Thiếu niên cùng Quý Loan dẫn theo Hoàn Nhan Quán tiến về Phong Lôi bảo. Thạch bảo từ xa nhìn lại cao to sừng sững như ngọn núi nhỏ, trước bảo có một tảng đá lớn khắc ba chữ nổi bật " Phong Lôi Bảo".
- Thiếu gia cùng Nhị đương gia về rồi!
Vài hán tử từ trong bảo chạy tới nghênh đón. Hoàn Nhan Quán lần đầu tiên bước tới một nơi nghèo nàn như thế, lần đầu tiên gặp những người bần cùng như thế. Những hán tử này y phục cũ nát, mồ hôi nhễ nhại, áo khoác đã bục chỉ lộ cả ra những sợi bông trắng, thậm chí có kẻ còn chẳng có áo mà mặc, chỉ khoác bừa lên người tấm da thú. Chỉ có Quý Loan và thiếu niên nọ ăn mạng coi như đàng hoàng, nhưng y phục cũng đã bạc hết màu.
Toàn bộ Phong Lôi bảo được xây từ đá chuyển từ trên núi xuống, khối nào khối nấy nhẵn nhụi góc cạnh như bộ ngực gầy trơ xương của nạn dân chết đói (???) ngay cả mái phòng ốc cũng chẳng có mấy cọng cỏ tranh, ngoài trời vài con dê núi, vài con chó hoang ướt nhẹp bùn đất chạy qua chạy lại. Cảnh tượng bần cùng, khốn khó là vậy, song kỳ lạ là người ở đây giữa hai hàng lông mày ai nấy đều lộ ra vài phần anh khí, tinh thần phấn chấn lạ thường.
Tiếng dã thú gầm rú nặng nề trong buồi chiều muộn khiến bầu không khí càng thêm hiu quạnh, vắng vẻ. Hoàn Nhan Quán bước vào trong bảo, lòng có chút sợ hãi, thân thể hơi co lại. Thiếu niên nọ quay đầu nhìn hắn cười:
- Chớ sợ.
Thiếu niên khoác tay lên vai Hoàng Nhan Quán nói:
- Có Nam Nhan ta ở đây không gì có thể làm hại ngươi!
Hoàn Nhan Quán gật gật đầu. "Thì ra y tên là Nam Nhạn".
Trong sân có một đại hán đang nửa nằm nửa ngồi, tay cầm một hồ lô rượu tự uống một mình. Thấy đám người tiến vào đại hán lập tức đứng dậy.
Hán tử vừa đứng dậy Hoàn Nhan Quán liền kinh ngạc. Dưới ánh sáng lờ mờ của hoàng hôn, hắn phát hiện người này thân hình cao lớn uy mãnh lạ thường, trời lạnh như vậy nhưng y chỉ mặc một chiếc áo mỏng, hai tay áo vén lên lộ ra bắp thịt cuồn cuộn, phối thêm bộ râu quai nón rậm rạp, thoạt nhìn thực giống như Cự Linh Lực Sĩ trong truyền thuyết.
Càng kỳ lạ hơn, trên người hán tử quấn lên rất nhiều sợi xích sắt, cổ, ngực, eo khắp nơi đều là xích, cứ mỗi bước y di chuyển xích sắt lại vang lên tiếng leng keng. Nam Nhạn ở một bên chợt than:
- Lệ Bát Phong Lệ đại thúc này trước đây không biết gặp phải chuyện gì mà lúc nào cũng buồn rầu không vui, uống say rồi cứ ngơ ngơ ngốc ngốc như vậy.
- Lệ huynh.
Quý Loan nói với đại hán.
- Trời đông đất lạnh, tội gì phải giày vò bản thân như vậy!
Đại hán chẳng để tâm lời Quý Loan, tiếp tục nghiêng hồ lô dốc rượu vào miệng. Nam Nhạn thấy y đã say đỏ cả mắt, bèn bước lên thấp giọng nói:
- Lệ đại ca, ngươi lại có chuyện gì đau lòng à?
Lệ Bát Phong không đoái hoài Quý Loan, nhưng vừa nghe tiếng Nam Nhạn thì hai mắt như phát sáng, đột nhiên hai chân quỳ xuống ôm lấy Nam Nhạn mà khóc:
- Thiếu gia, Lệ Bát Phong đáng chết, Lệ Bát Phong đáng chết a!
Quý Loan thấy vậy thì hoảng hốt vội nói:
- Lão Lịch, ngươi lại phát bệnh rồi, đừng làm Nhạn thiếu gia sợ!
Mấy chữ " Đừng làm Nhạn thiếu gia sợ" không ngờ thực sự có tác dụng, Lệ Bát Phong kinh hoảng buông Nam Nhạn ra, Quý Loan thừa lúc ấy lôi hắn về.
Lệ Bát Phong cơ mặt co giật mấy cái, lại tiếp tục tu rượu. Trong bình hết rượu, Lệ Bát Phong lắc lắc vài cái, thấy chẳng còn giọt nào, y tức giận đưa chân đá thẳng vào tảng đá xanh trước mặt. Tảng đá chí ít cũng phải nặng hai ba trăm cân, ấy vậy mà bị y đá một cái văng thẳng lên không trung. Tảng đá bay lên cao vài trượng rồi xé gió rơi thẳng xuống, chúng nhân thấy vậy nhất tề kêu to. Lệ Bát Phong lại cười dài một tiếng, bước lên nửa bước, đưa một tay ra đỡ lấy tảng đá, sau đó lật tay ấn chặt tảng đá xuống đất.
Mọi người thấy tảng đá vài trăm cân ở trong tay Lệ Bát Phong giống như quả bóng da tùy y đùa nghịch, ai nấy đều ngơ ngác bần thần. Lệ Bát Phong xoay thân hình hùng vĩ như tòa tháp, kéo lê theo đống xích sắt lẻng xẻng rời đi. Hoàn Nhan Quán trong lòng càng thêm hoảng sợ, hắn ở trong cung cũng gặp qua không ít lực sĩ, nhưng đám lực sĩ ấy nếu đấu với đại hán này chỉ e không chịu nổi một kích.
...
Nam Nhạn dẫn Hoàn Nhan Quán tiến vào đại sảnh, dưới ánh nến chập chờn hắn tỉ mỉ đánh giá thiếu niên gầy gò trắng trẻo trước mặt một phen, lòng có chút cao hứng: "Phong Lôi bảo cái gì cũng tốt, chỉ là chẳng có ai cùng tuổi để chơi cùng ta, tên nhóc này tới đúng lúc lắm, tiếc là y không biết nói." Bỗng thấy vết thương trên cổ Hoàn Nhan Quán, bèn hỏi:
- Vết thương trên cổ ngươi do ai gây ra thế?
Nghe Nam Nhạn hỏi Hoàn Nhan Quán bất giác đưa tay xoa xoa vết thương trên cổ, miệng vết thương đã lên sẹo, xong sờ lên vẫn có chút tê buốt, tê buốt không chỉ ở ngoài da mà còn từ sâu trong tim, những ký ức kinh khủng hiện về khiến hắn không nhịn được lại muốn khóc, nhưng hắn không muốn để người lạ thấy mình rơi lệ, rốt cuộc cắn răng nén lòng lại.
Nam Nhạn thấy bộ dạng nín nhịn đáng thương của Hoàn Nhan Quán, bèn vỗ vỗ vai hắn nói:
- Được rồi được rồi, Dịch bá bá nói đại trượng phu không phải không thể rơi lệ, chỉ là chưa gặp phải chuyện thương tâm mà thôi! Gặp phải chuyện buồn cứ khóc một trận, nước mắt cũng chỉ như cơn mưa ngấm xuống đất rồi thôi!
Được Nam Nhạn an ủi, Hoàn Nhan Quán cuối cùng cũng bật khóc ra, càng khóc càng lớn, cổ họng nấc lên từng tiếng. Nam Nhạn thấy hắn khóc thảm thiết như vậy thì cũng có chút thương hại, tay chân lóng ngóng lau nước mắt cho hắn nói:
- Dừng, dừng! Còn khóc nữa thì ngươi chính là đồ đàn bà!
- Đó là vết đao! Một đao này thực độc, sâu hơn chút thì hắn chẳng còn mạng nữa rồi.
Quý Loan thong dong bước tới ngồi xuống trước người Hoàn Nhan Quán, đưa mắt quan sát một lượt Hoàn Nhan Quán.
- Tiểu tử này mệnh cũng lớn lắm! Phải rồi, ngươi tên gì?
Hoàn Nhan Quán lòng chớp động, chỉ ú ớ kêu hai tiếng, tỏ vẻ bị câm không nói được. Quý Loan a lên một tiếng:
- Quên mất ngươi bị câm. Thế chúng ta nên xưng hô thế nào? Chẳng lẽ gọi ngươi là tiểu hòa thượng?
Hoàn Nhan Quán đảo đảo mắt nghĩ thầm: "Dù sao cũng nên đưa cho họ một cái tên, gọi tiểu hòa thượng mãi cũng không ổn." Bèn giơ tay lên không trung vạch vạch vài nét. Quý Loan ồ một tiếng cười:
- Không ngờ tiểu hòa thượng còn biết chữ, vậy viết tên tuổi ngươi ra là được!
Nói rồi đưa cho hắn giấy bút. Hoàn Nhan Quán chậm rãi đưa tay ra viết, nghĩ nghĩ một chút, bèn cố ý đổi thế cầm bút, dùng cả bàn tay cầm lấy bút viết một cách vụng về. Đám người xung quanh thấy hắn cầm bút ngộ nghĩnh như vậy thì khúc khích cười. Nam Nhạn vỗ vỗ vai hắn ra vẻ người lớn nói:
- Đừng để ý bọn họ, cứ viết đi là được.
Quý Loan trong mắt cũng lộ ra vài phần khích lệ. Chỉ thấy Hoàn Nhan Quán đã viết xuống ba chữ " mười hai tuổi", ngừng một chút, lại viết thêm hai chữ "Cô Thiên".
Quy Loan cau mày:
- Ngươi họ Cô à?
Hai chữ Cô Thiên được tách âm ra từ chữ Quán, trong đó hàm chứa ý nghĩa: "Cô gia quả nhân, quân lâm Thiên hạ". Nghe Quý Loan hỏi vậy hắn bèn thêm một chữ "Dư" vào phía trước, chữ Dư đồng âm với con cá, ý là như cá gặp nạn mắc vào lưới.
Viết xong, Hoàn Nhan Quán trong lòng cũng tự nhủ: "Từ nay trở đi ta là Dư Cô Thiên! Cái tên Hoàn Nhan Quán kia chẳng biết bao giờ mới có thể dùng lại nữa".
- Thì ra là Dư Cô Thiên, mười hai tuổi, kém Nam Nhạn hai tuổi. Khà khà, Nam Nhạn cuối cùng cũng được làm đại ca rồi!
Vừa nói Quý Loan vừa xoa xoa đầu Dư Cô Thiên cười:
- Chớ sợ, đại ca ngươi ở đây, sau này trong bảo không ai dám khi phụ ngươi đâu!
Nhất thời trong phòng vang lên tiếng cười nói huyên náo. Tiếng cười làm Dư Cô Thiên động lòng: " Đám người này tuy áo quần cũ nát, lăn lộn ở cái thạch bảo bần cùng này, nhưng ai nấy đều vui vẻ lạc quan, còn ta thân là đại Kim hoàng tử, rốt cuộc lại phải lưu lạc tới nương nhờ đám di dân nước Tống này."
Quý Loan tuy vẫn cười nói với Nam Nhạn, song mục quang sớm đã trầm xuống vài phần. Y cảm giác Dư Cô Thiên này tuy y phục rách nát, không biết nói chuyện, song giữa hai hàng mi vẫn ẩn ẩn hiện hiện một cỗ ngạo khí cao sang, hiện tại chẳng qua bị kinh sợ quá độ mà mờ nhạt đi.
Dư Cô Thiên tình cờ liếc mắt thấy thần sắc của Quý Loan thì chột dạ, tâm thần bất định. Quý Loan thở dài một tiếng, nhẹ nhàng nói:
- Cô Thiên, không cần sợ hãi, ở Phong Lôi bảo này ngươi cũng như con cháu chúng ta, áo ngươi cũ quá rồi, không cần mặc nữa. Đợi lát nữa tắm rửa rồi lấy một bộ y phục của Nam Nhạn mà mặc.
Nam Nhạn ứng tiếng, chạy về phòng lấy cho Dư Cô Thiên một bộ y phục. Quý Loan cười:
- Ngươi cũng hào phóng thật, ngay cả bộ quần áo cả năm chỉ dám mặc một lần ngày tết cũng đem ra tặng!
Nam Nhạc ngẩng đầu hi hi cười:
- Dịch bá bá dạy ta Luận Ngữ có nói, thời cổ đại có một người không huynh không đệ giống ta, tên là Tư Mã Ngưu, Tử Hạ bèn nói với ông ta: " Tứ hải chi nội, giai huynh đệ dã ( tứ hải giai huynh đệ), người quân tử sống trên đời có gì đáng sợ hơn là không huynh không đệ?" Tiểu tử này tới với ta chẳng phải chính là huynh đệ ta sao?
Dư Cô Thiên nhìn bộ y phục này tuy không phải mới tinh, nhưng so với bộ quần áo bạc màu trên người Nam Nhạn thì tốt hơn nhiều lắm. Thấy Nam Nhạn hào phóng như vậy Dư Cô Thiên lòng sinh hảo cảm, gật gật đầu với hắn.
Tắm rửa xong, thay y phục, Dư Cô Thiên đi cùng Nam Nhạn tới sảnh trước. Tuy mấy ngày nay phải bỏ chạy bán mạng, ăn uống thiếu thốn, nhưng đối diện với bàn thức ăn đầy đặc sản vùng rừng núi, hắn với giữ được cử chỉ nho nhã lễ độ, ăn uống từ tốn chậm rãi lắm. Quý Loan ngoài mặt tỏ ra không để ý, song trong lòng thầm lấy làm lạ.
Vừa xong cơm thì có người tới báo tìm thấy một cỗ thi thể ở rừng cây ngoài bảo, hiện đã đem vào trong. Quý Loan nghĩ bụng hẳn là thi thể Vô Ưu Tử, thần sắc hơi trầm xuống, bèn gọi người mang đuốc tới, đem theo Nam Nhạn cùng Dư Cô Thiên đi ra ngoài viện. Dư Cô Thiên từ xa trông thấy diện mục hung tợn của Vô Ưu Tử không khỏi hoảng hồn quay mặt qua chỗ khác.
Quý Loan tiến lại vén đạo bào của Vô Ưu Tử lên, thấy trước ngực y hằn lên hai dấu chưởng ấn đen kịt. Lồng ngực gầy gò giờ chỉ còn giống như một túi da, toàn bộ xương cốt đã bị hai chưởng này chấn vỡ hết. Quý Loạn trầm ngâm một lát, nói:
- Nam Nhạn, ngươi xem thế nào?
Nam Nhạn ngưng thần nhìn giây lát, đưa hai ngón tay lên gãi gãi trán, nói:
- Vết thương đen sì như vậy hiển nhiên do độc chưởng gây ra. Kẻ xuất chiêu này độc công cũng thực ghê gớm, chỉ một chưởng đã khiến y toàn thân ngấm độc, thi thể để đó cả nửa ngày mà dã thú cũng không dám động vào. Máu tử mũi từ miệng y chảy ra màu tím đen, mà máu ở tay áo y lại phiếm xanh, ấy hẳn là máu của đối thủ.
Ngừng lại một lát, lại nói:
- Đối thủ của y có lẽ trúng thương trước, máu bắn lên hai tay áo, nhưng cuối cùng lại dùng một chưởng kết liễu y... Hẳn là Đan Thiên Ma sau khi trọng thương đã cố tình giả thua, khiến Vô Ưu Tử không phòng bị mà mất mạng!
Dư Cô Thiên nghe hắn nói mà cả kinh, sư phụ hẳn quả thực trúng độc châm của Vô Ưu Tử trước, sau đó giả trang độc phát mà ngã xuống đất, Vô Ưu Tử tiến lên quan sát mới trúng phải một chưởng kia.
- Tặc tiểu tử khá lắm!
Quý Loan thấy Dư Cô Thiên liên tục gật đầu thì cười khà khà.
- Không uổng công đại ca ta dạy dỗ. Đây quả thực là công phu độc chưởng, nhưng độ hiểm ác tàn độc vượt xa loại độc chưởng thông thường. Thực chẳng hay Đan Thiên Ma ấy là người nào?
Nói xong nhìn chằm chằm vào Dư Cô Thiên không che giấu vẻ nghi hoặc. Nhưng dẫu y hỏi thế nào thì Dư Cô Thiên cũng chỉ ú ớ khua tay múa chân loạn lên, hỏi vài câu hắn liên khóc òa lên.
Ngay lúc Quý Loan thúc thủ vô sách, chợt nghe có tiếng hắng giọng từ phía sau:
- Hà tất làm khó đứa bé tàn tật này, khiến nó sợ hãi?
Một lão giả gầy gò chậm rãi bước tới. Người hầu hai bên vội khom người hành lễ. Quý Loan hai mắt phát sáng, nói:
- Đại ca đêm muộn thế này không phải là đã sớm nhập quan thiền định rồi sao? Tiểu đệ không dám vì chút chuyện nhỏ mà làm phiền đại ca thanh tu!
Dư Cô Thiên lúc này mới biết lão giả trước mặt là Phong Lôi bảo bảo chủ Dịch Hoài Thu.
- Tâm tình bất an, nhập định cũng vô dụng... Chuyện này đúng là có chút cổ quái!
Dịch Hoài Thu tỉ mỉ quan sát thi thể, ho lên hai tiếng, ra lệnh cho hạ nhân:
- Đem thi thể này ra sau núi mai táng đi thôi, chôn sâu một chút, chớ để lại dấu vết!
Dứt lời khoát tay áo quay người bước vào trong đại sảnh.
Quý Loan lòng bối rối, dẫn Nam Nhạn và Dư Cô Thiên đi vào theo. Dưới ánh đèn sáng tỏ chỉ thấy Dịch Hoài Thu cau mày trầm tư, Quý Loan lòng trầm xuống, liếc qua Dư Cô Thiên, không nhịn được hỏi:
- Đại ca, Đan Thiên Mã này có gì không ổn sao?
Dịch Hoài Thu lắc đầu:
- Chuyện này nhất thời cũng khó nói rõ, nhưng hiện tại khiến ta lo lắng nhất là chủ nhân của Vô Ưu Tử, Hoàn Nhan Lượng! Kẻ này trước giờ dã tâm to lớn, mới đây đã soán vị đăng cơ, đoạt được thiên hạ đại Kim. Nghe nói y đang tích cực chiêu mộ thủ hạ, ngay cả đệ tử của Đao Bá là Bồ Sát Nộ cũng đã về dưới trướng y.
Dư Cô Thiên nghe nhắc tới Hoàn Nhan Lượng trong lòng liền nóng như lửa. Hắn đưa mắt nhìn kỹ lão giả trước mặt, người này gầy gò như vị la hán trong miếu, mái tóc xám bạc buông xõa, nếp nhăn trên mặt hằn sâu như có ai dùng đao khắc lên, hai con mắt lõm xuống như người bị bệnh nan y lâu ngày vậy.
- Hầy, đợi tới lúc y ổn định nội bộ, ngồi vững hoàng vị, đại Tống ta e gặp nguy mất!
Dịch Hoài Thu thở dài một hơi.
- Sợ là chẳng tới mười năm, Hoàn Nhan Lượng nhất định sẽ suất quân nam chinh.
Quý Loan nghe lời ấy mà kinh hoảng:
- Hiện nay triều đình ở giang nam đã bị lũ cẩu tặc Tần Cối thao túng, quan lại ngu dốt, chướng khí mù mịt, Nhạc nguyên soái thì đã mất, lấy ai mà chống lại thiết kỵ của người Kim?
Nam Nhạn nhìn Dịch Hoài Thu lo lắng như vậy bèn hỏi:
- Dịch bá bá, ngươi từng nói người Nữ Chân cả thảy chẳng qua cũng chỉ vài vạn, vì sao đại Tống ta hàng ngàn hàng vạn hảo hán lại sợ họ?
Dịch Hoài Thu lông mày khẽ run, ho khan một trận, cười lạnh đáp:
- Một là triều đình vô dụng, Triệu quan gia ( chỉ hoàng thất đại Tống) để mặc lũ loạn thần tặc tử hoành hành, khiến trung thần không còn chỗ đứng. Hai là đại Tống nhân khẩu đông đúc nhưng lại không có sự đồng lòng, trước giờ chỉ lo tính kế tranh đấu lẫn nhau. Đất nước đã như vậy, võ lâm cũng chẳng khác là bao, một lũ ngu xuẩn cả ngày chỉ biết chém giết lẫn nhau...
Nam Nhạn gật gật đầu, cười nói:
- Ta hiểu rồi. Vậy nếu có người đứng ra hiệu lệnh mọi người cùng nhau chiến đấu, hợp sức chống Kim chẳng phải là ổn rồi sao?
- Tiểu tử còn nhỏ tuổi mà hiểu được đạo lý này, khá lắm!
Dịch Hoài Thu hai mắt như phát sáng nhìn Nam Nhạn nói:
- Nói không sai, hảo hán đại Tống nếu đồng lòng đứng lên, trung nguyên dẫu lớn hơn nữa cũng chẳng còn chỗ dung thân cho quân Kim! Thực ra hơn chục năm trước cũng từng có một người liên kết được võ lâm, cùng nhau kháng chiến chống Kim...
Nói tới đó y dừng lại một chút, mục quang bỗng trở nên xa xăm.
Gió núi gào thổi qua lớp giấy dầu cửa sổ khiến ánh nến trở nên run rẩy dập dờn, chiếu lên khuôn mặt già nua của Dịch Hoài Thu lúc mờ lúc tỏ.
Nam Nhạn trầm tư, không nhịn được hỏi:
- Người ấy tên họ là gì? Nay đang ở đâu?
Dịch Hoài Thu thân thể hơi run lên, ánh mắt nhìn sang hiện lên một tầng mây mù, trầm giọng nói:
- Người ấy là một trong Phong Vân Bát Tu, được giang hồ xưng Kiếm Cuồng, Trác Tàng Phong. Mười mấy năm trước, hắn là Nguyệt Tôn Giáo Chủ của Minh Giáo, ở Đồng Tâm đàn một thanh Đằng Uy Thần Kiếm đánh bại tông chủ mười ba phái, khiến anh hùng hào kiệt hai bờ Hoàng Hà thành tâm quy phục, dùng "Tứ Hải Quy Tâm Minh" là danh xưng, quyết chí phá giặc Kim.
Nam Nhạn nghe tới xuất thần, tròn mắt nói:
- Dùng một thanh trường kiếm đánh bại anh hùng bốn phương, người ấy bản lĩnh thực lớn!
Dư Cô Thiên trong lòng bối rối, thấy Nam Nhạn nhìn mình cười thì cũng gật đầu cười bồi theo. Quý Loan từ đầu tới giờ chỉ nghe, nay cũng cười nói:
- Trác đại hiệp dùng võ công áp quần hùng là sự thật, nhưng để khiến chúng anh hùng hào kiệt đồng tâm hiệp lực thì võ công là chưa đủ. Quần hùng tôn Trác đại hiệp làm minh chủ không chỉ vì võ công, mà còn vì đức tính trượng nghĩa hào hiệp, trung quân ái quốc của ngài.
Trước mắt Nam Nhạn như hiện ra hình ảnh ngày hôm ấy, hán tử đứng trên đài cao, áo dài phất phơ, trường kiếm nghênh phong. " Có thể khiến quần hùng võ lâm quy phục, bậc anh hùng ấy rốt cuộc là người thế nào?!"
- Sau này Tứ Hải Quy Tâm Minh cùng Trác đại hiệp về dưới trướng Nhạc nguyên soái. Dịch bá bá của ngươi lúc ấy cũng là thủ hạ của Trác đại hiệp, cùng người vượt sông tiến lên phương bắc hỗ trợ nghĩa quân. Nghĩa quân có sự giúp sức của Tứ Hải Quy Tâm Minh khí thế mạnh mẽ như lưu tinh, nhân số chẳng mấy chốc đạt tới bốn mươi vạn, đánh đâu thắng đó không gì cản nổi. Nhạc nguyên soái được Trác minh chủ hỗ trợ thực như hổ thêm cánh... nếu không phải lũ gian tặc Tần Cối lộng quyền, chúng ta sớm đã có thể đón nhị thánh về triều rồi ( chỉ hai vị vua Tĩnh Khang).
Nghĩ về thời tráng niên hào hùng viền mắt y đã trở nên ướt át.
Dư Cô Thiên vẫn im lặng lắng nghe, hắn dường như biết Nhạc nguyên soái ấy, biết vị dũng tướng năng chinh thiện chiến ấy , ngay cả anh hùng của đại Kim Hoàn Nhan Tông Bật cũng mấy lần bại dưới tay y mà. Thì ra họ đều là bộ hạ cũ của Nhạc gia, đáng cười thay, ta một hoàng tử nước đại Kim cuối cùng lại chạy tới đây nương nhờ họ.
Căn phòng tĩnh lặng trong giây lát, chợt Nam Nhạn lên tiếng:
- Vị Trác minh chủ kia sau này thế nào?
Dịch Hoài Thu thân hình hơi chấn động, nhìn về phía Nam Nhạn đáp:
- Trác Tàng Phong trở thành minh chủ Tứ Hải Quy Tâm Minh, nhưng đã đắc tội với hai người. Người đầu tiên chính là Tần Cối. Minh chủ là cánh tay đắc lực của Nhạc nguyên soái, dĩ nhiên không đội trời chung với Tần Cối. Một người khác nữa là Nhật Tôn Giáo Chủ của Minh Giáo Lâm Dật Yên. Nhật Nguyệt Song Tôn của Minh giáo, luận địa vị Nhật Tôn Giáo Chủ còn trên Nguyệt Tôn Giáo Chủ một bậc, thiết nghĩ Trác Tàng Phong hắn lên làm minh chủ Tứ Hải Quy Tâm, vậy có khác nào chẳng coi Nhật Tôn Giáo Chủ ra gì? Bản thân Trác Tàng Phong muốn kháng Kim, song Lâm Dật Yên lại muốn thừa cơ chiến loạn chấn hưng Minh Giáo, sau này trong giáo liền chia thành hai phe phái một bên muốn hộ quốc, một bên muốn hộ giáo. Giữa hai người họ rốt cuộc có ân oán ra sao người ngoài chúng ta không biết được, chỉ biết cuối cùng Trác Tàng Phong dẫn theo vài thân tín rời khỏi giáo.
- Lúc đó là năm Thiệu Hưng thứ tám, Tần Cối nắm toàn quyền triều bính, kiêu căng phách lối vô cùng. Cẩu tặc ấy chỉ một lòng muốn cầu hòa với Kim, liền sắp đặt gian kế, đầu tiên triệt tiêu dần thủ hạ của Trác minh chủ, sau đó lại sai lũ ưng khuyển toàn lực truy sát ngài. Trác minh chủ thân cô thế cô, rốt cuộc mãnh hổ nan địch quần hồ...
Nam Nhạn nghe Dịch Hoài Thu nói tới đó thì âm thanh trở nên run rẩy, vội hỏi:
- Nói như vậy... lẽ nào Trác đại hiệp đã chết?
Dịch Hoài Thu trầm giọng:
- Có lẽ. Nghe nói sau khi bị truy sát, không còn ai nghe được tin tức gì về ngài nữa. Ta cũng đã nhiều lần phái người đi tìm nhưng chẳng thu hoạch được gì, e là ngài đã ngộ nạn...
Nam Nhạn trừng đôi mắt hắc bạch phân minh lên nhìn Dịch Hoài Thu, chợt nói:
- Vị Trác đại hiệp ấy là anh hùng vô địch thiên hạ, ngài sẽ không chết đâu!
Dịch Hoài Thu trên khuôn mặt già hiện lên nét cười:
- Phải, bậc đại anh hùng như ngài không thể chết dễ thế được, cũng có thể là ngài đã quy ẩn giang hồ mà thôi!
Trong lòng đứa trẻ như Nam Nhạn đương nhiên không muốn một bậc đại anh hùng cứ như vậy mà chết. Dịch Hoài Thu cũng không cùng hắn tranh cãi, cười khổ nói:
- Chỉ là Trác đại hiệp vừa rời đi, võ lâm lại chia năm sẻ bảy như xưa, cũng chẳng còn nhân vật nào đứng lên hiệu lệnh quần hùng như Trác đại hiệp nữa.
Nói xong thở dài một hơi, cảm khái vô tận. Nam Nhạn nhếch hai hàng lông mi dài mỏng lên, nói dõng dạc từ chữ:
- Đợi vài năm nữa, ta cũng sẽ giống như Trác đại hiệp, lại mở Tứ Hải Quy Tâm đại hội, liên kết hào kiệt bốn phương, đồng lòng đánh đuổi lũ cẩu Kim ra khỏi trung nguyên.
- Hài tử ngoan!
Câu nói của Nam Nhạn khiến Dịch Hoài Thu lòng chớp động, đôi mắt còn ướt không giấu được sự hân thưởng, duỗi cánh tay già nua nắm lấy vai hắn run giọng nói:
- Có thể nói ra những lời ấy, thực không uổng công Dịch bá bá dạy dỗ mấy năm nay...
Lão còn muốn nói gì đó nhưng lại bị cơn ho nặng nề ngăn lại. Ho thực mạnh, mạnh tới mức run rẩy cả tấm áo bào vàng như lá thu. Dư Cô Thiên nghe mấy người họ đối đáp, trong lòng vừa buồn vừa khổ, chẳng biết nên làm gì cho phải.
- Đại ca.
Quý Loan nghe tiếng ho ghê gớm quá mức bèn đứng lên nhẹ giọng nói:
- Vết thương cũ lại phát tác rồi à?
Dịch Hoài Thu gật đầu, cơn ho khiến lão không nói ra lời.
- Khụ khụ... Thương tích này mỗi ngày một nặng, cũng chẳng biết còn cầm cự được tới khi nào!
Quý Loan sắc mặt ảm đạm, vội khoát tay nói:
- Sắc trời đã muộn, đại ca nên nghỉ ngơi sớm một chút.
Dứt lời liền dẫn hai đứa trẻ rời đi.
...
Tối hôm ấy Dư Cô Thiên được sắp xếp cho một căn phòng. Phong Lôi bảo tuy nghèo nhưng khá rộng rãi, phòng ốc cũng không ít. Phòng hắn không lớn lắm, nhưng giấy dán tường khá sạch sẽ ưa nhìn, nội thất sắp xếp theo tập quán sống của người phương Bắc, dưới giường có bếp sưởi, nằm lên ấm áp dễ chịu lắm, so với những chùa miếu hoang hắn ngủ tạm mấy đêm trước thực chẳng khác chi thiên đường. Nhưng Dư Cô Thiên không ngủ được.
Lần đầu tiên trong đời hắn ngủ một mình. Nến trong phòng vẫn đang cháy. Dưới ánh nến dập dờn, Dư Cô Thiên nằm trên giường ngước đầu nhìn lên trần nhà màu ám vàng, nỗi sợ hãi, đau thương như nước biển tràn ngập ra lòng hắn, thế rồi chợt hắn kéo trăm chùm kín lấy mặt ô ô mà khóc.
Khóc một hồi tâm trạng Dư Cô Thiên rốt cuộc cũng tốt hơn chút, bỗng nghe ngoài cửa sổ vọng lại tiếng hô hét nhẹ. Hắn chậm rãi ngồi dậy, đưa mắt nhìn qua khe cửa, thấy một thiếu niên đang vung tay mua chân luyện võ công. Dư Cô Thiên lòng hiếu kỳ, bèn đẩy cửa đi ra ngoài xem. Trên bầu trời đêm mùa đông trăng khuyết rọi sáng cả một khoảng sân lớn, thiếu niên đang luyện võ chính là Nam Nhạn.
Nam Nhạn cũng đã nhìn thấy Dư Cô Thiên, hướng về phía hắn mỉm cười một cái, lại tiếp tục luyện quyền. Dư Cô Thiên nhận ra quyền pháp Nam Nhạn đang luyện, ấy là Phục Hổ Quyền, môn công phu nhập môn của đệ tử Thiếu Lâm. Môn Phục Hổ Quyền này truyền bá phổ biến khắp bắc nam, Dư Cô Thiên cũng từng luyện qua một thời gian.
Nhìn thêm một lát, Dư Cô Thiên không khỏi lắc đầu thở dài. Bộ pháp của Nam Nhạn không chút bài bản, quyền đánh ra cũng yếu ớt vô lực, đánh không được nửa bài quyền thì đã hồng hộc thở dốc, nhưng hắn vẫn tiếp tục chăm chú đánh ra từng chiêu từng thức. Tới chiêu cuối cùng Khoa Hổ Quy Sơn, sau khi xoay người đáng lẽ phải quét chân một vòng rồi thu thế, nhưng Nam Nhạn hai chân không đủ lực, cuối cùng ngã lăn ra đất.
Dư Cô Thiên hơi cau mày, muốn chạy qua đỡ, lại thấy Nam Nhạn đã xoay người đứng dậy, tiếp tục luyện lại một lần chiêu Khoa Hổ Quy Sơn ấy, lần này có vẻ đã rút kinh nghiệm, thân thể chỉ hơi nghiêng ngả một chút chứ không ngã.
- Xem ta mồ hôi nhiều chưa này!
Nam Nhạn thu quyền, phì phò cười nhìn Dư Cô Thiên, vừa nói vừa vỗ vỗ y phục trên người. Dư Cô Thiên cũng cười với hắn, thấy Nhạn Nam giữa trời đông chỉ mặc một chiếc áo mỏng, áo sớm đã ướt đẫm mồ hôi, đứng giữa gió lạnh mà dường như không lạnh.
Nam Nhạn cũng chẳng còn hơi sức mà lau mồ hôi đang chảy dầm dề trên mặt, hít một hơi dài nói:
- Dịch bá bá nói ta thể chất không hợp luyện võ, thân thể quá yếu ớt...
Nghe Nam Nhạn nói vậy Dư Cô Thiên lòng lại có chút vui vẻ. Thấy Nam Nhạn người ướt như vừa ngã xuống sông, bèn lấy khăn lau giúp hắn mồ hôi.
- Họ nói ta từ nhỏ đã nhiều bệnh tật, năm ba tuổi suýt chết vì bạo bệnh, may có vị hòa thượng từ nơi khác đi ngang qua, y sờ sờ đầu ta rồi nói cái gì mà " bách chiết bất náo, ngọc nhữ vu thành", sau đó giúp ta chữa gần như khỏi bệnh. Có điều thân thế ta quá mức hư nhược, động một cái là mồ hôi đầm đìa.
Vừa nói vừa tung chân đã văng một hòn đá.
- Ta chỉ mong hòa thượng kỳ quái ấy lại tới lần nữa, chữa khỏi hết bệnh cho ta, nhưng ông ta không tới nữa. Ta vẫn muốn tập võ, nhưng cứ luyện như thế này, vung tay múa chân bừa bãi thực chẳng làm nên tích sự gì.
Dư Cô Thiên thấy hắn thần sắc ảm đạm, trong lòng cũng có chút đồng tình: " Người thông minh hoạt bát như hắn không ngờ lòng cũng nhiều phiền muộn như vậy!"
- Hắc hắc, bách chiết bất náo, có trời mới biết ta rốt cuộc phải "chiết" bao nhiêu lần nữa mới thành được khối ngọc!
Vừa nói hắn vừa ngẩng đầu ngơ ngẩn nhìn lên trăng sáng, chợt đôi mắt đen nhánh chuyển qua người Dư Cô Thiên nói:
- Ngươi biết không, ta thường hay gặp một giấc mơ kỳ quái! Mơ thấy bản thân chạy vào trong một ngọn núi kỳ quái, nơi ấy có rừng có suối, có một người cực cao lớn cực anh tuấn, tay cầm thứ đồ vật đen sì, mục quang lấp lánh nhìn chằm chằm ta! Lần nào mơ tới đó ta cũng hoảng sợ mà tỉnh lại.
Dư Cô Thiên nghe y kể chuyện kỳ quái quỷ dị cũng cảm thấy rùng người, gióng lạnh vi vu thổi sau lưng khiến hắn bất giác rụt cổ vào trong áo.
Nam Nhạn có lúc một câu cũng lười chẳng muốn nói, lại có lúc nói mãi không dứt. Hắn lại nói:
- Dịch bá bá dạy chúng ta một môn thuần thú bí thuật. Dựa vào công phu này mỗi lúc rảnh rỗi ta lại chạy khắp sơn lâm, lão hổ, dã lang đều là bạn ta! Nếu không vào rừng chơi thì có thể đánh cờ, tiếc là Phong Lôi bảo chẳng có mấy người chịu cùng ta đánh cờ!
Nói tới đó mắt hắn bỗng sáng rực lên, duỗi tay kéo cổ tay Dư Cô Thiên kêu lên:
- Phải rồi, đi, ta đưa ngươi tới phòng ta chơi cờ!
Thực ra phòng hắn nằm ngay cạnh phòng Dư Cô Thiên. Dư Cô Thiên vừa bước vào phòng, nhìn khắp phòng toàn là cờ vây, không khỏi giật nảy mình. Trên ghế, trên bàn, thậm chí trên mặt đất cũng đầy các quân cờ, trên giường đặt một bàn cờ, trên bặt bày sẵn các quân cờ đen trắng lẫn lộn.
Dư Cô Thiên a lên một tiếng, chút nữa thì bật ra thành tiếng: "Ngươi thích chơi cờ thế sao?". Lúc ấy cờ vậy thịnh hành khắp thiên hạ, giới quý tộc nước Kim cũng rất chuộng thứ này, Hy Tông cũng có thể coi là một cao thủ cờ vây, mà Dư Cô Thiên hắn tự thấy bản thân đánh cũng không tồi. Ở chốn hoang lâm thâm sơn này nhìn thấy cờ vây, nhìn thấy có người thích cờ vây như vậy khiến Dư Cô Thiên có chút bất ngờ, lại có chút hoan hỷ.
Nam Nhạn thấy Dư Cô Thiên biểu tình hưng phấn như vậy, liền đắc ý nói:
- Dịch bá bá không cho ta luyện võ, nhưng lại rất thích ta chơi cờ.
Hắn kéo tay Dư Cô Thiên ngồi lên giường, cầm lên một quân cờ trắng bóng nói:
- Thứ này cũng thực khiến người ta say mê, đã chơi là chơi tới quên ăn quên ngủ. Cứ mỗi lần sinh nhật Dịch bá bá lại tặng ta một bộ cờ vây. Cờ trong phòng này đều là ngài ấy tặng.
Dư Cô Thiên nghe thấy hai chữ "sinh nhật" lòng lại đau như bị đau cắt. Sinh nhật, đêm trước ngày sinh nhật, bầu trời của hắn đã sập xuống, bản thân hắn như rơi xuống địa ngục. Ngày sinh nhật đầu tiên hắn phải lang bạt bên ngoài.
Sợ Nam Nhạn phát hiện bản thân lại rơi lệ, hắn vội cúi đầu nhặt lên một quân cờ, giả bộ nhìn ngắm cẩn thận. Có điều Nam Nhạn sớm đã phát hiện, lòng thầm nghĩ: "Phải rồi, Dư Cô Thiên là một đứa trẻ cô khổ, đến ăn còn chẳng đủ no, ta lại nói chuyện sinh nhật được người nọ người kia tặng quà, chẳng trách hắn buồn lòng như vậy!". Bèn cười:
- Ngươi biết chơi cờ không? Dịch bá bá nói ta là kỳ tài, trời sinh để chơi cờ. Người ở đây tính cả Dịch bá bá đều bị ta tàn sát, nhường bọn họ bốn quân họ cũng chẳng dám chơi. Ngươi chơi cùng ta, ta cũng nhường ngươi bốn quân.
Dư Cô Thiên từ nhỏ sống trong cung quen được người khác tâng bốc tán tụng, nghe Nam Nhạn nói lời ấy liền cảm thấy không phục, muốn lập tức bày cờ đánh cho tiểu tử này không còn manh giáp, nhưng lại nghĩ sư phụ Ải Tu La đã dặn " Giả ngốc giả câm", đành dằn lòng: " Ta hiện tại sống giữa ổ giặc, nên đặt an toàn lên hàng đầu thì hơn." Bèn cắn răng lắc đầu tỏ ý không biết chơi cờ, lại giả ngáp một cái tỏ vẻ mệt mỏi.
- Ồ, ta quên mất, ngươi đi đường dài e là đã mệt mỏi lắm rồi, vậy chúng ta nghỉ ngơi thôi!
Nói rồi thu thập bàn cờ, thổi tắt nến.
Hai đứa trẻ nằm song song trên giường. Nam Nhạn cầm quân cờ trên tay lật qua lật lại, chợt than:
- Thực ra cuộc đời ta còn khổ hơn ngươi, ít nhất ngươi biết thân thế của bản thân, ta thì ngay cả cha là ai, mẹ là ai cũng... Dịch bá bá nói ông nhặt được ta ở ngoài về, nhưng ta luôn cảm thấy ông giấu ta điều gì đó!
Dư Cô Thiên bị lời của y đánh động, trong lòng cũng trở nên buồn khổ, thở dài một hơi nghĩ thầm: "Thiên hạ còn có người khổ hơn ta sao? Bầu trời đại Kim đã thay đổi, ta nay đã như cá nằm trong lưới, sư phụ thì trọng thương chẳng hay tung tích...". Tiếng dã thú xa xa vọng lại, âm thanh không lớn nhưng đủ khiến lòng người lo lắng bất an.