bảng Anh. Tuấn Văn cũng biết lời nói của người bán kia chẳng thể tin được, khẩu súng này chắc chắn là loại lạc hậu hơn vũ khí quân dụng của Tây phương liệt cường, nhưng so với mấy khẩu súng của quan quân nhà Nguyễn thì tiên tiến hơn nhiều, và quan trọng hơn là nó cùng nguyên lý với các loại súng của tây phương, sử dụng được loại súng này thì sau này có cướp được vũ khí của quân Pháp cũng sẽ biết cách sử dụng. Mua khẩu súng mất hết 5 bảng (tương đương 0,973 lượng vàng) cũng thấy tiếc, nhưng vì không thể mua ở đâu khác được, nên có bị nói thách cũng đành chịu. Phải biết rằng lương Tri huyện một năm, kể luôn tiền thưởng tết và khoản gạo trợ cấp, tính ra bảng Anh cũng chỉ có 6,91 bảng. Có thông tin nói rằng, khi quân đội Nhật Bản thay đổi vũ khí mới, mang những vũ khí cũ sang Hương Cảng bán, các loại súng trường lạc hậu chỉ bán 1 lượng bạc 1 khẩu, thậm chí có lúc 1 lượng bạc mua được 2, 3 khẩu. Sợi dây chuyền của Hoàng bán đi được 40 lượng bạc ( hơn 2 lượng vàng) sau khi mua súng và đạn còn 26 lượng bạc.
Theo quy định của triều Nguyễn, 1 lượng vàng = 17 lượng bạc, và 1 lượng bạc = 2 quan 3 tiền (1 quan = 10 tiền, 1 tiền = 60 đồng, nên 1 quan = 600 đồng).
Do việc mua súng ống quá khó khăn nên Hoàng nghĩ cách chiến đấu mà không phụ thuộc quá nhiều vào súng ống. Ngoài ra Hoàng phải nghĩ cách kiếm tiền, phải có tiền mới mở rộng được đội bảo vệ. Đội bảo vệ của Tuấn hiện chừ có 15 người. Sau khi thương lượng với ông Hoằng và dan làng. Hoàng quyết định tìm thuyền ra biển kiếm một hòn đảo hoạt động và phát triển.
Một tháng sau Hoàng và thêm 20 người nữa xuất phát ra biển, sau 2 ngày lênh đênh trên biển thuyền đã thấy 1 hòn đảo hoàng. Theo như suy đoán của Hoàng thì đây là đảo Cồn Cỏ Quảng trị hay Hòn Núc tỉnh Quảng Bình. Trên đảo có 1 con suối và vồng đất trống có thể trồng khoai hay bắp được. Thế là Hoàng quyết định tạm đặt căn cứ ở đây.
Mọi người trên đảo vừa làm việc vừa luyện tập võ nghệ và bắn súng, cứ như vậy 2 tháng trôi qua. Hôm nay đến lượt Hoàng, Võ, Quỳnh, Phương, Hùng vào kiểm tra vườn khoai ở trong núi. Đang làm thì nghe tiếng la hét và tiếng súng ở ngoài bờ biển. Mọi người chạy ra bờ biển thì thấy 1 chiếc thuyền và mấy người Tây dương. Hoàng bảo mấy người trốn vào bụi gần đó, khi nghe tiếng hét của 1 cô gái thì Hùng đứng dậy định chạy vào thì được Võ giữ lại và nói:
- Cậu định làm gì? cậu định hại chết cả chúng ta sao?
- Nhưng đó là vợ tôi!!!!
Hoàng nói:
- Bây giờ cậu vào đấy có cứu được Bích không?
Hùng quay lại hỏi Hoàng:
- Thế phải làm sao?
Hoàng trả lờiL
- Chúng ta sẽ trả thù.
Hùng hỏi:
- Bằng cách nào?
- Cậu cùng với anh Võ, và Phương vào rừng bắt rắn và tổ ong đem ra đây.
Sau khi quan sát thì Hoàng thấy bọn chúng có 14 tên, 5 tên lên bờ và 9 tên ở lại trên thuyền. Đợi đến đêm thì mọi người lẻn đến khu nhà giết 5 tên ở trong. Mọi chuyển diễn ra suôn xẻ do bọn chúng quá mệt khi lênh đênh trên biển và mới cưỡng hiếp 2 cô gái xong. Hoàng kêu Võ, Hùng, và Phương đem rắn và tỏ ong đến gần thuyền. Trên thuyền chỉ có 2 người gác nhưng ngồi nói chuyện với nhau. Đang nói chuyện thì hai người nghe tiếng động phía trước khi quay đầu qua xem thì Võ và Hùng từ phía sau áp sát cắt cổ hai người. Xong mọi thứ Hoàng nói mấy người thả những thứ vào trong khoan thuyền, mấy phút sau phía trong phát ra những tiếng la thảm thiết.
Phương nói:
- Thưa Hương Sư, khi nào chúng ta vào bắt chúng?
Hoàng trả lời:
- Chúng ta đợi đến lúc bọn chúng kiệt sức rồi vào bắt chúng.
Phương lại nói:
- Bọn chúng thật đáng giận? mọi người đã bị chúng hại, chỉ còn lại mấy người chúng ta.
Hùng chen vào:
- Ta phải giết sạch bọn chúng để trả thù cho vợ ta và mọi người.
Hoàng khẽ gật đầu. Nghĩ đến thảm cảnh của người theo mình, mọi người trong lòng đều nặng nề, yên lặng ngồi đó không nói tiếng nào.
Đến sáng, phía trong thuyền chỉ còn phát ra những tiếng rên rỉ, mọi người bơi ra bắt chúng, Hoàng dặn thêm:
- Bọn chúng chỉ ở trên thuyền, cũng chưa gây nên tội lỗi chi. Nếu bắt sống được thì hãy cố bắt sống. Ta cần hỏi cung bọn chúng.
Lát sau, bọn hải tặc trên thuyền được khiêng vào bờ, mặt mũi cả bọn đều bị ong chích sưng vù, trên người còn có nhiều vết rắn cắn, bộ dạng cực kỳ thê thảm. Loại “vũ khí sinh học” này mãi đến hơn một trăm năm sau, trong cuộc Đồng Khởi ở Bến Tre vẫn còn được sử dụng, và có hiệu quả rất tốt, đừng nói gì lúc này, người phương tây mới chỉ biết tới cách chiến đấu chính quy theo kiểu của họ.
Nhìn bọn hải tặc, thấy ai nấy đều đã kiệt sức, Hoàng khẽ lắc đầu, biết có hỏi cung lúc này cũng sẽ chẳng hỏi được gì, nên bảo khiêng bọn chúng về làng tìm cách chữa trị. Sau đó mọi người bắt đầu kiểm điểm chiến lợi phẩm.
Bọn hải tặc có 14 tên, bị giết 9 tên, bắt xống 5 tên. thu được 43 khẩu súng trường, 3 khẩu súng ngắn, 1 khẩu pháo( gắn trên thuyền) và rất nhiều đạn dược. Có thể bọn chúng vừa đánh cướp xong nên thuyền hư hại ko thể chạy được. Tiền bạc có rất nhiều, gồm 96 bảng Anh, 139 franc Pháp, 325 đô la Mỹ, và gần 1000 nén lượng bạc trắng Thanh triều(1 nến 10 lượng bạc) Ngoài ra còn có không ít hàng hóa như ngọc trai, tơ lụa, vải, nến, thiếc, ... là những thứ hàng hóa bán chạy thời bấy giờ. Đương nhiên, thứ có giá trị nhất chính là chiếc thuyền của bọn hải tặc, tuy bị hư hỏng khá nặng, nhưng sửa chữa lại sẽ vẫn sử dụng được. Đó là một chiếc thuyền buồm bằng gỗ nhỏ, dài hơn 20 mét, rộng khoảng 8 mét, tải trọng ước 300 tấn. Đối với ghe thuyền của dân làng Phú Thạnh thì nó rất lớn, nhưng đối với các hải thuyền thời bấy giờ, nó vẫn là một chiếc thuyền nhỏ. Ngay từ thời chiến tranh trăm năm giữa Anh và Pháp hồi 500 năm trước, các hải thuyền đã có tải trọng vài trăm tấn. Thời này, chiến thuyền phải đến hàng nghìn tấn, chở được vài trăm người. Còn chiếc thuyền này chỉ là một chiếc thuyền gỗ nhỏ, chở được vài chục người. Thuyền đi biển khác thuyền đi trên sông hồ, chỉ chở được ít người, bởi phải mang theo thực phẩm, nước uống cho các chuyến đi dài ngày trên biển.