Hàm Long Bảo Chủ Dương Khải Minh xưng hiệu Huyền Thủ Đàn Tinh, với tuyệt học gia truyền Hồi Phong Đàn Chỉ lừng danh thiên hạ , là một trong tam đại cao nhân công lực thông huyền bậc nhất ở Giang Nam. Sáu năm trước, phu nhân của ông qua đời vì ác bệnh cổ chứng trong can tỳ không cứu được . Dương Bảo Chủ có bốn người con. Trưởng nam Ngũ Hồ Tuấn Hiệp Dương Huyền Nguyên đã hơn ba chục tuổi, cùng hiền thê sinh được hai tiểu nhi, cả nhà sống chung với gia thân trong nội viện Hàm Long Bảo. Thứ nam Phi Vũ Du Long Dương Huyền Thái còn độc thân , đang phiêu lãng nơi quan ngoại . Hai cô con gái kế sau là Giang Hoa Bích Phụng Dương Huệ San và Vân Tiêu Ngọc Nữ Dương Thanh Tiên , tuy còn non trẻ mà đã có mỹ hiệu vang truyền, diễm danh hiển vọng . Ấy là do hai nàng từng đi theo phụ thân hành hiệp vài chuyến trên giang hồ, lại thêm mấy dịp được tháp tùng Dương Bảo Chủ đi dự hội võ lâm, nên anh hào khắp Trung Nguyên đều biết tiếng Nhị Kiều họ Dương.
Trong bốn môn đệ chính truyền của Hàm Long Bảo Chủ thì người lớn nhất mới hai mươi tư tuổi, đã hạ sơn hành nghiệp từ năm ngoái. Còn lại ba chàng đang thụ giáo là Chu Đình Tộ , Lưu Khánh Dung, Bàng Chí Đức, nay lại có thêm Phùng Gia Hào...
Theo qui lệ tổ truyền, các môn nhân sơ tuyển đã vượt qua nửa năm rèn chí , còn phải được Bảo Chủ khảo vấn và thực kiểm cơ chất trí tuệ, rồi mới quyết định cho nhập môn hay không. Sở dĩ vậy là do trải qua sáu tháng dài trong động kín tối tăm , có người đã suy phế thể năng thiên bẩm, gân cốt thoái nhược , hoặc mắc chứng si ám trở thành chậm chạp lãng trí, không đủ khả năng luyện võ.
Huyền Thủ Đàn Tinh rất vừa lòng lúc khảo định Gia Hào. Phong thái điềm tĩnh với thần sắc tươi rạng của chàng khiến Bảo Chủ thêm ưng ý. Từ trước, ông đã nghe Dương tổng quản với con gái cưng tán dương thiếu niên này, giờ đây nhìn thấy chàng trai đúng là nhân tài hiếm dị, tư chất còn trội hơn bốn đồ đệ trước, ông thầm vui mừng vì có thêm môn nhân kế truyền tuấn hảo.
Sau khi Gia Hào làm lễ bái sư và ra mắt mọi người trong nội viện , Thanh Tiên liền kéo tay chàng đi , hớn hở nói:
-Tiểu sư đệ ! Hãy đi theo ta.
Hiện thời đang giữa tháng chạp , trời tạnh ráo mà lạnh tê, mọi người phải mặc áo ấm đội mũ trùm. Nàng dẫn Gia Hào ra ngoại viện , tới Xảo Nữ Đội chọn lụa tốt, đo may thêm trang phục cho chàng. Nàng bảo:
-Mấy bộ áo quần khăn giày mới ta đã đưa cho ngươi hôm trước với cả khăn màn... nếu ngươi không thích thì đổi lại...
Gia Hào lắc đầu:
-Sư tỷ đã ban đồ tốt... Tiểu đệ chẳng muốn đổi.
Chàng đáp vậy là do ngây khờ chất phác nên chỉ nghĩ vật dụng còn mới thì chẳng cần thay, nhưng Tiểu Tiên cảm nhận ý vị khác, cứ ngỡ Gia Hào thích giữ lại những gì nàng đưa cho . Câu đáp của chàng nghe như thầm tỏ bày lòng mến mộ . Nàng ửng hồng đôi má, đôi mắt đen láy nhìn Gia Hào dịu lời hỏi:
-Ngươi cũng thích các bộ phục trang ấy à?
Chàng gật đầu. Nàng lộ ý quan hoài thân thiết:
-Trước hôm ngươi xuất động , ta lựa mãi mới chọn ra kiểu y phục thư sinh màu ngọc lam đó... Quả là ngươi mặc vào trong rất hợp . Ngươi đã đến tuổi búi tóc đội mũ văn nho, phong tư lại thanh nhã, nên mặc như thế này vừa tương xứng mà nhìn cũng đẹp ...
Gia Hào vốn chẳng quan tâm chuyện đẹp xấu như người bình thường , giờ nghe nàng nói sao biết vậy. Tiểu Tiên kéo chàng rời Xảo Nữ phòng, đi tới chỗ trại mộc của Công đội . Nàng nói:
-Ở đây có nhiều loại bàn ghế tủ giường kiểu lạ . Ngươi ưa cái nào cứ chọn lấy, rồi ta bảo gia nhân mang giúp về để ngươi bài trí lại tư phòng theo ý thích...
Gia Hào cũng như các sư huynh đồng môn , mỗi người được ở một gian riêng trong biệt xá nằm cuối nội viện Hàm Long Bảo. Từng gian ngăn đôi thành phòng ngủ với phòng ngoài có đầy đủ vật dụng sinh hoạt , cả kệ sách án thư và giấy bút nghiên mực cũng không thiếu. Đúng ra những chuyện lo liệu quần áo chăn màn, đồ đạc phòng ốc cùng những thứ cần thiết cho môn nhân là do tỳ bộc đảm trách theo lệnh Tổng quản, chỉ vì Tiểu Tiên ưu ái sư đệ nên nàng giành hết việc , lại tỏ ý biệt đãi chàng, cho tùy tâm lựa đổi món đồ ưa thích.Chàng được ái nữ của sư phụ chăm sóc dĩ nhiên hưởng nhiều tiện nghi thuận lợi . Phúc phận này lắm người mong ước, còn Gia Hào vẫn thờ ơ đáp lời Tiểu Tiên :
-Đa tạ sư tỷ. Tiểu đệ dùng đồ cũ vẫn tốt mà...
Nàng hếch mặt:
-Này... sao ngươi cứ quen mồm đa tạ vậy chứ. Từ nay đừng khách khí với ta như thế nữa. Ta có trông chờ ngươi cảm ơn đâu. Chỉ cần ngươi luôn nhớ... à...
Nàng định bảo “luôn nhớ đến ta...” nhưng chợt thấy ngượng ngùng nên vội đổi lại:
-Nhớ vâng theo ý ta là tốt rồi.
Chàng đáp chắc giọng:
-Sư tỷ dặn thế tiểu đệ xin ghi lòng.
-Ừ... ngươi đã nói thì chớ quên.
Lát sau nàng tiếp lời:
-Ngươi biết không... khi trước các sư huynh nhập môn đều do đại ca hướng dẫn công phu sơ khởi, qua một năm sau gia phụ mới đích thân chỉ giáo... Riêng ngươi từ buổi đầu gia phụ muốn tự mình truyền dạy... ấy là ân điển ngoại lệ đó. Lão nhân gia xem ngươi bằng biệt nhãn... ta thật thỏa lòng...
Nàng mỉm cười rồi lại nói:
-Võ học thượng thừa của Hàm Long Bảo quan trọng nhất là Thiên Nguyên tâm pháp chuyên luyện nội công, phải tu tập lâu dài mới thành. Còn tuyệt kĩ đối chiến khắc địch thì có Hồi Phong Đàn Chỉ, lại thêm hai bí công dị ảo là Văn Xương Diệu Thức với Tỏa Tâm Thần Xướng. Hai môn này xuất phát từ thư pháp và ca âm, nên trước hết phải luyện chữ tập hát theo bài bản tổ truyền, rồi sau đó mới học yếu quyết vận dụng...
Nàng chuyển giọng hớn hở:
-Ta đã xin gia phụ... cho phép ta dạy ngươi bước khởi đầu... như tập viết thảo bản, hát thuộc Cổ Tử từ với Chư Cung điệu... Hôm nay ngươi được nghỉ ngơi, mai bắt đầu học cùng ta ban ngày, còn buổi tối gia phụ dạy ngươi luyện công... Tiểu sư đệ! Giờ đang rảnh rỗi, ngươi tính làm chi đây?
-Đệ muốn ra ngoài thưởng ngoạn quanh Bảo...
-Hay lắm... Vậy ta đi với ngươi.
-Tiểu đệ muốn thăm thú một mình.
-Không được... Ngươi còn lạ cảnh, chưa quen lối e dễ lạc. Để ta dẫn đường cho...
Gia Hào có việc cần đi riêng nhưng giờ đây khó lòng từ chối, đành cùng với Tiểu Tiên bước ra đại môn Hàm Long Bảo, thả bộ theo sơn đạo rộng vắng dưới trời đông âm u.
Hiện thời trí não Gia Hàokhá thông biến linh hoạt, tuy vẫn còn thiếu cảm xúc. Chàng đã biết suy nghĩ ứng phó khi lâm sự. Lúc này dáng chàng như đang nhìn ngắm phong cảnh, nhưng thật tâm chàng muốn ra ngoài Bảo không phải vì mục đích thưởng ngoạn. Đó chỉ là lý do để che giấu ẩn tình.
Hai người sóng vai bước chậm xuống đèo Trúc Khê. Nơi này có tên Huyền Nhai Hạ. Từ mé đường xuống chân núi toàn vách đá trơn trượt dựng nghiêng, lởm chởm cây bụi thấp. Bên dưới là dòng Tư Giang cuộn chảy về hướng đông, thông tới hồ Động Đình ở Nhạc Dương xa thẳm. Triền núi cao phía trên Huyền Nhai um tùm thảo mộc, lẫn khuất khói sương. Hôm nay gió Bắc đã dịu yếu, thổi phớt qua từng cơn nhẹ nhàng. Đợt tuyết mỏng hồi đêm phủ trắng các đỉnh non xa. Những vạt rừng xanh sáng huyền ảo trong ánh ngày đông tạnh. Quang cảnh trông đẹp mơ màng...
Gia Hào với Tiểu Tiên xuôi dọc đường núi, đến một cây cầu gỗ bắc qua bờ khe hẹp. Nguồn nước dưới lòng khe róc rách chảy ngang mặt đèo, tuôn xuống vách đá đổ vào Tư Giang. Gia Hào chợt nói:
-Sư tỷ... Đệ muốn theo bờ suối lên núi chơi...
Tiểu Tiên gật khẽ:
-Tùy ý đệ...
Họ leo mấy đoạn dốc men bờ khe quanh co, lên tới một hẻm núi nhỏ thanh u kín khuất, hai bên triền mọc dày cổ thụ. Tại đây lòng suối mở rộng phẳng bằng, nước lượn lờ bốc hơi trắng mỏng, nhiều mô đá rải rác trồi lên. Gia Hào ngồi xuống một tảng nham thạch thấp bé cạnh gốc lê rừng. Tiểu Tiên đứng bên chàng nhẹ bảo:
-Chắc ngươi mỏi chân rồi... Cứ ngồi đây mà nghỉ một lúc cho khỏe...
Nàng tiếp lời hỏi chàng:
-Ngươi cảm thấy chỗ này ít lạnh phải không?
Chàng gật đầu. Tiểu Tiên nói:
-Ấy là vì đáy khe thông nguồn nhiệt thủy trào lẫn dòng suối, nhờ đó hơi ấm tỏa ra... Ngươi cứ nhìn mặt nước lên hơi trắng thì rõ. Ở đây nhiệt thủy còn yếu... chỉ làm nước khe bớt lạnh đôi chút thôi. Trong vùng núi quanh đây có mấy nơi suối nước nóng phun trào rất sung mãnh, nước như sôi vọt lên. Hôm nào ta dẫn ngươi đi xem thỏa thích.
Nàng bỗng chỉ tay kêu khẽ:
-Sư đệ... hãy nhìn chim uyên ương kìa...
Từ vũng nước trong đám cỏ sậy bên bờ hẻm, mấy cặp chim bơi ra giữa suối. Chắc là đến lúc chúng hoạt động sau khi nghỉ ngơi. Từng đôi chim tách riêng cùng ngụp lặn bắt mồi, có cặp đùa giỡn đuổi nhau làm tung bọt sóng, tạo thành bức tranh hý thủy ngoạn mục. Tiểu Tiên nhẹ giọng hỏi:
-Ngươi đã gặp giống chim đó bao giờ chưa?
Gia Hào đáp:
-Chưa...
Tiểu Tiên nói:
-Đây là loài thủy cầm cỡ vừa, chim đực kêu bằng “uyên”, chim cái thì gọi là “ương”, còn có tên chung là “sất điểu”, chúng sinh nở tại miền Hoa Bắc...
Nàng chăm mắt ngó ra mặt khe, vừa tiếp lời:
-Ở phương Nam như vùng của mình không dễ gặp chúng đâu. Tới mùa đông loài chim này mới bay về đây tránh rét, mà chỉ tìm đến những nơi núi rừng có suối khe ấm áp nhiều thức ăn...
Nàng lại nói rõ cho Gia Hào biết lông chim uyên đực có nhiều màu, rực rỡ đẹp mắt hơn chim ương cái. Đầu và trán con đực óng ánh sắc xanh, trên gáy mọc lông mào dựng đứng với ba màu biếc, trắng, đỏ. Sau mắt nó như vẽ diềm bạc, dưới ức mượt tím, phía bụng mịn ngà, còn lưng thì lông trắng viền đen. Kỳ lạ nhất là trên cánh chim có cặp phiến lông hình quạt màu vàng sẫm dựng thẳng lên, hai mặt trước sau đều viền nâu đậm chẳng khác gì cánh buồm tinh xảo, gọi là “lông tương tư”. Chim ương cái thân hình nhỏ hơn con uyên đực, mặt lưng màu xám, bụng trắng nõn trông rất thanh khiết tú nhã... Loài uyên ương cực kì chung thủy với bạn đời, từng đôi trống mái luôn ở bên nhau chẳng khi nào rời xa...
Tiểu Tiên ngừng lời, dõi mắt ngắm một đôi chim nghẹo cổ vào nhau tình tứ, thả mình trôi nổi trên mặt khe vờn khói mỏng mơ. Trong lòng nàng gợn lên niềm xao xuyến vi diệu, bất giác nàng nhìn qua Gia Hào, ánh mắt lưu lộ đượm vẻ dịu dàng khó tả. Chàng ngốc vô tâm hững hờ, chợt đưa tay chỉ lên một tàng cây vân sam ở bên kia bờ suối, cất lời bảo Tiểu Tiên:
-Sư tỷ... Trên cây kia mọc chùm hoa lạ chưa...
Nàng chú mắt nhìn theo rồi đáp lời:
-À... hoa phong lan đó. Nó bám rễ vào thân cây lớn mà sống nhờ... Chùm hoa này màu trắng bạc, chắc là loại “Túy Dạ Hồng”.
-Sao lại có tên ấy?
-Vì khi đổ chút rượu lên rễ nó vào ban đêm, cánh hoa sẽ chuyển sắc hồng như mặt người say... Nếu đúng loại lan này thì quý thật.
-Sư tỷ qua đem nó xuống đây được không?
Gia Hào hỏi vậy bởi chàng đã từng thấy Câu Hồn Băng Nga bay nhảy dễ dàng, nên chàng nghĩ Tiểu Tiên cũng thế. Nàng mỉm cười:
-Được chứ... Ngươi muốn có cây hoa đó à?
-Đệ thích mang nó về...
Chàng chỉ mượn cớ bày việc, không phải thật tâm. Nàng gật đầu nói:
-Hoa lan đẹp cao nhã mà thơm bền tươi lâu, cả tháng mới tàn... Đem treo nó trong phòng thì tuyệt... Để ta đi lấy cho ngươi...
Lời vừa dứt, thân ảnh nàng tung lên như thiên nữ đằng vân. lướt tới bờ khe hạ chân xuống rồi tiếp tục phóng ra giữa dòng suối, điểm mũi giày lên các mô đá trồi mà vọt qua bờ bên kia. Khi Tiểu Tiên đi rồi, Gia Hào vội xổm người trên đất, xô tảng đá nhỏ mình đã ngồi cho nghiêng hở lên khỏi nền. Chàng lẹ thò tay vào kẽ hở, lấy ra một bình sứ bằng quả trứng vịt cất nhanh vào trong áo, xong liền đặt tảng đá xuống lại, ngồi lên đó như cũ. Cùng lúc ấy Tiểu Tiên vừa đến dưới gốc vân sam cao vút. Nàng vọt thẳng người, dùng Niêm Bích Long Trảo bấu tay vào thân cây, trèo nhanh thoăn thoắt tới ngọn. Sau khi tách rễ lan khỏi cây chủ, Tiểu Tiên ôm cả bụi hoa nhảy xuống đất nhẹ nhàng, quay về chỗ Gia Hào đang ngồi. Nnàg không hay biết gì việc chàng lấy bình sứ dưới tảng đá. Đó là bình đựng thủy dịch ngăn chống độc chất của nội đơn Độc Giác Thiềm Thừ. Vào hôm Xích Thế Diêm Quân đưa chàng tới Hàm Long Bảo, lão ma đã dẫn chàng lên hẻm này, làm dấu riêng trên tảng đá nhỏ ấy và dặn:
-Ngươi phải nhớ kĩ... sau khi ngươi bái sư thụ giáo, hãy sớm tìm dịp quay lại đây, giở tảng đá lên mà lấy bình thuốc kháng độc ta cất sẵn bên dưới... Việc này nên cẩn thận, không được để ai nhìn thấy. Cách dùng thuốc ngừa độc ngươi biết rõ rồi. Thiếu nó thì không thể lấy nội đơn. Nhưng hiện thời ta chưa muốn giao thuốc cho ngươi... là để tránh bị thu giữ hay làm mất nó khi ngươi chưa được vào nội viện...
Giờ đây chàng đã thực hiện lời dặn của lão ma, chỉ còn chờ cơ hội tiếp cận nội đơn trong tư thất Bảo Chủ...
Tiểu Tiên mang bụi hoa tới đưa cho Gia Hào , vui vẻ nói:
-Đúng là loại “Túy Dạ Hồng Lan” quý hảo. Ngươi cũng hên vận đó!...
Chàng đón nhận cây lan , nghiêm cẩn đáp lời:
-Nhờ tay sư tỷ mới lấy được nó, không thì chịu ... Vì đệ mà sư tỷ nhọc công qúa...
Nàng cười tươi:
-Chút sức mọn đáng chi. Ngươi chớ bận lòng...
Rồi Tiểu Tiên chuyển giọng nghiêm trang nói:
-Sư đệ! Trước kia ta từng hứa khi nào ngươi nhập môn chính thức là sẽ có qùa riêng đưa tặng.Tiện đây ngươi hãy nhận nó luôn...
Nàng lấy trong mình ra một tập sách mỏng cho Gia Hào, khẽ giọng bảo:
-Ngươi cất đi... đừng để ai hay biết. Lúc rãnh hãy tìm chỗ vắng người, đem nó ra học kĩ, rồi ta sẽ bày cho cách vận dụng...
Gia Hào cẩn trọng giấu món quà vào trong áo, vừa lên tiếng hỏi nàng:
-Sách gì thế sư tỷ? Sao trên bìa không thấy tên...
-Ấy là bí lục chép Phiêu Tinh mật quyết... dạy thân pháp hành bộ thượng thừa. Tuyệt học này rất ảo diệu, chẳng thua gì thần kĩ khinh công nổi tiếng của hai phái Côn Luân và Thiên Sơn... Các cao thủ giang hồ đều thèm muốn nó... ngươi chớ xem nhẹ... Hãy học thuộc hết rồi trả sách lại cho ta.
Nàng tiếp kể sơ qua lai lịch của tập mật quyết. Nguyên ông ngoại của nàng hiển danh tôn chủ Ngân Ngõa Thần Cung ở Đông Hải, chỉ sinh được một trai nối dòng và một gái là mẹ nàng. Lão cung chủ vì thương quý cháu ngoại mà cho riêng bốn anh em nàng mỗi người một thứ kì bảo. Phần Tiểu Tiên được ông trao cuốn Phiêu Tinh mật quyết với lời dặn:
-Ta đã đem cổ khí thần binh tặng ba cháu kia, còn bé út ngươi hãy thụ lĩnh vật này... Nó là một tuyệt kĩ trong võ học bổn Cung, theo quy pháp thì cháu ngoại không được phép luyện dùng. Nay ta phá lệ ban riêng, ngươi cứ tùy nghi sử dụng. Ta cũng không cấm ngày sau ngươi truyền nó cho ý trung nhân, có điều nên cẩn thận đừng trao lầm cho kẻ xấu ác ma tà...
Hiển nhiên Gia Hào không phải hạng tà ma, lại được cha nàng thu làm đệ tử, nàng nghĩ chàng xứng đáng nhận món quà quý này... Giờ đây Tiểu Tiên hồi tưởng lại lời ông ngoại năm xưa, nghĩ đến ba tiếng “ý trung nhân” ứng hợp tâm tình thầm kín, lòng nàng dậy lên niềm rạo rực, khuôn mặt ửng hồng. Nay kể lại cho Gia Hào nghe những lời dặn ấy, nàng ngượng ngùng đổi “ý trung nhân” thành hai tiếng “bằng hữu” thông thường, rồi tiếp tục nói lãng qua chuyện khác để che giấu cảm xúc... Nàng lược kể về gốc gác dòng họ mình, khởi đầu từ viễn tổ Dương Vân Tùng là một nhân vật truyền thuyết. Trong các sách Nghệ Văn Chí và Cổ Kim Đồ Thư có ghi tên tuổi hành trạng của ông. Mấy trăm năm trước Dương Vân Tùng làm quan to dưới triều vua Hy Tôn nhà Đường, nhiệm chức Kim Tử Quang Lộc Đại Phu, đảm trách Chưởng Linh Đài Địa Lý Sự. Khi phiến quân Hoàng Sào đánh phá kinh đô Trường An, trong cảnh hỗn loạn Dương Vân Tùng lấy được cuốn kì thư Thiên Nguyên Bí Thuật ở nội cung Hoàng Đế, rồi đi về miền nam tránh bọn giặc cuồng. Nhờ cuốn sách đó mà ông trở thành đại sư phong thủy lừng tiếng và luyện được chút ít võ công... Lúc Dương Vân Tùng đến Thiệu Dương Hồ Nam qua đèo Trúc Khê , nhìn thấy một đoạn núi là Huyền Nhai hiểm trở, bên dưới cuộn dòng Tư Giang chảy bọc, ở phần giữa vách đá lõm cong vào một khoảng rộng sâu, trong vạt lõm này có huyệt khẩu nằm ngang chỉ hẹp cỡ gang tay như miệng rồng mở hé, ông tin tưởng đó là bảo địa phong thủy, nếu hài cốt tiên tổ họ Dương được táng vào nơi này thì ngày sau dòng dõi thịnh phát , tử tôn phú quý đại hiển. Nhưng địa thế Huyền Nhai trơn trượt cheo leo, mà huyệt khẩu lại nằm trong chỗ vách lõm khó lòng tiếp cận ,vì vậy ông nghĩ cách luyện ngón tay búng hất những viên bùn nhỏ đi thật xa và trúng đích, từ đó sáng tạo ra công phu Hồi Phong Đàn Lực... Khi đã luyện xong tuyệt kĩ, ông đem di cốt thân sinh tán mịn rồi trộn nước vo lại thành nhiều viên nhỏ, ông cột dây treo mình trước chỗ vách lõm giữa Huyền Nhai, dùng ngón tay búng từng viên di cốt cho rơi lọt vào huyệt khẩu không sót viên nào... Qua vài trăm năm sau , một người cháu kế tự nhiều đời của Dương Vân Tùng trở lại đèo Trúc Khê xây dựng Hàm Long Bảo, tạo thanh danh lừng lẫy giang hồ, truyền tới chủ nhân hiện nay là Huyền Thủ Đàn Tinh... Kể đến đây , Tiểu Tiên mỉm cười nói:
-Dù viễn tổ dòng họ ta là đại sư phong thủy, ta cũng không tin việc táng cốt cha ông trúng bảo địa thì con cháu hiển vinh. Theo ta nghĩ công danh sự nghiệp là do tài sức bản thân tác tạo, không phải nhờ mạch mộ đời trước mà có. Còn những người may mắn kế thừa quyền vị phú quý từ cha mẹ... nếu chỉ biết an hưởng không lập chí phát dương nghiệp nhà... thì đó là kẻ tầm thường sống uổng! Ngươi thấy ta nói vậy có đúng chăng?
Gia Hào gật đầu im lặng. Chàng tỏ vẻ tán đồng như thế là do phản ứng tự nhiên, chứ thật tình đâu nhận thức rõ cái lý đúng sai trong lời nàng. Chàng cũng chẳng có cảm thụ chi về ý nghĩ khoáng đạt của sư tỷ, không thấy rằng một cô gái non trẻ như Tiểu Tiên mà nói những lời đó quả là đáng phục!
Hai người lặng ngắm cảnh khe. Qua lát sau nàng lên tiếng hỏi:
-Này... ngươi còn muốn ngồi đây chơi hay đi tiếp nữa?
Gia Hào ôm bụi lan đứng lên nói:
-Thôi... tiểu đệ muốn về.
-Vậy thì đi...
Những ngày cuối đông trôi qua êm ả. Gia Hào sống trong nội viện Hàm Long Bảo theo nề nếp mới. Từ đầu canh một mỗi đêm chàng tới Luyện Công Thất gặp Bảo Chủ sư phụ, nghe giảng về yếu quyết tu tập Thiên Nguyên tâm pháp, học đồ hình kinh mạch toàn thân, rồi tĩnh tọa điều khí theo khẩu quyết đã được truyền thụ, đến cuối canh hai chàng mới được nghỉ, trở về phòng riêng. Còn ban ngày hai buổi chàng tới Đại thư phòng học viết tập ca với sư tỷ... Tất nhiên cách dạy của Tiểu Tiên khác hẳn Câu Hồn Băng Nga. Về thư pháp, khởi đầu nàng đặt lên bàn tờ giấy có in phỏng lại một phần chân tích Tán Loạn Thiếp của Vương Hy Chi đời Đông Tấn. Nàng bảo Gia Hào ngồi tĩnh định quan sát kỹ từng nét chữ cho tới khi nhập tâm. Sau đó nàng đem một cây bút lông to cở cây sáp vừa, bảo chàng cầm nó theo kiểu nắm cán dao, chấm mực rồi đứng thẳng người nhắm mắt, viết chữ lên một tờ giấy trắng rộng treo sát tường, dạng chữ lớn nhưng phải theo đúng mẫu trong bản thiếp chàng đã xem. Cứ tập như thế nhiều lần, hết giấy thì thay tấm mới, đến khi các chữ viết ra nhìn khá giống mẫu thiếp là tạm được. Nói thì dễ chứ thực hành rất khó, vì cách cầm bút khác thường, lại phải nhắm mắt, mà lối thảo thư của các danh gia như họ Vương có thần khí xuất kì, muốn viết cho đạt theo mẫu cần tốn công nhiều mới nắm bắt được phong thế liên thông của các nét chữ.
Chàng học viết xong toàn bộ Tán Loạn Thiếp, đến Tự Tự Thiếp của Hòai Tố, Cuồng Thảo của Trương Húc thời Đường... rồi lần lượt tập qua các mẫu thảo thư nổi tiếng khác nữa. Tiểu Tiên dặn chàng:
-Phải luyện cho đường bút phòng túng lăng lệ như không dụng công tô điểm, nét chữ liên miên hào khoáng, khí thế lâm ly mà bên trong ẩn tàng pháp độ thượng thừa... Vậy mới xem như đạt thành bước sơ khởi...
Về thanh xướng thì mấy ngày đầu nàng dạy chàng hát sơn ca như các bài Tân tư hà bao (Bao lưng mới thêu), Mạt lê hoa (Bông nhài), Khôi hoa kỉ thời khai... theo thể xuân điệu bốn câu, với cách nhả hơi đảo giọng nghịch thường. Tiếp theo chàng học những tiểu khúc gọi là “tỳ trù”. Thể dân ca này so với sơn ca thì cân đối hoàn chỉnh hơn, tiết điệu uyển chuyển tinh tế, như các khúc Khô địa cảnh, Điệp đoạn Kiều, Mã đầu điệu... Gia Hào khoái nhất là Tiểu Tiên vừa tập thanh xướng cho chàng, vừa đánh đàn cầmtheo giọng hát rất điêu luyện du dương. Qua mấy hôm nàng bày Gia Hào cách chơi đàn. Sau nửa tháng chàng đã diễn tấu được bài “Phiếm thương lãng” khá thạo, khiến nàng phải vỗ tay tán thưởng. Nhờ trí nhớ cường kiện và tâm ý thanh tĩnh thuần khiết nên chàng tiếp thu mọi điều rất mau. Cả Bảo Chủ cùng Tiểu Tiên đều tỏ lời khen ngợi. Gia Hào học luyện chăm chỉ, không giao tiếp với ai ngoài sư tỷ sư phụ. Khi gặp các sư huynh hay ngừơi nào khác, chàng lễ chào rồi đi, không lân la trò chuyện. Nếu ai có hỏi han thì chàng cung cẩn trả lời ngắn gọn nghe dễ chán. Mọi người đều nghĩ là Gia Hào siêng năng trì chí, bảntính điềm đạm khiêm hòa. Huyền Thủ Đàn Tinh thêm thương quý tiểu đồ đệ. Cô sư tỷ diễm tú càng mến trọng chàng. Thỉnh thoảng nàng đưa Gia Hào ra ngoài Bảo thưởng ngoạn quanh vùng. Nàng đã thầm trao hết lòng mình cho chàng ngốc...
HỒI THỨ MƯỜI HAI
THIẾU NIÊN LÂM HỌA BỞI HỜN TÌNH
Trong nội viện Hàm Long Bảo, Gia Hào là đệ tử mới nhập môn thụ giáo nên thời khóa học luyện của chàng khác hẳn ba vị sư huynh, bởi thế chàng được sư phụ cho phép dùng cơm trong phòng mình do hầu tỳ mang đến, không phải sang thực phòng ăn chung với ba đồng môn. Họ cũng rất ít khi gặp mặt Gia Hào. Ngoài những lúc cần mẫn học hành tu tập, chàng trở về tư thất nghỉ ngơi chẳng đi đâu hết. Tới gần khuya chàng âm thầm ôn luyện Hóa Ngọc Công và Toản Tiêm Thần Chưởng trong phòng riêng đóng kín cửa rèm. Khi ấy Gia Hào chỉ diễn lại chiêu thế vận chưởng chứ không xuất kình lực, nên không gây ra tiếng ồnlàm kinh động người khác. Đêm nào cũng vậy, qua hết canh ba chàng mới đi ngủ...
Sau hai tháng chuyên cần tĩnh tọa hành công theo yếu quyết của sư phụ truyền dạy, Thiên Nguyên chân khí trong người chàng đã sinh triển căn cơ. Huyền Thủ Đàn Tinh bảo chàng:
-Không ngờ ngươi tiến nhanh vậy. Các sư huynh của ngươi luyện tâm pháp bản môn phải mất cả năm mới đạt như thế... Thật đáng mừng! Vài hôm nữa ngươi bắt đầu tập các công phu quyền cước sơ đẳng...
Còn Tiểu Tiên thì vui vẻ nói:
-Ngươi học gì cũng mau lẹ... quả là nhân tài thiên sinh! Theo quy định từ trước, các đệ tử chính truyền phải qua hai năm rèn tập những môn sơ đẳng, rồi mới luyện bí kĩ thượng thừa, cứ tuần tự nhi tiến, dựa vào lòng kiên trì mà đạt thành tựu. Dù gia phụ có ưu ái ngươi cũng không phá lệ đem tuyệt học dạy sớm... Phần ta rất muốn giúp ngươi tận dụng thời gian... Từ nay ta mật truyền cho ngươi yếu quyết Hồi Phong Đàn Lực, Văn Xương Diệu Thức với Tỏa Tâm Thần Xướng... mà ngươi phải dấu kín việc này, tuyệt không cho ai biết... nhớ chưa?
Từ đó mỗi sáng hàng ngày Tiểu Tiên đưa Gia Hào ra ngoài Bảo, tìm chỗ vắng diễn truyền công phu cao diệu của gia môn và cả tuyệt học Phiêu Tinh thân pháp. Nàng bảo sư đệ:
-Chỉ cần ngươi hiểu rành cách thức vận khí xuất kình, thi triển chiêu thức cho biến hóa nhuần nhuyễn,rồi về sau sẽ đắc dụng. Bất kì môn võ nào cũng do nội lực mạnh hay yếu mà đạt kết quả cao hay thấp. Như Phiêu Tinh thần pháp của ngươi hiện giờ chỉ mới phóng cao nửa trượng, nhưng đến khi ngươi luyện thành Thiên Nguyên chân khí, ắt sẽ vượt lên quá một trượng mà phi hành tựa sao sa...
Việc Tiểu Tiên lén dạy mật kỹ cho Gia Hào trước thời định là phạm vào gia quy, nếu Bảo Chủ phát hiện tất không tha thứ. Nàng cũng hiểu vậy nhưng bởi đậm tình yêu thương Gia Hào, chỉ mong giúp chàng mau thành tựu công phu. Hơn nữa, nàng nghĩ rằng phụ thân vốn cưng chìu mình, chắc không đến nỗi trách phạt nặng, cùng lắm thì nàng chịu quản thúc biệt giam vài tháng là êm xuôi cả...
Thời gian trôi mau, Gia Hào đã sống ở nội viện Hàm Long Bảo được hơn bốn tháng rồi, chàng vẫn chưa tìm ra cơ hội lấy nội đơn. Trở ngại chính do Huyền Thủ Đàn Tinh hiếm khi rời khỏi tư thất. Theo lời Tiểu Tiên nói cho chàng hay, hiện nay phụ thân nàng ít khi ra khỏi phòng là bởi ông đang bận tham cứu võ học tuyệt phàm để sắp tới đi dự hội Luận Võ tại núi Lang Nha với chưởng môn các gia phái. Về phần Gia Hào cũng khó xoay sở vì không mấy khi chàng được ở một mình tự do. Ban ngày thì Tiểu Tiên luôn cận kề. Buổi tối chàng phải tới phòng Luyện Công thụ giáo với sư phụ, tuy nơi ấy rất gần tư thất Bảo Chủ, muốn lẻn vào lấy nội đơn cũng thuận lợi dễ dàng, nhưng có mặt ông bên cạnh làm sao chàng ra tay? Tới đêm khuya thì Huyền Thủ Đàn Tinh ngủ tại giường, tất nhiên chàng không thể hành sự liều lĩnh. Còn khi có việc đi xa, ông mang nội đơn theo trong người
Lúc này đang tiết Lập Hạ, sắp đến rằm tháng tư. Ở miền bình nguyên khí trời chuyển qua khô nóng, nhưng tại vùng non cao như đèo Trúc Khê vẫn còn mát mẻ. Gặp buổi đêm trăng thanh gió nhẹ, cảnh núi rừng nơi đây đẹp say hồn. Cây cỏ lung linh với sao ngời trăng sáng, dòng sông xa lấp lánh như nạm bạc, tiếng suối rì rào lẫn giọng muôn thú vẳng vọng nghe man dại nao lòng...
Tối nay vị trưởng nam của Huyền Thủ Đàn Tinh là Ngũ Hồ Tuấn Hiệp Dương Huyền Nguyên làm lễ “ tôi bàn” cho ấu nhi thứ hai vừa được một tuổi. Theo phong tục Trung Hoa, ngày bé trai đầy năm thì phụ mẫu cúng lễ lớn và đưa ra một cái mâm, trên đó đặt cung tên giấy bút, dao thước và bạc vàng để cho đứa nhỏ chọn tùy thích. Vật mà trẻ cầm lấy sẽ biểu thị tính cách khi nó lớn lên. Tất nhiên Huyền Thủ Đàn Tinh thân phận nội tổ cùng hai tiểu cô mẫu là Huệ San và Thanh Tiên đều tới dự lễ “tôi bàn” của cháu nhỏ, còn các môn đồ không bắt buộc phải có mặt. Phu thê Ngũ Hồ Tuấn Hiệp cư ngụ ở biệt lâu nằm tách riêng phía bên trái nội viện, cách xa khu nhà lớn có tư thất Bảo Chủ qua một khoảng vườn rộng um tùm cây hoa. Giữa canh một bắt đầu lễ cúng, cả đám tỳ bộc cũng tụ hội trong biệt lâu để xem. Quả là dịp may cực tốt cho Gia Hào thực hiện ý đồ. Chàng đến Luyện Công Thất ngồi tọa công hành khí như lệ thường dù không có mặt sư phụ, còn ba vị sư huynh thì từ lâu không tới đây vào buổi tối, vì công phu của họ đã đạt mức khá cao rồi, nên ban đêm cả ba người đều tự tập ở phòng riêng. Gia Hào ngồi một mình giữa phòng Luyện Công trong ánh trường minh đăng mờ ảo. Cả khu nhà lớn vắng lặng. Chàng đợi một lúc rồi mới sang tư thất Bảo Chủ. Cửa lớn nơi này chỉ khép hờ, thường khi chẳng ai dám bước vào nếu chưa được sư phụ cho phép. Thật ra những kì bảo của gia môn đều cất ở kho riêng kín mật, còn trong tư thất Huyền Thủ Đàn Tinh chỉ có ít đồ cổ ngoạn tranh quý, với viên nội đơn cực độc không kẻ nào dám động tới ngoài chủ nhân. Gia Hào lẻn lọt qua gian trước, nhẹ chân đi vào phòng trong, đến bên kệ gỗ ở đầu giường sư phụ. Ngọn du đăng trên kệ tỏa sáng, cạnh đó là cái bình thủy tinh không nắp đậy, trong bình có viên tròn cỡ trứng chim màu hồng tỏa mùi thơm thoảng. Gia Hào vội lấy lọ thuốc kháng độc cất sẵn trong mình, mở nắp lọ đổ dịch thủy lần lượt lên hai tay xoa đều thật nhanh, cho vào miệng uống một ít, xong chàng thò tay cầm viên nội đơn ra khỏi bình. Chàng mau lẹ tẩm quanh viên nội đơn một lớp thuốc kháng độc rồi bỏ nó vào miệng nuốt ngay. Viên trứng tròn tuột liền xuống bụng Gia Hào. Tất cả hành động đó chàng làm đúng y lời Xích Thế Diêm Quân bày dạy. Chàng vừa cất lọ thuốc kháng độc vào trong người, vừa cấp tốc quay mình rời tư thất Bảo Chủ, ra khỏi nội viện mới thong thả đi về phía đại môn. Gia Hào đơn thân xuất Bảo lúc đêm tối là việc bất thường, nhưng các võ sĩ vệ đội canh gác đều biết rõ chàng tiểu môn đồ được chủ nhân ưu ái nên chẳng hề ngờ vực, họ chỉ hô một câu chào rồi để chàng qua cổng không gây trở ngại chi. Gia Hào đi chậm bước như kẻ nhàn du ngắm cảnh, khi đã cách Hàm Long Bảo quãng xa, chàng bắt đầu phóng nhanh trên đường núi vắng vẻ trong ánh đêm trung tuần tháng tư tỏ rạng...
Theo mưu tính của Xích Thế Diêm Quân, lúc này chàng phải lập tức đi tới chỗ tảng đá nhỏ trong hẻm khe, cũng là nơi lần trước lão cất giấu lọ thuốc kháng độc . Lão căn dặn lúc nào trộm được nội đơn ra ngoài, chàng hãy cấp tốc trở lại hẻm khe mà lấy vật dụng hóa trang giấu sẵn dưới tảng đá ấy. Xích Thế Diêm Quân trù liệu chu đáo mọi việc. Từ ngày đưa Gia Hào tới Thiệu Dương, lão cùng vợ và con gái giả dạng làm dân buôn bán hàng tạp, mua ngôi nhà nhỏ lưu ngụ ở một tiểu trấn trong vùng phụ cận đèo Trúc Khê. Cứ năm bảy đêm lão ma lại bí mật đi lên Huyền Nhai, lẻn vào khu ngoại viện Hàm Long Bảo nghe ngóng tình hình. Công phu lão thâm diệu thuộc hàng cao thủ bậc nhất, lợi dụng bóng đêm lén lút xâm nhập nên các võ sĩ vệ đội khó mà phát hiện. Lão âm thầm dùng độc thủ khống chế vài gia nhân, buộc họ cung cấp tin tức lâu dài... Sau ngày Gia Hào xuất động bái sư, lão đến hẻm khe kiểm tra lọ thuốc kháng độc cất ở đó. Khi thấy nó không còn, lão biết chàng đã lấy đi. Thực hiện tiếp mưu định, Xích Thế Diêm Quân dùng tay đào một hố cạn ngay dưới tảng đá cũ, giấu vào đây bọc vải dầu không thấm nước, trong bọc có đủ y trang với tấm mặt nạ da người. Đó là những thứ cần thiết để Gia Hào cải dạng kịp thời khi chàng mang nội đơn thóat ra khỏi Hàm Long Bảo. Như vậy, dù Huyền Thủ Đàn Tinh phát giác sự vụ, sai người truy bắt Gia Hào thì bước đầu họ cũng khó tìm ra. Từ trước chàng đã được Xích Thế Diêm Quân chỉ dẫn con đường tắt xuyên núi, đi về tiểu trấn không qua đèoTrúc Khê. Lão ma cũng dạy chàng biết đổi giọng và ứng đáp phù hợp với bộ mặt giả nếu trên đường có người chận hỏi. Chỉ cần Gia Hào về tới ngôi nhà của Xích Thế Diêm Quân ở tiểu trấn, lão ma sẽ lập tức đưa chàng đi ẩn lánh an toàn...
Giờ đây Gia Hào đang lao nhanh dọc sơn lộ, hướng đến bờ khe thông lên hẻm núi nhỏ cất giấu đồ cải trang. Bỗng chàng nghe tiếng nam trầm gọi phía sau:
-Sư đệ! Phùng sư đệ!
Gia Hào nhận ra giọng của sư huynh Bàng Chí Đức, tuy nhiên chàng vẫn giả lơ, không ngừng bước mà còn vọt nhanh hơn nữa, với ý định bứt xa rồi lánh đi tránh mặt. Trong bốn đệ tử nhập môn trước Gia Hào, họ Bàng trẻ nhất nhưng cũng lớn hơn chàng bốn tuổi, còn như tính toàn bộ hàng hậu nhân kế truyền Bảo Chủ thì y đứng thứ bảy kề sau Dương Huệ San, vì vậy chàng phải gọi Bàng Chí Đức là Thất sư huynh. Từ lúc Gia Hào vào ở nội viện cho tới nay đôi bên rất ít khi giao tiếp trò chuyện, không hiểu sao hiện giờ y theo sau réo gọi chàng?
Nội lực của họ Bàng thâm hậu hơn sư đệ. Y tận sức thi triển khinh công, chỉ trong chốc lát vượt qua Gia Hào rồi quay người đứng chận ngang phía trước. Chàng phải dừng lại cung tay hô khẽ:
-Ngu đệ kính chào Thất sư huynh...
Khuôn mặt anh tuấn của họ Bàng thản nhiên không lộ vẻ gì khác thường. Y gật đầu lên tiếng:
-Đêm thanh cảnh đẹp mà sư đệ chẳng có nhã hứng thưởng thức... lại phóng chạy như cuồng... Phải chăng ngươi đang luyện khinh công?
Tình thế bất ngờ này khiến Gia Hào lúng túng , chưa biết nên ứng phó cách nào cho ổn, chàng đành nói dựa :
-Thân pháp ngu đệ còn non kém lắm... Mong sư huynh chớ chê cười...
Bàng Chí Đức phẩy tay:
-Sư đệ khiêm tốn rồi!Ngươi chỉ nhập môn mấy tháng mà khinh công khá thật . Vừa rồi ta phải dùng toàn lực mới theo kịp đó! Thân pháp của ngươi cũng lạ ,trông rất giống kỳ môn Phiêu Tinh Hoán Ảnh... Ở đây, chỉ có Bát sư muội rành công phu này, chắc ngươi được Tiểu Tiên ưu ái mật truyền tuyệt học... Quả là diễm phúc!
Gia Hào không thể tỏ lời thừa nhận , chỉ cung kính đáp xuôi:
-Sư huynh quá khen . Giờ ngu đệ đang gắng tập luyện khinh thân pháp. .. Đệ xin cáo từ...
Chàng chưa kịp chuyển bước thì họ Bàng đưa tay ngăn lại . Y mỉm cười thân mật bảo:
-Vội gì chứ!...Ta có chuyện cần nói cho sư đệ nghe đây.
Gia Hào thờ ơ hỏi:
-Chuyện gì vậy sư huynh?
Dáng họ Bàng tươi cười hòa ái.Y bước tới bên Gia Hào nhẹ giọng :
-Việc bí mật ... Mình hãy qua chỗ mé lề kia rồi nói... Không nên đứng giữa đường.
Thấy sư đệ có vẻ chần chừ bất định , Bàng Chí Đức đưa tay phải nhẹ nắm khuỷu tay trái Gia Hào kéo đi. Chàng thoáng dùng dằng, rồi cũng đành kề vai sư huynh qua đứng bên mé đường núi sát bờ vách Huyền Nhai, nhìn xuống triền đá dựng nghiêng thăm thẳm, phía dưới là dòng sông lấp lánh ánh bạc . Gia Hào lên tiếng giục thúc họ Bàng:
-Ngu đệ thật không rảnh... Sư huynh mau nói cho đệ rõ việc gì...
Bàng Chí Đức trầm giọng :
-Là chuyện này đây...
Tay phải của y vẫn đang nắm khuỷu tay trái Gia Hào bỗng nhiên bóp chặt lại, đồng thời ngầm xuất nội kình ép mạnh qua nội thân chàng. Nơi khuỷu tay có hai huyệt đạo trọng yếu là huyệt Khúc Trì nằm mé ngoài thuộc kinh Dương Minh Đại Trường với huyệt Thiếu Hải ở mé trong thuộc kinh Thiếu Âm Tâm . Đang lúc Gia Hào chưa kịp hiểu chuyện gì xảy đến thì luồng chân lực cường mãnh tuôn ra từ bàn tay phải sư huynh đã truyền qua hai huyệt Khúc Trì và Thiếu Hải, đột kích vào kinh mạch toàn thân khiến cơ thể chàng tê liệt , khí huyết trào sôi, tạng phủ nhộn nhạo rất khổ sở mà cổ họng nghẹn tắt, chàng phải há mồm thở giật chẳng kêu được tiếng nào.Sự việc quá bất ngờ nên Gia Hào không thể phản ứng.Giờ đây gân cốt chàng bại xuôi đành đứng chịu trận .Tiếp theo Bàng Chí Đức đẩy thân chàng quay qua đối mặt với y, rồi vung tay trái xuất chỉ cực lẹ phong tỏa các huyệt định thân và huyệt câm.Vậy là cả người Gia Hào cứng đơ như gỗ, chỉ còn láo liên đôi mắt. Họ Bàng vẫn giữ tay sư đệ khỏi ngã. Y ngừng xuất nội lực ép chế kinh mạch Gia Hào, bởi chàng đã bị điểm huyệt, y không cần hao phí chân nguyên nữa. Cũng nhờ vậy chàng đỡ phải chịu cực hình, nhưng thân thể bất động liệt câm. chẳng vùng vẫy kêu la chi được. Bàng Chí Đức cất lời dịu hòa:
-Phùng sư đệ! Ngươi kinh ngạc lắm phải không? Chắc ngươi ngỡ ta đùa giỡn... A à... không phải đâu! Sở dĩ ta hành động quái ác vậy... chỉ vì ngươi là kẻ mà ta cần hủy diệt nhất trên đời! Thật tiếc cho một nhân tài rạng rỡ tiền đồ như ngươi... nay phải chịu uổng mạng lúc còn non trẻ! Hẳn ngươi rất muốn biết rõ nguyên cớ? Nghĩ tình đồng môn huynh đệ, trước khi tiễn ngươi về cõi âm làm cô hồn dã quỷ, ta nói hết căn do để ngươi khỏi ấm ức! Chính ngươi buộc ta phải xử sự tuyệt tình...
Lúc này nếu nhìn từ xa thấy cảnh hai người đứng bên nhau, ai cũng nghĩ họ đang chuyện trò thân mật, đâu ngờ nổi Bàng Chí Đức có hành vi đê hèn, đã ra tay ám hại sư đệ. Họ Bàng quyết tâm hạ sát Gia Hào mà thần thái lời lẽ của y vẫn êm dịu hòa nhã, quả là tay thâm hiểm đáng sợ, tâm địa gian ác tà độc khó lường. Y ngó chăm mặt chàng, gật gù nhếch môi:
-Ngươi đẹp trai lắm! Ta vẫn tự hào dung mạo của mình tuấn tú nhất hạng, mà so ra cũng thấy chưa bằng. Nhưng chẳng bao lâu nữa khuôn mặt ngươi chỉ còn là một đống giòi bọ lúc nhúc. Tưởng tượng cảnh ấy ta thật khoái dạ thỏa lòng...
Y ngước lên mơ màng nhìn trời sao xanh thẳm, nhẹ nói tiếp:
-Đêm nay ngươi lâm đại họa... phải chết thảm là do ngươi đã cướp đi thứ quý nhất đời ta! Ngươi phá sạch ước mơ mà ta chăm chút nuôi dưỡng bao ngày... Thử hỏi làm sao ta để yên được?
Giọng y vẫn nhẹ nhàng như tỏ bày tâm sự với bằng hữu:
-Trong Hàm Long Bảo có hai thiên nữ giáng trần... Nàng chị Giang Hoa Bích Phụng Dương Huệ San thì đã được hai vị sư huynh cận kề chìu chuộng, ngầm tranh nhau lọt mắt xanh... Còn Vân Tiêu Ngọc Nữ Dương Thanh Tiên với ta rất thân thiết... Trước đây nàng chỉ có ta ở bên cạnh, cùng nhau vui đùa dạo chơi, đàm văn luyện võ. Ta hằng nghĩ rằng nàng mãi là của riêng của mình, chẳng ai có thể tranh chiếm. Lòng ta vẫn nguyện dù hy sinh mọi thứ cũng quyết không để mất người ngọc! Thế nhưng từ khi ngươi xuất hiện thì sự tình đổi khác. Tiểu Tiên lúc nào cũng quấn quýt bên người không rời, chăm lo cho ngươi đủ việc... đâu còn quan tâm đến ta nữa. Thời gian qua âm thầm nhìn ngươi hưởng phúc, trong lòng ta như có lửa thiêu kim chích ngày đêm, vô cùng oán hận mà chẳng cách nào phát tiết... Ta vẫn nuôi hy vọng chiếm ngự con tim nàng, nhưng lúc gần đây... trông thấy Bát sư muội luôn hướng mắt về ngươi âu yếm... ta biết là đã mất nàng vĩnh viễn! Giờ Tiểu Tiên chỉ xem ta như một người sư huynh bình thường, gặp nhau nàng chào lạnh nhạt, chẳng bận lòng tìm ta trò chuyện vui chơi giống ngày cũ... Ngươi ở vào hoàn cảnh ta mới cảm nhận hết nỗi đau khổ thương tâm...
Họ Bàng chuyển giọng lạnh lẽo:
-Chỉ còn cách duy nhất là phải loại bỏ ngươi...làm cho ngươi tàn đời, biến đi không dấu vết!Ta đã rình rập ngươi cả tháng qua để tìm cơ hội . Quả đúng với câu “Hoàng thiên bất phụ hữu tâm nhân”, đêm nay ý trời xui khiến ngươi một mình xuất Bảo, vậy là ta lén bám theo.Khi đuổi kịp ngươi , ta định ra tay hủy mạng liền , nhưng lại e ngươi có tâm đề phòng , tránh được sát thủ mà chống cự dây dưa, rồi lỡ ra Bát sư muội đi tìm ngươi lúc này thì hỏng việc . Giờ ta đã chắc Tiểu Tiên chẳng tới đây, nàng không thể hay biết cớ sự . Hà Hà....
Y buông khẽ tiếng cười thích chí, khỉnh mặt tiếp lời:
-Còn ngươi thì quá khờ ngốc, để ta khống chế dễ dàng thuận lợi chẳng nhọc sức chi!Số phận ngươi đã thế , hãy cam lòng nhận lãnh, đừng oán trách ta. Tất cả đều vì ngươi tự gây họa hoạn cho mình!
Bàng Chí Đức vừa dứt lời bỗng xòe chưởng trái vỗ mạnh vào ngực Gia Hào. Trong cảnh lặng vắng nghe vang lên tiếng “bộp”. Chàng trợn mắt , méo xệch quai hàm vì đau đớn nhưng không sao cựa quậy nổi, rồi từ miệng phun ra một búng máu tươi , nhiều giọt bắn xa dính vào mặt mũi áo quần họ Bàng. Y vẫn đứng thản nhiên không ngại bẩn, lại còn tỏ vẻ hứng thú.Y chậm rãi đưa tay áo chùi mặt , nói khô khốc:
-Một chưởng Đại Lực Thiên Nguyên của ta đủ chấn nát tâm mạch , ngươi chẳng còn sống thêm mấy chốc! Dù trong lòng ta chưa tiêu giải hết căm thù... ta cũng không cần hành hạ ngươi nữa.Nếu như thấy oan ức thì ngươi hãy về Diêm Phủ mà kiện cáo đi!
Nói xong họ Bàng thẳng tay đẩy mạnh , cả thân người Gia Hào văng ra ngoài bờ vách núi, lăn ào xuống triền đá không một tiếng la gào...Những vì sao trên trời lấp lánh thờ ơ, ngọn gió lướt qua hờ hững, cỏ cây lạnh lùng chứng kiến việc tàn khốc vừa diễn ra... Cảnh vật vô tình như đồng lõa với kẻ vô lương tàn ác. Bàng Chí Đức đi tới bên mép Huyền Nhai , cúi đầu nhìn lướt qua bên dưới vách triền. Y xoa hai bàn tay tỏ ý thỏa mãn khoan khoái, quay mình bước nhanh theo sơn lộ trở về Hàm Long Bảo. Đột nhiên y cảm thấy trên mặt mình nhức nhói.Cơn đau lan tỏa mạnh , buốt bỏng như lửa nung đốt. Y liền đưa tay lên sờ mặt , hoảng hồn vì nhiều chỗ da thịt rệu rã giống bột nhão bầy nhầy, lại phảng phất mùi hôi thối. Y kinh hãi dừng chân , lấy tay bẹo thử vào má thì dễ dàng bóc ra ngay một mảng da đen bầm .Nước nhầy tươm chảy ra từ chỗ da bị rách, y vội ngửa tay hứng xem . Trong ánh đêm hè thanh rạng , họ Bàng thấy rõ màu nước tím sẫm. Y lặng người, thoáng sau hét lên kinh rợn :
-Độc ...Máu độc ....
Y còn đủ tỉnh táo hiểu ra căn nguyên sự tình. Hiện trạng này chắc chắn là do những giọt máu của sư đệ dính trên mặt y gây nên .Hẳn trong máu Gia Hào chứa độc chất mãnh liệt . Họ Bàng không thể ngờ có việc quái dị như thế. Y nghiến răng chịu đau,cấp tốc ngồi xuống giữa đường cố vận công ép độc ra ngoài cơ thể , nhưng chân khí trì trệ , kinh mạch nghẽn tắc, nội lực tiêu tán. Rồi cơn đau nhức ghê hồn thấm vào cốt tủy khiến họ Bàng không chịu nổi phải gào lên . Âm giọng của y phát ra nhỏ khàn, vì cổ họng đã sưng cứng, còn trí não mê mụ khiếp hoảng bởi cái chết thê thảm đang kế cận . Da thịt trên mặt y hóa thành nước độc chảy dầm dề. Tình trạng tiêu mòn vẫn tiếp lần xuống cổ, chắc rồi toàn thân y cũng vậy. Họ Bàng vùng người dậy điên cuồng chạy về Bảo, miệng la khan:
-Cứu ...Cứu mạng ...
Qua được hơn mười trượng thì tiếng kêu lặng tắt. Nhờ bản năng cầu sinh kích động y chạy thêm khoảng dài nữa, khi sắp tới ngã rẽ thông sang đại môn Hàm Long Bảo y mới cạn hết tinh lực , loạng choạng ngã sấp giữa đường núi. Thân thể Bàng Chí Đức co giật vài lần, cuối cùng nằm yên hồn lìa khỏi xác. Lúc này là giữa canh hai , trong nội viện yên tĩnh, toàn gia Bảo Chủ quây quần ở biệt lâu của phu thê Ngũ Hồ Tuấn Hiệp , cùng ngồi bên bàn tiệc lễ uống rượu mừng cháu nhỏ đầy năm , không ai biết hai đệ tử chính truyền đã lâm đại nạn ...
Tối hôm sau , Xích Thế Diêm Quân từ tiểu trấn phi hành lên khu đèo Trúc Khê, khoảng gần khuya thì tiếp cận Hàm Long Bảo . Cứ năm bảy đêm một lần , lão tới đây bí mật lẻn vào ngoại viện, lén tìm gặp mấy gia nhân đã móc nối để thăm dò tin tức. Đêm nay , lão nghe được chuyện không hay, trong lòng buồn bực cay cú vì thất vọng , liền quay lại tiểu trấn , trên đường lão ghé qua khe núi kiểm tra chỗ cất đồ hóa trang của Gia Hào . Khi trời mờ sáng, Xích Thế Diêm Quân về đến nơi , nhẹ gõ cửa ngôi nhà nhỏ nằm cách biệt sau một hẻm vắng. Người ra mở cửa chính là Câu Hồn Băng Nga đã cải dạng khác xưa với ánh nhìn mong mỏi như rất trông đợi tin mới. Vừa trông thấy vẻ mặt lão cau có khác lạ , nàng hỏi liền:
-Phụ thân sao vậy ?
Xích Thế Diêm Quân không đáp, lão quay ra trước hiên nhà đứng ngó trời mông lung. Câu Hồn Băng Nga vội bước theo tới bên thân phụ . Lão ma cất giọng lạnh lùng nói:
-Mọi việc hỏng hết cả...Nó biệt tích rồi!
Tất nhiên lão đang nói đến Gia Hào. Câu Hồn Băng Nga biến sắc xoay qua ngó mặt lão, miệng hỏi dồn:
-Chuyện gì thế phụ thân ?Y đi đâu mới được chứ?
Lão ma bẳn giọng :
-Ta không biết ... Điều hệ trọng là nó chẳng về đây !
-Thế y biệt tích lúc nào?
-Mới đêm qua. Ta nghe nói thằng nhỏ đơn thân xuất Bảo giữa canh một , mà viên nội đơn của Huyền Thủ Đàn Tinh cũng bị mất, chứng tỏ nó đã lấy được bảo vật mang ra ngoài. Nhưng mới rồi ta ghé hẻm núi xem lại thì thấy đồ cải trang vẫn còn, như vậy thằng nhỏ chưa tới được chỗ ấy , hoặc là nó tránh đi nơi khác chẳng làm theo kế hoạch... Hiện giờ Huyền Thủ Đàn Tinh đã tung nhân thủ truy tìm ... Ngoài việc Gia Hào với nội đơn ... còn một trọng án nữa khiến Hàm Long Bảo nhốn nháo...
-Ủa! Là việc gì vậy ?
-Đêm qua có gã môn đồ tên Bàng Chí Đức cũng một mình xuất Bảo sau Gia Hào. Khi trời sáng thì phát hiện gã họ Bàng nằm chết ngoài đường núi , da thịt tạng phủ tiêu ra hết chỉ còn xương cốt với phục trang nguyên vẹn , hiển nhiên bị trúng độc mà thảm tử. Chắc chắn án mạng trên liên quan tới Gia Hào.
-Phụ thân đoan quyết vậy ư?
-Phải... Việc này chỉ mình ta hiểu rõ căn cớ. Theo tin tức nghe được , trên áo người chết có nhiều giọt máu của ai đó dính vào. Ta nghĩ là do gã họ Bàng phát hiện Gia Hào hành động mờ ám, gã truy theo rồi hai bên động thủ. Gia Hào bị kích thương nên máu bắn ra dính người họ Bàng khiến y toi mạng !
Đầu óc lão ma đầu quả thông minh, suy diễn khá đúng sự vụ , chỉ đoán lầm căn nguyên khởi phát. Lão đâu ngờ tất cả là do lòng ghen tuông mù quáng của họ Bàng. Câu Hồn Băng Nga lộ vẻ sửng sốt:
-Phụ thân nói vậy thì hóa ra máu Gia Hào rất độc ư?
-Đúng thế.
-Thật vô lý... Nữ nhi không tin.
-Để ta giải thích cho ngươi hiểu... Tuyết nhi! Nay vẫn còn chưa rõ hiện trạng của Gia Hào, nhưng ngươi có biết vì cớ chi ta bảo mọi việc đã hỏng hết , lại chẳng hề nôn nóng đi tìm thằng nhỏ?
-Nữ nhi cũng đang thắc mắc...
Xích Thế Diêm Quân thấp giọng :
-Ấy là do cách tẩy trừ chất độc trong nội đơn Độc Giác Thiềm Thừ . Bí mật đó lâu nay ta chưa tiết lộ cùng ngươi . Muốn làm cho nội đơn trở thành thần dược lành tính giúp tăng công lực , thì trước tiên phải buộc một người nuốt nội đơn vào bụng , chờ qua một ngày để cho cơ thể người ấy hấp thụ hết độc chất, rồi mổ phanh ruột lấy nội đơn ra mà dùng là ổn. Ta đã dặn Gia Hào... ngay khi cầm được nội đơn thì phải bỏ ngay vào miệng nuốt liền. Như thế bao tử trong bụng thằng nhỏ vừa hút sạch độc chất , vừa là nơi cất giấu nội đơn an toàn chẳng ai hay. Dù Bảo Chủ có nghi ngờ soát xét Gia Hào cũng không sao phát hiện ...
Dáng sắc Câu Hồn Băng Nga tái nhợt thất thần. Giọng nàng hơ hãi:
-Té ra phụ thân bày y nuốt vật độc ... Thế đâu khác chi tự sát? Chất độc ấy không giải được ... lại còn mổ bụng nữa!
Lão ma bình thản đáp:
-Thì phải vậy thì mới có diệu phẩm cho ngươi dùng. Ta chẳng biết cách nào hay hơn ... Chút mạng thằng nhỏ đáng kể chi mà ngươi bận tâm chứ. Nhưng giờ đây đã hỏng việc hết rồi...vì nếu để quá một ngày không mổ ruột đem nội đơn ra thì nó tan hết! Phần thằng nhỏ nhờ thuốc kháng độc giúp chi trì mạng sống, nhưng sau hai ngày nó vẫn chết do độc chất trong máu thâm nhiễm tâm mạch . Hẳn vì dính máu độc ấy mà tên họ Bàng tiêu đời. Hiện giờ nội đơn đã tan hủy, ta chẳng muốn mất công tìm thằng nhỏ sắp chết làm chi.
Xích Thế Diêm Quân nào rõ trước khi nuốt nội đơn , máu của Gia Hào có sẵn chất kỳ độc đủ làm Bàng Chí Đức toi mạng .Dù sao lão ma dầu đoán luận sự biến cũng không sai mấy. Ánh mắt Câu Hồn Băng Nga thẫn thờ ảm đạm . Nàng quặn lòng muốn khóc mà không thể khóc. Cha nàng đã quyết định số phận Gia Hào từ lâu, nàng chẳng biết chi cả mới đáng hận !Nàng nhớ lại lúc còn ở mật cốc, phụ thân từng bảo: “Thằng nhỏ quả là nhân tài khó gặp ...Thật đáng tiếc!” nhưng lão không nói rõ đáng tiếc chuyện chi ? Giờ nàng hiểu ra là ngày đó phụ thân đã quyết dùng sinh mạng Gia Hào để thực hiện ý đồ. Tuy nhiên nàng không oán trách lão. Nếu như ngay lúc khởi đầu mưu tính mà nàng biết Gia Hào phải đổi mạng lấy vật quý về, nàng cũng tán đồng kế hoạch của phụ thân . Điều bất hạnh là sau những ngày gần gũi bên chàng, lòng xuân nữ đã phát sinh tình cảm tha thiết. Thời gian qua nàng dần nhận ra cuộc sống chẳng còn gì vui thú khi thiếu vắng Gia Hào. Phải chăng đó là duyên phận ? Nàng hằng mong vụ lấy trộm nội đơn kết thúc êm xuôi , Gia Hào yên ổn quay về lại bên cạnh mình không rời xa nữa. Nhưng giờ đây chàng ngốc của nàng đang hấp hối nơi đâu?
Lão ma thấy vẻ mặt con gái khác thường , cứ ngỡ Câu Hồn Băng Nga chán nản bực tức vì mưu đồ thất bại , tiếc uổng bao công sức phí hoài. Lão nói dịu:
-Thôi .. Chớ buồn nản. Người tính không bằng trời định . Tiếc chi vô ích. Thua trận này ta bày trận khác chứ lo gì.
Câu Hồn Băng Nga chợt cất giọng kiên quyết:
-Nữ nhi phải đi kiếm Gia Hào... Dù y chẳng còn sống cũng tìm cho ra thi thể
Lão ma cau mặt:
-Việc đã như thế rồi ngươi cần chi phải cực khổ vậy chứ? Đừng bày chuyện rắc rối nữa. Hãy cùng ta lo thu xếp đưa mẫu thân ngươi trở về mật cốc...
Nàng đáp khô khan:
-Phụ mẫu cứ đi trước.Nữ nhi quay lại sau cũng được.
Xích Thế Diêm Quân hiểu tính con gái rất bướng bỉnh, đã nói là làm khó ai cản ngăn .Lão nhạt giọng :
-Tùy ngươi thôi .Hiện thời bọn Hàm Long Bảo đang xuất động cao thủ truy xét khắp vùng phụ cận , ngươi đơn thân cô thế phải cẩn trọng giữ mình. Hãy cải trang lại cho kỹ, trên đường cần tránh việc động thủ xung đột .Ngươi mà để lộ thân phận là nguy đó.
-Biết rồi ...Nữ nhi đâu phải kẻ ngờ ngệch mới xuất đạo giang hồ...
Nàng gượng ép niềm thê lương ai oán đang dâng nghẹn trong lòng, khẽ giọng tiếp:
-Chuyến này nữ nhi cần đem theo con Tiểu Bạch ...
Đó là con cáo trắng nhỏ được lão ma nuôi dưỡng từ lâu . Nó cực kỳ thông linh lại rất giỏi đánh hơi tìm vết. Xích Thế Diêm Quân gật đầu:
-Ngươi cứ mang Tiểu Bạch đi . Hãy cho nó ngửi trước mùi thuốc kháng độc , vì Gia Hào đã thoa thuốc đó lên người ắt có mùi riêng tỏa xa, Tiểu Bạch dễ tìm ra dấu vết thằng nhỏ.
-Vậy nữ nhi vào gặp mẫu thân ...rồi chuẩn bị hành trang xong là đi liền .
Câu Hồn Băng Nga cố giữ nét mặt lạnh lẽo, nén lại những giọt nước mắt muốn trào rơi . Nàng bước nhanh vào nhà trong nỗi bi thương quay quắt lặng thầm ...
Hồi thứ13
TIỂU MA NỮ TÍNH ĐƯỜNG RA BẮC
Một nữ nhân dung mạo bình thường mặc y phục gọn gàng màu hồng sẫm, dáng vẻ nhanh nhẹn đi lên đèo Trúc Khê. Tay trái nàng ôm bọc hành trang, trên lưng đeo sọt trúc đan dày, trông như người vào núi tìm hái dược liệu. Trong sọt trúc có con cáo nhỏ lông trắng ngồi nghếch mõm, cái mũi hồng ướt của nó nhúc nhích liên tục đánh hơi ngửi mùi. Nữ nhân này chính là Câu Hồn Băng Nga. Dung diện nàng lộ vẻ lo lắng căng thẳng, đôi mắt láo liên tìm kiếm... Lúc này đang giữa trưa, nắng hè phả nắng xuống đường núi vắng lặng. Trên mặt Câu Hồn Băng Nga lấm tấm mồ hôi. Khi đi tới cây cầu gỗ bắc qua dòng khe chảy ngang đường, nàng dừng lại buồn bã nhìn suối nước sâu róc rách đổ xuống Huyền Nhai.Lát sau nàng thở dài bước tiếp. Qua khỏi cầu gỗ một quãng xa mấy chục trượng , con cáo Tiểu Bạch ở trong sọt trúc sau lưng nàng chợt kêu rít lên . Ấy là nó báo hiệu đã ngửi thấy mùi hơi cần tìm.Câu Hồn Băng Nga vội ngừng bước ngồi xổm xuống.Nàng chu miệng huýt lên một tiếng khẽ.Con cáo nhỏ liền phóc ra khỏi sọt trúc, chân vừa chạm đất là nó phóng vượt lên trước nàng rồi chạy ngoặt sang mé đường sát bờ vực Huyền Nhai. Nàng vội lao theo Tiểu Bạch . Con cáo nhỏ đứng lại trên mép vách, chồm đầu ra ngoài khoảng không cúi nhìn triền đá hiểm trở, miệng nó rít lên không ngừng. Câu Hồn Băng Nga dừng bước bên con cáo , nàng nhíu mày lẩm bẩm:
-Chẳng lẽ Hào đệ rơi xuống núi tại chỗ này?
Nàng cẩn trọng ngó quanh , lắng nghe động tĩnh và chú mắt quan sát địa hình phía dưới Huyền Nhai. Nơi đây triền núi rất dốc, bề mặt vách đá dựng nghiêng gồ ghề, có những lùm cây thấp mọc cheo leo. Câu Hồn Băng Nga cúi bồng con Tiểu Bạch , bỏ nó vào sọt trúc sau lưng, xong nàng đeo bọc hành trang lên vai trái rồi lấy trong người ra một cuộn nhuyễn sách màu hồng. Nàng vọt mình nhảy xuống Huyền Nhai, hướng tới bụi cây gần nhất mọc trên bờ vách, tận lực thi triển khinh công tuyệt đỉnh nhẹ đạp chân lên cành cây chính và chuyển thân phóng qua lùm bụi khác phía dưới thấp hơn . Cứ như thế, nàng nhảy chuyền lần xuống vách triền. Khi gặp khoảng cách xa quá tầm giữa hai bụi cây, nàng tung ngược nhuyễn sách quấn níu cành mé trên làm giảm đà rơi để hạ thân nhẹ ổn lên cành bụi ở dưới...
Câu Hồn Băng Nga thầm nghĩ nếu Gia Hào bị rớt ngã xuống đây , có thể chàng đã mắc vướng lại ở lùm cây nào đó. Thế nhưng từ mé đèo tới chân núi nàng vẫn không phát hiện tăm tích của chàng.
Khi xuống hết Huyền Nhai , Câu Hồn Băng Nga đặt bước lên nền cát lún nhão bên chân vách đá, chỉ cách bờ nước Tư Giang chừng vài trượng . Chỗ nàng đứng gần kề một cửa hang đá lớn thông vào lòng núi. Nàng vui mừng lẫn hồi hộp khi trông thấy trên nền cát nhão hiện rõ dấu tích chứng tỏ có người rơi xuống đây chưa lâu. Nhìn theo đường vết lưu lại , nàng nghĩ người đó vẫn còn sống và đã bò lết vào hang đá. Con cáo nhỏ sau lưng nàng lại kêu rít lên . Tiếng kêu của Tiểu Bạch dài hơn lúc thường, như thể nó muốn báo hiệu cuộc săn tìm sắp tới đích. Câu Hồn Băng Nga liền trổ khinh công lướt nhẹ trên cát lún, tiến nhanh vào cửa hang. Qua vài mươi bước , nền đá hơi dốc lên , trong lòng động trống trải khô ráo. Ánh nắng bên ngoài soi vào mờ ảo. Đôi mắt tinh tường của nàng nhận ra một dáng người xơ xác ngồi dựa vào vách động . Nàng đến gần ngó kỹ hơn thì thấy y phục người đó rách bươm , thân mình đầy vết bầm dập , khuôn mặt lem luốc máu khô với ánh mắt trong suốt đang lặng lẽ nhìn nàng. Rõ ràng đây là chàng ngốc họ Phùng mà Câu Hồn Băng Nga hằng mong nhớ. Nàng nghẹn ngào bật kêu:
-Ôi !Gia Hào...Tạ ơn trời đất!
Nàng quì xuống toan ôm lấy chàng nhưng liền khựng lại vì chợt nhớ lời phụ thân bảo là máu Gia Hào hiện giờ rất độc , không thể khinh suất đụng chạm vào. Chàng trai khẽ cựa mình, thấp giọng hỏi:
-Đại thư... là ai?
Nghe giọng nói quen thuộc của chàng vang lên với âm điệu bình thường, Câu Hồn Băng Nga thêm hoan hỉ, vội gỡ tấm mặt nạ da người để lộ dung nhan thật . Nàng xúc động bảo:
-Chính ta đây mà...
Gia Hào chẳng tỏ vẻ gì mừng rỡ kinh ngạc . Hẳn là do chàng chưa phục hồi ký ức, thái độ ứng xử vẫn khô khan, hờ hững như trước đây. Chàng dửng dưng nói:
-Hóa ra là Giang tỷ...
Qua thoáng ngập ngừng, chàng hỏi tiếp:
-Sao đại tỷ biết tiểu đệ ở đây?
Câu Hồn Băng Nga cởi nhanh dây đeo bọc hành trang cùng với sọt trúc. Nàng đặt cả hai thứ xuống nền động,miệng huýt khẽ. Con Tiểu Bạch phóc ra ngồi bên cô chủ, nó giương cặp mắt hồng nhạt ngó Gia Hào. Nàng đưa tay nhẹ vuốt đầu con cáo nhỏ, mỉm cười bảo chàng:
-May nhờ chú cáo này giỏi đánh hơi tìm vết...ta mới gặp được ngươi...
Nàng chợt chau mày chuyển giọng lo lắng:
-Hào đệ ! Hiện giờ tình trạng ngươi thế nào? Có tổn hại lắm chăng?
Gia Hào ngồi thẳng người lên đáp lời:
-Đa tạ đại tỷ quan hoài. Chỉ là chút thương tích ngoài da, còn nội thể vẫn bình ổn...
-Thật chứ Hào đệ ?
-Thật mà.
-Vậy thì quả đáng mừng...
Nàng trĩu giọng thương xót:
-Xem toàn thân ngươi lem luốc thế này... chắc là đau lắm! Nhưng sao ta chẳng thấy vết thương nào cả?
-Chuyện này đệ cũng không hiểu được. Tối hôm kia đệ ngã lăn xuống chân núi... may rơi nhằm xuống chỗ đất cát nhão nên mới toàn mạng mà bò vào đây. Khi đó khắp người đệ bị đá chà cắt đầy vết rách xẻ. Đệ nằm mê man... tới sáng nay tỉnh dậy thì da thịt đã lành lặn hết! Giờ đệ chỉ thấy mỏi mệt ê ẩm chưa muốn ngồi dậy...
-Thế thì quái lạ thật... Có phải ngươi đã nuốt viên nội đơn Độc Giác Thiềm Thừ?
-Đúng ạ. Đó là do đại bá dặn bảo mà. Phải làm thế mới dễ đem viên nội đơn về... rồi đại bá có cách lấy ra.
Câu Hồn Băng Nga nín lặng. Phụ thân nàng mưu tính mổ ruột Gia Hào để lấy nội đơn ngay khi chàng về gặp họ ở tiểu trấn. Nhưng hiện thời vật độc ấy đã tiêu hủy trong cơ thể chàng rồi. Không hiểu nó gây ra tác hại gì cho Gia Hào? Phải chăng nó làm máu chàng trở thành cực độc? Nhờ đâu chàng vẫn sống sót? Tại sao thương tích ngoài da chàng lành lặn nhanh thế? Giờ nên tính liệu đưa chàng đi đâu? Đầu óc nàng rối lên nhiều nỗi băn khoăn. Dù sao việc Gia Hào lâm nạn thế này cũng là được phúc trong họa, vì nếu chàng trở về thuận lợi yên ổn, tất sẽ chết thảm do bị cha nàng mổ bụng từ tối hôm qua. Nay Gia Hào vẫn còn sống mạnh khỏe và nàng đã tìm gặp chàng. Đây quả là điều kì diệu tuyệt vời vượt ngoài mong ước...
Câu Hồn Băng Nga chợt vỗ trán cao giọng:
-A! Ta thật đoảng... Mãi nói chuyện mà quên ngươi nằm đây hai ngày chưa ăn gì... Chắc ngươi đói lắm. Để ta lấy lương khô cho ngươi dùng tạm...
Nàng xoay qua mở bọc hành trang thì Gia Hào lắc đầu bảo:
-Không cần đâu Giang tỷ. Tiểu đệ chẳng thấy đói chút nào hết.
Câu Hồn Băng Nga chăm ngó chàng:
-Quả vậy sao?
-Tiểu đệ nói dối đại tỷ làm chi.
Nàng nhíu mày lẩm bẩm:
-Kỳ lạ thật...
Ngẫm nghĩ chốc lát nàng hỏi:
-Hiện thời ngươi đi đứng nổi không?
Gia Hào vịn tay lên vách hang từ từ đứng dậy, nét mặt hơi nhăn nhó vì đau. Chàng nhẹ co chân uốn người rồi nói:
-Cũng gắng gượng được... nhưng đệ chưa thể đi nhanh . Gân cốt cả người đệ còn nhức buốt. Chắc qua ngày mai mới hồiphục như cũ...
Câu Hồn Băng Nga gật đầu:
-Vậy thì ta đỡ lo...
Lúc này trong thâm tâm nàng rất muốn tự tay lau rửa cho Gia Hào, nhưng lại sợ dính máu độc thì nguy. Nàng soạn bọc hành trang lấy ra một bộ trang phục thư sinh màu lam với đủ giày vớ, đưa cho Gia Hào và bảo:
-Cũng may ta có đem theo nam phục, để phòng lúc cải dạng nam nhân. Giờ ngươi hãy đi ra bờ sông tắm rửa sạch sẽ, thay tạm bộ quần áo này rồi quay lại đây ta bàn chuyện.
Từ trước Gia Hào đã quen tuân lệnh Câu Hồn Băng Nga, tất nhiên lần này chàng cũng làm theo lời nàng không chút do dự. Chàng cầm ngay giày vớ áo quần, tập tễnh từng bước chậm chạp ra cửa hang. Câu Hồn Băng Nga ngồi bệt xuống nền đá, nhìn theo Gia Hào với ánh mắt đằm thắm dịu dàng tỏ lộ niềm luyến ái sâu đậm...
Chẳng lâu sau Gia Hào trở vào hang với dáng mạo bóng sạch tươi láng. Câu Hồn Băng Nga ngẩn người như không nhận ra chàng. Sau hơn nửa năm xa cách, phong tư của Gia Hào trông thật khác xưa. Khuôn mặt chàng hiển lộ thần thái rạng rỡ, dáng người tú nhã tựa cây ngọc trước gió càng khiến lòng nàng thêm rung động yêu thương. Giờ đây Câu Hồn Băng Nga chẳng muốn Gia Hào phục hồi trí nhớ, mãi mãi là chàng ngốc thuần phục nàng, hàng ngày bên nhau không xa lìa nữa... Nàng nhẹ giọng bảo chàng:
-Hào đệ ngồi xuống đi...
Gia Hào cởi giày ngồi xếp chân đối diện Câu Hồn Băng Nga. Nàng nói tiếp:
-Từ khi ngươi đầu nhập Hàm Long Bảo, phụ thân ta vẫn hay lẻn vào đó dò la tin tức. Ta vẫn thường nghe phụ thân kể qua tình hình của ngươi. Khi ta biết Huyền Thủ Đàn Tinh đã thu nhận ngươi làm đệ tử chính truyền, ta rất khóai dạ.Mà này, ở trong Bảo ngươi học được tuyệt kĩ gì rồi?
Gia Hào thong thả đáp:
-Đệ chỉ mới bắt đầu luyện nội công... chứ chưa được truyền thụ công phu quyền chưởng binh khí...
Chàng giấu nhẹm chuyện Lão Ngạ Hồn và Dương Thanh Tiên mật truyền võ công cho mình, vì họ đã dặn chàng giữ kín bí mật. Thật tình Câu Hồn Băng Nga chưa rõ hết cảnh ngộ của Gia Hào sau khi chàng vào Bảo. Đó cũng là do Xích Thế Diêm Quân quá chú tâm đến chuyện Gia Hào thực hiện mưu đồ lấy cắp viên nội đơn, nên lão ma không còn bận lòng tra dò tỉ mỉ những việc khác liên quan đến chàng. Bởi vậy mà suốt thời gian ẩn thân ở tiểu trấn, Câu Hồn Băng Nga chỉ nghe phụ thân kể về chàng rất sơ sài. Nàng chẳng biết gì về chuyện Dương Thanh Tiên ưu ái Gia Hào, bằng không thì với bản tính hẹp hòi độc ác nàng khó mà kềm chế lòng ghen hận...
Câu Hồn Băng Nga lắc đầu nói:
-Tiếc thật! Võ công Hàm Long Bảo Chủ lừng danh đệ nhất miền Giang Nam. Ngươi chưa học được gì quả là uổng...
Nàng hắng giọng tiếp lời:
-Có phải sau khi ngươi lấy được nội đơn thoát ra tới lưng đèo... thì bị gã sư huynh họ Bàng đuổi kịp?
-Phải ạ.
-Hẳn là gã lục soát trong mình ngươi mà không tìm thấy gì... nên mới tức giận đánh ngươi ngã xuống núi. Nhưng sao gã chẳng bắt ngươi về Bảo tra xét, lại nhẫn tâm hạ sát thủ? Việc này cũng lạ...
Gia Hào lặng yên không nói. Trong đầu óc chàng, những điều Bàng Chí Đức đã tỏ lộ nghe thật rối rắm. Chuyện ghen tức yêu hận đối với chàng thật khó hiểu. Chàng không nghĩ được tại sao Bàng sư huynh qui tội mình cướp mất Dương sư tỷ mà ra tay ám hại? Giờ đây trước mặt Câu Hồn Băng Nga, chàng chưa biết bày giải thế nào về sự biến đó nên im lặng. Còn Câu Hồn Băng Nga thì vẫn đinh ninh như lời cha nàng đoán định - ấy là do tên họ Bàng phát hiện Gia Hào có hành vi mờ ám, gã đuổi theo động thủ gây nên tai ách... Nàng lại hỏi:
-Chắc gã sư huynh đó đánh ngươi toe máu... rồi mới hất văng xuống Huyền Nhai?
-Đúng ạ...
-Có điều lạ là tối hôm ấy họ Bàng cũng đột tử! Ngươi biết vì sao không?
-Đệ làm sao rõ được.
-Vậy à? ... Gã ta chết rất thảm. Thật đáng đời!
Nàng không nói ra chuyện họ Bàng lâm tử vì trúng độc – mà nguyên nhân hẳn là vì dính máu của chàng ... Phụ thân nàng đoán chắc máu Gia Hào có độc, bởi chàng đã nuốt viên nội đơn Độc Giác Thiềm Thừ vào bụng. Vụ này khiến nàng thầm lo lắng. Làm thế nào để máu chàng trở lại bình thường như cũ?
Câu Hồn Băng Nga chợt thở phào nhẹ giọng:
-Ngươi rơi xuống Huyền Nhai mà vẫn còn sống được quả là đại phúc. Các vết thương tự lành mau lẹ cũng quá thần kì! Phải chăng là nhờ hiệu năng linh diệu của viên nội đơn...
Trầm ngâm một lúc nàng bảo:
-Hãy kể lại việc ngươi bị hất xuống núi cho ta nghe.
Gia Hào nhíu mày, lát sau chàng thấp giọng đáp:
-Bàng sư huynh điểm huyệt tiểu đệ... lại đánh trọng chưởng vào ngực khiến đệ phun máu rồi đẩy văng xuống vách đá. Đệ lăn ào quá nhanh... toàn thân bất động chẳng hiểu mình sống hay chết. Đến lúc ngã nằm trên cát nhão mới tỉnh hồn, gân cốt đau nhức khó chịu nổi. Sau đó đệ bò lần vào đây nằm mê muội...
Câu Hồn Băng Nga ngồi lặng yên tư lự. Nàng bỗng nhớ lại ngày đầu chàng lạc tới thâm cốc gặp Xích Thế Diêm Quân, phụ thân nàng đã dùng công phu độc môn là Ma Cốt Thủ điểm ém trong tử huyệt của Gia Hào, mục đích là để chàng không dám phản lại hay chạy trốn. Chàng sẽ chết đau đớn nếu qua một năm chẳng triệt bỏ ám chế này. Nhưng chỉ có Xích Thế Diêm Quân mới hiểu cách giải trừ nó. Nay chàng lại không thể gặp phụ thân nàng, vậy phải làm sao đây? Câu Hồn Băng Nga chợt nói:
-Hào đệ! Ngươi đưa tay ra đây.
Nàng vận công phóng xuất tuyệt kĩ gia truyền là Tụ Âm Chỉ, điểm nhẹ vào huyệt Lao Cung giữa lòng bàn tay Gia Hào. Phát chỉ này không gây tổn hại chi. Đây là cách kiểm tra xem ám chế Ma Cốt Thủ ở trong người nạn nhân vẫn còn hay đã trừ hết. Nếu còn thì huyệt Lao Cung hiện lên chấm đỏ. Nàng nhìn kĩ lòng bàn tay Gia Hào thấy vẫn trắng sạch, rõ ràng ám chế đã tiêu giải rồi. Lòng nàng mừng lẫn kinh ngạc, nàng tự hỏi đây có phải là do tác dụng thần kì của viên nội đơn?
Câu Hồn Băng Nga chăm chú nhìn Gia Hào, trầm giọng nói:
-Ngươi cất tay về đi. Giờ hãy nghe ta tính chuyện sắp tới... Hiện thời ngươi đang bị Hàm Long Bảo truy lùng, chưa thể công nhiên lộ mặt, mà cũng không nên về gặp phụ thân ta. Ngươi lại chưa phục hồi kí ức, cần tìm phương cứu chữa. Từ nay ngươi phải thay tên đổi dạng, đi theo ta đến một nơi.
-Chỗ nào thế Giang tỷ?
-Rồi ngươi sẽ biết... Ta định đưa ngươi đi gặp một vị thần y diệu thủ, có thể giúp ngươi tìm lại trí nhớ...
Thật ra ý nàng chỉ muốn tìm tới người giỏi nghề y dược để kiểm nghiệm thử xem máu chàng hóa độc chăng? Nếu đúng là vậy thì tính liệu phương cách giải trừ. Câu Hồn Băng Nga mỉm cười nói
-Chuyến này mình ra Bắc... đường xa vạn dặm tha hồ du sơn ngoạn thủy. Ngươi thích không?
Gia Hào hờ hững gật đầu. Nàng lại bảo:
-Phần ta sẽ cải dạng nam nhân... Còn ngươi phải luôn đeo mặt giả, đổi tên là...
Nàng cắn môi suy nghĩ rồi gật gù:
-Ngươi trải qua đại nạn mà vẫn bình an, thật chẳng khác vàng không sợ lửa. Vậy hãy lấy tên Kim nghĩa là vàng. A ha! Phùng Kim... nghe được lắm!
Câu Hồn Băng Nga chuyển giọng nghiêm trang:
-Mình giả làm huynh đệ đồng tông... Ta cũng đổi danh tính thành... à, thành Phùng Ngọc vậy. Từ nay ta làm người họ Phùng, bọn mình Kim Ngọc sánh đôi...
Nàng chợt đỏ mặt. Hai người vốn không phải họ hàng, nàng lại là nữ nhân trinh bạch, bởi vui miệng mà thốt lên “làm người họ Phùng”, “Kim Ngọc sánh đôi”... nghe giống lời tình ái thân mật, nghĩ thật ngượng ngùng. Câu Hồn Băng Nga nói lãng:
-Khi ta giả dạng nam tử ngươi phải nhớ kêu là Ngọc ca... chớ gọi Giang tỷ mà lộ sơ hở.
Gia Hào khẽ gật đầu. Nàng hạ giọng:
-Bọn Hàm Long Bảo cứ ngỡ Hào đệ đã trốn xa, đâu ngờ ngươi còn ẩn thân dưới Huyền Nhai này. Mình hãy trú lại đây vài ba hôm nữa... chờ ngươi khỏe hẳn mới lên đường.
Nàng quay người qua bọc hành trang, lấy ra một tấm chăn mỏng, trải xuống nên hang rồi đứng dậy nói:
-Ngươi hãy nằm nghỉ đi. Ta ra ngoài tìm săn ít thịt tươi về dùng...
Gia Hào và Câu Hồn Băng Nga trải qua hai ngày yên bình trong thạch động. Chàng ngủ nhiều ăn ít, khi thức thì im lặng ngồi ngó mông lung, chỉ lúc nào Câu Hồn Băng Nga gọi hỏi mới đáp lời khô khan ngắn gọn. Nàng không vì thế mà bực bội buồn chán, vẻ mặt vẫn rạng tươi. Quả là tình yêu có mãnh lực cải đổi tâm tính con người. Một tiểu ma nữ độc ác, kiêu ngạo ích kỉ như Câu Hồn Băng Nga nay trở thành cô gái nhu hòa, hết lòng chăm sóc ý trung nhân với thái độ ân cần hiền dịu, chăm lo mọi chuyện từ chải đầu cột tóc đến việc xoa bóp kinh huyệt giúp chàng thông mạch hoạt huyết. Cả đêm lẫn ngày, nàng thường ngồi dựa lưng bên cửa động để canh phòng cho Gia Hào nằm ở phía trong hang. Thỉnh thoảng nàng ra ngoài, mang theo con Tiểu Bạch đi dọc bờ sông vắng dò xem động tĩnh, vừa tìm bắt các loại động vật nhỏ như ếch, rắn đem về làm thịt nướng ăn. Chuyện này vốn bình thường với Câu Hồn Băng Nga bởi nàng từng bôn tẩu giang hồ, từng sống nhiều ngày trong thâm cốc hoang dã với cha mẹ.
Qua hết ngày thứ ba ẩn thân ở hang đá dưới chân núi Huyền Nhai, Gia Hào đã đi lại như thường, nội thể hoàn toàn khỏe mạnh chẳng thấy sự biến gì bất ổn...
Sáng nay Câu Hồn Băng Nga thức dậy từ sớm tinh mơ trong lúc Gia Hào còn say ngủ. Nàng soạn lấy y phục mới đi ra bờ sông hóa trang thành nam nhân, xong trở vào động đánh thức Gia Hào, đưa cho chàng một tấm mặt nạ bằng da người rất mỏng, bảo chàng đi rửa mặt rồi đeo nó lên để cải biến dung mạo. Sau đó nàng dẫn Gia Hào ra khỏi hang đá, len lỏi tìm lối đi men theo bờ Tư Giang, xuôi về phía đông rời xa địa phận Hàm Long Bảo...
HỒI THỨ MƯỜI BỐN
MUÔN DẶM ĐƯỜNG XA CẦU CHỮA TRỊ
Câu Hồn Băng Nga dẫn theo thiếu niên họ Phùng ngày đi đêm nghỉ, qua gần hai tháng bình an vô sự, hai người đã tới thành Bình Lương ở Lũng Đông tỉnh Cam Túc. Trong lộ trình vạn dặm lên miền Bắc này, lúc thì họ đi bằng thuyền đò hoặc xe ngựa, lại có đoạn cùng nhau bộ hành, thỉnh thoảng nàng đưa chàng ghé thăm các danh lam thắng cảnh nổi tiếng. Những khi nghỉ lại trấn thành, Câu Hồn Băng Nga luôn mướn hai phòng trọ riêng biệt, mỗi người ở một phòng. Nàng tận tâm chăm sóc chàng thiếu niên, bao quản chu đáo mọi việc, bày dạy nhiều kinh lịch giang hồ, nhờ thế mà kiến thức chàng mở rộng hơn, đầu óc càng thêm thông biến linh hoạt.
Giờ đây hai người là huynh đệ họ Phùng với y phục thư sinh màu vàng nhạt, vai đeo bọc hành trang, trên tay một chàng ôm con cáo trắng nhỏ xinh xắn, phong thái của họ nhàn nhã trông như đang du hành thưởng ngoạn. Hai anh em đến Bình Lương khoảng đầu tháng sáu. Quang cảnh khắp nơi nhộn nhịp rộn ràng, trên đường vào thành tấp nập người đi lại, điều thú vị là có rất nhiều nữ nhân môi son má phấn với y trang hoa lệ ngồi bên lề phố, đưa hai bàn chân bó nhỏ mang hài đẹp chìa ra phía ngoài đường... Câu Hồn Băng Nga trong tướng mạo thư sinh Phùng Ngọc mỉm cười bảo chàng thiếu niên Phùng Kim:
-Hay thật! Bọn mình tới đúng dịp ở đây khai diễn Trại Cước Hội hằng năm.
Phùng Kim ngơ ngác hỏi:
-Trại Cước Hội à? Là lễ tục gì thế đại ca?
Câu Hồn Băng Nga giải thích cho chàng rõ hội lễnày nguồn gốc từ thời nhà Tống thống trị Trung Hoa. Thưở đó ở biên thùy phía Bắc, quân nước Liêu gây chiến không ngừng, đôi bên đánh nhau liên miên, kéo dài thế giằng co khó dứt. Về sau Tống và Liêu giảng hòa, làm lễ bãi binh hưu chiến cho quân sĩ nghỉ ngơi, gọi là Lượng Giáp Hội, từ đó ngoa truyền thành Trại Cước Hội thường diễn ra hằng năm ở các địa phương miền Bắc vào ngày sáu tháng sáu. Đây cũng là ngày lễ Kinh Sái (Phơi Phóng) theo truyền thống dân gian Trung Hoa, các nhà đều đem chăn màn quần áo cùng các vật dụng ẩm mốc ra phơi nắng trước khi mưa lụt tháng bảy đổ về.
Người phương Bắc thường tới đền miếu trong ngày lễ hội để vui chơi, việc này họ gọi là “Địch Miếu”. Lúc bình thường phụ nữ quanh quẩn trong nhà, khi có hội lễ mới được ra ngoài thong dong nên ai cũng hân hoan trang điểm son phấn, xông hương thơm đeo ngọc vàng, y trang lộng lẫy diêm dúa, mang hài và tất thật đẹp để khoe bàn chân bó nhỏ với thiên hạ.Chẳng kể là có chồng hoặc chưa, các nàng lũ lượt ra đường nhàn du ngoạn cảnh. Phụ nữ ở vùng nông thôn hẻo lánh cũng đua nhau đến trấn thành, người có tiền thì đi xe ngựa hoặc cưỡi lừa, kẻ nhà nghèo đành cuốc bộ .Tới nơi rồi, họ xếp hàng ngàng ngồi kề nhau ở hai bên hè phố, để lộ đôi bàn chân ra ngoài gấu váy ống quần để cho người ta xem ngắm bình phẩm. Nữ nhân miền Lũng Đông này thích đi giày thêu hoa nhỏ màu hồng hoặc lam , trên hài đính hạt cườm long lanh đủ sắc, mang tất hài màu ngó sen, nhìn thật vui mắt khoái dạ.
Theo thông lệ thì tại đền miếu tiến hành Trại Cước hội thường mời ban kịch tới diễn, dựng khán đài cao gọi là Thiên đài cho phụ nữ đứng xem . Lúc ấy các chàng trai tụ tập bên dưới Thiên đài, nhìn ngắm những bàn chân nhỏ mà phẩm bình so sánh. Họ dựa theo năm tiêu chuẩn là bé , nhọn ,gầy. mềm, thẳng, lựa chọn ra ba người có bàn chân nhỏ đẹp nhất, trao gấm lụa son phấn làm quà thưởng và không tiếc lời trầm trồ ca ngợi . Các chàng trai ném những cành hoa phượng tiên vào ba nữ nhân được chọn tuyển. Ba nàng đều thu nhận hết, sau khi tan hội mang tất cả hoa ấy về nhà, giã nát ra vắt lấy nước nhuộm hồng bàn chân . Nữ nhân nào được chọn cũng đắc ý vui mừng, coi đó là vinh dự lớn, cả cha mẹ với chồng của họ khoái chí hãnh diện vô cùng. Còn những cô nàng không trúng tuyển thì buồn sầu ảo não. Trong Trại Cước Hội có lệ cấm không cho nam nhân xem mặt phụ nữ đã được bình chọn , ai phạm qui sẽ bị người ta xúm vào đánh đuổi ra khỏi trường hội .
Huynh đệ họ Phùng chen lẫn trong đám đông đứng quanh Thiên đài. Phùng Kim vốn là kẻ lạc hồn không ký ức, chẳng quan tâm đến chuyện bàn chân to nhỏ hay dung mạo đẹp xấu, còn Câu Hồn Băng Nga thì hiếu kỳ muốn nhìn xem tận tường. Tuy bản tính nàng ác ngạo ngang bướng, nhưng hiện thời vì phải lo tính việc giải trừ máu độc cho Phùng Kim nên Câu Hồn Băng Nga rất ngại gây chuyện phiền hà trắc trở, bởi vậy nàng tuân thủ qui lệ của Trại Cước Hội từ đầu tới cuối và dặn Phùng Kim làm theo mình, chớ có hành động khác thường ngớ ngẩn...
Lúc này trong đám đông gần huynh đệ họ Phùng có hai hán tử , một trẻ ,một tráng niên , trông dáng thô hào mà trang phục sang trọng diêm dúa. Cả hai đang nhìn ngắm những đôi bàn chân phụ nữ trên Thiên đài, vừa cười nói bàn luận . Khuôn mặt hán tử trẻ chợt biến sắc, y quay đầu kề tai hán tử tráng niên , nói nhỏ giọng thảng thốt:
-Mã huynh! Con Hồng Tuyến Xà trong túi áo đệ ...bỗng dưng nó cựa quậy dữ ...
Hán tử tráng niên có vẻ ngoài già dặn , vẫn trầm tĩnh đáp thật khẽ tiếng:
-Con Hồng Tuyến Xà của ta cũng vậy!Chắc nó phát hiện ở quanh đây khoảng ba trượng có Thiên Độc Hóa Thân, tức là người đã luyện Thiên Độc Công hoặc từng uống Thiên Độc Thánh Hoàn.
Y ngừng nói, nhíu mày suy nghĩ chốc lát rồi tiếp lời:
-Kỳ quái thật ! Khắp thiên hạ , ngoài Cốc chủ của chúng ta.... Còn ai có Thiên Độc Thánh Hoàn ?Nếu không phải là con cháu của Cốc chủ hoặc chức sắc cao cấp thì làm sao luyện được Thiên Độc Công....mà tại nơi này ta chẳng thấy cao thủ bổn Cốc hiện diện... Vậy đây là kẻ nào? Sự tình rất hệ trọng , không thể bỏ qua. Bọn mình phải tra xét kỹ càng, tìm cho ra nguyên ủy...
Hán tử trẻ nhớn nhác ngó quanh . Hán tử tráng niên kéo vai y, nghiêng đầu thì thầm:
-Ngươi phải cẩn trọng chứ!Chớ nên lộ vẻ gì khác lạ khiến người ta ngờ vực . Kẻ đã luyện hóa Thiên Độc đương nhiên chẳng phải hạng tầm thường, hành động không khéo bọn ta sẽ gặp nguy hiểm... Nếu đây là cao thủ của bổn Cốc cải dạng thì chẳng lo gì, bằng như người ngoài tất nhiên mình phải truy rõ lai lịch tông tích .Này Chu lão đệ ! Con Hồng Tuyến Xà trong áo ta rúc đầu về phía phải, còn bên ngươi thế nào?
-Cũng vậy Mã huynh à.Con linh xà của đệ cứ chĩa đầu sang mé phải...
-Thế thì chắc rồi. Ở phía đó cách bọn mình gần ba trượng có hai hoàng y thư sinh phong thái khác thường, trông rất lạ mặt không phải người sống ở đây .Mình hãy đến gần sát họ xem thử .Nếu đúng cơ thể hai người này ẩn tang Thiên Độc thì Hồng Tuyến xà sẽ rung đuôi báo hiệu .
-Mã huynh nói thế chắc không sai rồi. Để ngu đệ đi trước...
Hai hán tử ngưng thì thầm, động thân nối bước cùng chen qua đám đông tiến về phía huynh đệ họ Phùng. Câu Hồn Băng Nga với Phùng Ngọc lúc dừng lúc chuyển theo đám người dạo quanh Thiên đài. Khi đã chán nhìn những bàn chân bó nhỏ, nàng bảo chàng:
-Kim đệ !Mình ra ngoài tìm nhà trọ nghỉ ngơi đã, mai sẽ đi lên núi Không Động ...
Phùng Kim hỏi:
-Đệ nghe Ngọc huynh nói Không Động ở gần đây mà, sao mình không thẳng tới đó luôn ?
Câu Hồn Băng Nga đáp khẽ:
-Vì người mà ta cần gặp... là chủ nhân Bàn Cổ động trên núi ấy chỉ tiếp khách vào ngày lẻ, mình đâu thể trái lệ . A hà!Trong lòng ta thật rất lo...
-Ngọc huynh lo gì vậy?
Nàng thở ra:
-Chẳng biết có gặp được chủ nhân động Bàn Cổ chăng?Mà gặp rồi có thỏa ý mình cầu xin chữa trị ? Đâu phải chuyện gì ta muốn là được cả. Nếu sự việc bất thành thì quá uổng công mình lặn lội tới đây...
Nàng bỗng kéo tay Phùng Kim , vừa chắc lưỡi nói:
-Chậc !Dù gì bọn mình cũng đang rỗi rảnh, hãy qua xem diễn kịch một lúc đi.
Bên sân miếu Thiên Vương dựng sàn có mái che rộng , ban kịch đang diễn tuồng truyền kỳ “Lệ Cảnh Ký”. Hai người đứng xem chưa lâu , Câu Hồn Băng Nga lên tiếng hỏi:
-Đệ thích không?
Phùng Kim lắc đầu nói:
-Chẳng khoái chút nào.
-Thế ngươi đã xem tuồng này bao giờ chưa?
-Đệ không nhớ.
-À phải... Dù trước đây ngươi từng xem thì nay cũng chẳng nhớ gì... Ký ức của ngươi đâu còn nữa...
Nàng tiếp lời giải thích cho Phùng Kim biết tuồng Lệ Cảnh Ký kể lại một chuyện tình cảm động . Nhân vật nam chính là Trần Cam , đêm Nguyên Tiêu đi ngắm hoa đăng ngoài phố, tình cờ gặp mặt giai nhân Ngũ nương, hai bên cùng sinh tâm ái mộ . Nhưng phụ mẫu Ngũ nương muốn gả nàng cho Lâm đại phú hào, Ngũ nương từ chối sính lễ của họ Lâm , đạp nát thoa vàng, nhất quyết không chịu. Năm sau , Trần Cam trở lại đứng trước nhà Ngũ nương, nàng tựa hiên lầu nhìn xuống, lấy chiếc khăn tay thêu bốn chữ “Nhân duyên trọn đời” gói quả lệ chi ném xuống cho chàng. Sau đó, Trần Cam cải trang làm thợ mài gương rồi tự bán thân vào nhà Ngũ nương làm nô bộc, cuối cùng kết hợp với nàng, đưa nhau lén trốn đi nơi khác trọn đời chung tình phu phụ ... Câu Hồn Băng Nga lại nói:
-Trong nghề kịch có bốn loại vai diễn là” Đán , Sinh , Tịnh, Sửu”. “Đán” gọi chung các vai nữ, còn “Sinh , Tịnh , Sửu” đều là vai nam...
Nàng chỉ tay vào Ngũ nương trên sàn kịch :
-Đệ nhìn xem . Nhân vật nữ chính trong tuồng như Ngũ nương phải do một nữ ưu tài sắc, tinh nghề diễn xướng đảm nhận . Còn mấy vai khác như “sửu đán”, “tịnh đán” thường dùng người nam đóng giả.Ngược lại , “tiểu sinh”, “chính sinh”có lúc do người nữ nhập vai .
Câu Hồn Băng Nga đưa tay sửa mũ vén tóc mình, miệng tiếp tục nói:
-Nếu đệ xem qua nhiều tuồng, ắt sẽ thấy riêng vai nữ chính đã có mấy kiểu dạng , ấy là “hoa đán” yểu điệu hoạt bát, “khuê môn đán” nhu nhã thùy mị , “đao mã đán” tha thướt đoan trang...Các vai nam lại càng khác biệt về cách diễn, như “lão sinh” phải ung dung nghiêm nghị , “tiểu sinh” thật điệu đàng phong lưu, “lão ngoại” dáng già khô ngang chướng, “hoa kiểm” thì thô hào lỗ mãng, còn “tiểu sửu” lúc nào cũng rang mãnh nghịch ngợm...
Lúc này, tuồng đang diễn tới cảnh Ngũ nương tương tư đợi chờ Trần Cam . Nàng gạt lệ buồn rầu cất tiếng hát:
-Mai thụ biên , hoa thảo do nhân luyến. Sinh tử tùy nhân nguyện . Tân toan sở sở vô tâm oán. Đài đả tinh hương hồn nhất phiến. Âm vũ cô thiên , thủ đích cá mai căn tương kiến...
(Bên gốc mai , hoa cỏ mến vì người.Sống chết nguyện theo người. Đắng cay lòng không oán. Một mảnh hồn thơm lưu luyến. Mưa tối trời côi, đợi ở gốc mai chờ tương kiến...)
Tiếng ca của Ngũ nương ai oán thê lương khiến người xem đều xúc động . Câu Hồn Băng Nga vốn lãnh ngạo khô khan mà cũng xao lòng thương xót, hẳn vì nàng đang ôm niềm mê ái Phùng Ngọc nên tâm dạ yếu mềm đồng cảm. Nàng chợt nói trống không:
-Đến dự hội Trại Cước mà được xem tuồng Lệ Cảnh Ký thật là khoái hạt ...Ta nghe rằng lúc trước ở Giang Nam, mỗi khi diễn xong tuồng này thì lại có nhiều thiếu nữ trốn nhà đi theo người tình...
Nàng nghiêng đầu qua Phùng Kim , chuyển giọng hỏi:
-Kim đệ !Ngươi thấy cô Ngũ nương si tình kia có đáng thương không?
Chàng thiếu niên lắc đầu nói:
-Không.
-Vì sao thế?
-Việc gì phải khóc lóc, than thở chờ đợi ... Thích ai thì cứ việc đi tìm gặp người đó là xong mà...
-Ngươi ngốc quá!Lễ giáo đâu cho phép khuê nữ đi lung tung...
-Vậy sao đại tỷ... À, Ngọc đại ca lại đi lung tung với đệ ...
Câu Hồn Băng Nga trừng mắt:
-Ngươi chớ nói lăng nhăng! Ta khác chứ..Thôi! Đi ra ngoài tìm chỗ trọ ...
Trời đã gần trưa khi huynh đệ họ Phùng rời Thiên Vương miếu. Nắng hè phương Bắc khô hanh oi ả. Cách đại môn Thiên Vương miếu chằng mấy chục trượng , một người trung niên mặt choắt râu chuột với y phục màu thâm cũ đang đứng dưới bóng cây bên lề đường vắng. Trên nền đất trước mặt ông ta đặt cái tráp đen , cạnh đó cắm cây phướn ngắn bay phất phơ trong gió nhẹ . Trên tay người trung niền cầm bộ khánh đồng nhỏ tròn vừa gõ vừa hô:
-Thiên cơ ngã khả lộ !Thần khẩu giải nghi nan!
(Cơ trời ta có thể lộ!Miệng thần giải việc băn khoăn)
Người này rõ ràng là một thầy bói dạo . Ông ta nhìn thấy huynh đệ họ Phùng đang đi tới liền bước ra đón đường dáng xum xoe chắp tay nói:
-Kính chào nhị vị công tử! Trông hai vị đúng là quí nhân thiên tướng, phúc trạch dồi dào... Nhưng sự đời có nhiều chuyện bất tri bất định .. Xin hãy cho bổn nhân bói giúp hai vị một quẻ đoán trước việc mai sau, xem rõ cát hung mà tính liệu đường đi nước bước thuận lợi chu toàn...
Ông ta vừa nói huyên thuyên vừa nắm áo hai người kéo qua lề đường. Trong lòng Câu Hồn Băng Nga vốn đang lo nghĩ chuyện ngày mai đi bái kiến cao nhân , nhờ tìm cách hóa giải máu độc cho Phùng Kim. Thật tình nàng rất băn khoăn vì chưa nắm chắc chuyện này thành bại thế nào. Giờ nghe người thầy bói khoa trương khuyến dụ , bất giác nàng bước theo ông ta. Còn Phùng Kim thấy nàng không phản ứng gì, tất nhiên chàng cũng xuôi thuận . Vừa đến chỗ đặt cái tráp đen , Câu Hồn Băng Nga hất cằm hỏi người thầy bói:
-Mỗi quẻ ông lấy bao nhiêu?
-Tùy lòng quí khách ban thưởng, bổn nhân chẳng nề hà nhiều ít, Nghe giọng nói công tử hẳn là người miền Nam...Muôn dặm đường xa hữu duyên tương ngộ ... Thật vinh hạnh cho bổn nhân . Chỉ mong xem quẻ rồi hai vị sẽ khoan tâm thỏa ý...
Câu Hồn Băng Nga cao giọng :
-Được rồi! Ông tự khoe mình là Thần Khẩu, chắc tài bói toán rất cao siêu . Vậy hãy đóan thử nguyên do bọn tôi đến vùng này... Nếu đúng tôi sẽ xem quẻ tiếp rồi thưởng hậu cho ông, còn như sai thì chẳng cần chiêm bói gì nữa...
Người thầy bói gật đầu:
-Bổn nhân lĩnh ý công tử gia... Xin hai vị đứng chờ bổn nhân soạn quẻ chốc lát...
Ông ta lấy trong túi áo ra một khuôn vải xanh trải lên nền cỏ kề sau cái tráp đen , xong ghé ngồi xếp chân trên tấm vải đó, mở tráp lấy một bó cỏ thi với ba cây nhang rồi đậy nắp tráp lại . Tiếp theo người thầy bói thắp nhang và cắm cả ba cây xuống đất bên cạnh mình. Ông ta đưa bó cỏ thi bảo huynh đệ họ Phùng tùy tâm rút cỏ đặt lên nền nắp tráp để trang quẻ .Sau một lát chăm mắt chiêm nghiệm với vẻ nghiêm kính, người thầy bói trang trọng cất lời:
-Nhị vị công tử!Bổn nhân bói được quẻ Sơn Thiên Đại Súc, động hào ba với hào năm biến thành quẻ Phong Trạch Trung Phu.Theo “Chu Dịch” thì lời quẻ Đại Súc nói “Không ăn cơm nhà”, còn quẻ Trung Phu có ngoại quái “Tốn” là gió trời , nội quái “Đoài” là đầm ao thủy vực , kết hợp hàm ý mà suy diễn thì hai vị đang lưu lãng giang hồ. Lại thêm tượng “Càn” dương nam ở dưới quẻ Đại Súc biến ra tượng “Đoài” âm nữ dưới quẻ Trung Phu. ..Như vậy là “Càn” Dương tìm tới “Đoài” Âm , có nghĩa rằng quí khách đang mong tìm gặp một người nữ ở hướng Tây, bởi phương vị của “Đoài” Âm nằm tại hướng này...
Đôi mắt Câu Hồn Băng Nga lộ ánh kinh ngạc . Chủ nhân động Bàn Cổ mà nàng muốn tìm gặp đúng là phụ nữ, còn núi Không Động hiển nhiên tọa lạc ở phía Tây thành Bình Lương. Thật không ngờ quẻ bói thần diệu như thế. Nàng gục gặc đầu, mỉm cười hỏi:
-Hay thật ! Giờ ông bói xem việc bọn tôi đang mong cầu sẽ có kết quả ra sao?
Người thầy bói chắp tay đáp:
-Xin tuân lời công tử.
Sau khi trang quẻ mới và xem hào tượng , ông ta nói:
-Đây là quẻ Trạch Lôi Tùy, trên “Đoài” dưới “Chấn” biến thành quẻ Địa Phong Thăng. Nhị vị công tử!Theo hào tượng mà suy thì quẻ Tùy hàm nghĩa tùy thời nhi tiến chẳng nên đứt đoạn ngừng nghỉ.Còn quẻ Thăng ẩn ý vượt lên không nghi ngờ lo lắng. Vậy từ quẻ này diễn đoán thì việc mong cầu dù có trắc trở thế nào , cứ kiên tâm theo đuổi ,chắc chắn hai vị sẽ thỏa nguyện .
Được lời như cởi tấm lòng, Câu Hồn Băng Nga mềm giọng vui vẻ:
-Quẻ đã nói thế thì tôi yên tâm rồi!Thưởng cho ông đây!
Nàng mở bọc hành trang lấy nửa lạng bạc đưa cho người thầy bói. Ông ta vội vàng đứng dậy khúm núm cầm thỏi bạc , miệng nói lia:
-Đa tạ ! Đa tạ ! Bổn nhân xin cầu chúc quí khách phúc hạnh như biển, lộc tài như núi... À! Cho phép bổn nhân được hỏi tôn tính hai vị công tử...
Câu Hồn Băng Nga phẩy tay nói gọn :
-Chúng tôi họ Phùng...
Rồi nàng xoay qua bảo Phùng Kim :
-Trời trưa rồi!Ta vào thành thôi.
Nàng kéo tay chàng đi về phố tìm nhà trọ. Khi họ vừa khuất bóng, hai hán tử phục trang diêm dúa từ ngã đại môn Thiên Vương miếu xuất hiện . Cả hai chính là môn nhân của Độc Cốc luôn mang theo Hồng Tuyến xà trong mình, vừa rồi khi xem hội ở sân miếu Thiên Vương, họ phát hiện huynh đệ Phùng gia ẩn tàng hóa thân Thiên Độc . Lúc này hai hán tử bước nhanh về phía người thầy bói đang còn đứng trên lề đường. Khi tới kề bên ,gã tráng niên họ Mã thấp giọng hỏi ông ta:
-Ngô huynh!Việc dò xét hai gã thư sinh đó thế nào rồi?
Thầy bói họ Ngô liếc nhìn quanh rồi nói nhanh:
-Quả đúng như lời các vị truyền báo... Khi ngu mỗ dẫn dụ họ xem quẻ đã ra ám hiệu của bổn Cốc mà họ không đáp lại, rõ ràng đó là ngoại nhân , không phải thượng cấp chúng ta cải dạng. Rồi ngu mỗ thắp nhang có tẩm Hiển Thần Hương để tra thám Thiên Độc , thì thấy trong đáy mắt thư sinh tên Kim thoáng hiện ánh tím , chứng tỏ chính là gã này...
Thầy bói họ Ngô cau mày, hạ giọng tiếp:
-Chúng tự xưng họ Phùng... Trong võ lâm chỉ có Phùng gia ở Phù Nguyệt Trang tại Ký Bắc được chút tiếng tăm trên giang hồ, không biết chúng có liên hệ gì nơi đó chăng? Ngu mỗ sẽ xin thượng cấp cử người tra xét hướng này. Còn suy theo lời chúng trò chuyện mà các vị nghe lỏm được thì gã trẻ tên Kim có lẽ bị mất trí nhớ, gã lớn tên Ngọc là nữ giả nam.Chúng tìm chủ nhân Bàn Cổ động chắc hẳn cần nhờ chữa trị bệnh tật chi đó... Các vị cũng biết việc phát hiện Thiên Độc ở ngoại nhân là chuyện hệ trọng vô cùng, chỉ có Cốc chủ mới giải quyết được , bọn ta không thể tự ý hành xử. Nhưng hiện nay Cốc chủ bận việc đã đi Giang Nam rồi, đường xa vạn dặm chưa rõ vắng mặt bao lâu. Vậy ngu mỗ gọi thêm môn nhân bổn Cốc , cùng hai vị chia nhau ngày đêm theo dõi chúng, tuyệt đối không để mất dấu lạc người...
Ông ta hắng giọng , nối lời bảo hai hán tử:
-Ngu mỗ sẽ cấp báo về Tổng Đàn xin mượn pháp bảo Nhiếp Phách La cho các vị , chờ khi có cơ hội tốt thì dùng nó bắt gã Phùng Kim đưa về bổn Cốc. Hiện thời trên người chúng đã dính ám hương, các vị nhờ Hồng Tuyến xà truy vết bám theo hai gã cũng dễ dàng. Thôi!Các vị hành sự liền đi , chớ đứng đây nói chuyện lâu khiến người ta để ý, lỡ tai vách mạch rừng thật không hay.
Hai hán tử họ Mã, họ Chu lặng lẽ cung tay chào người thầy bói rồi quay bước đi vào thành...
HỒI THỨ MƯỜI LĂM
QUYẾT ĐI TÂY VỰC GẶP DANH Y
Núi Không Động cách thành Bình Lương ba mươi dặm về phía Tây, nằm giữa vùng thượng du sông Kinh và sông Hậu Hiệp, trải hai trăm dặm bề dài, cao hơn sáu mươi trượng. Do hình dạng mà núi còn có tên là Trâm Đầu, trước nay từng được mệnh danh “Tây lai đệ nhất danh sơn”. Núi Không Động chính là Thánh Địa Đạo Giáo đầu tiên, được vua chúa và đạo gia các triều đại tôn sung. Theo truyền thuyết thời cổ Hoàng Đế Hiên Viên đã tới vùng núi này tìm gặp Quảng Thành Tử để hỏi đạo, về sau có Phi Vân Chân Nhân đắc pháp thành tiên ở đây...
Ngọn chính của núi Không Động trông như một bình phong thiên nhiên xanh ngắt, vì vậy có tên là Thúy Bình Phong, kề bên là Vọng Giá Phong cheo leo khe vực, đá lạ san sát, tùng bách cổ thụ tươi tốt chọc trời, ở xa mà ngắm thì tưởng như sóng xanh trào lên cao mãi không dứt. Trên núi đền chùa miếu mào lung linh ẩn hiện, gác nổi lầu bay tựa cảnh tiên...
Vào thời Trinh Quán nhà Đường, thiền sư Nhân Trí phát nguyện mở lối lên tận đỉnh Không Động, đã kì công đào tạc theo vách núi một “Thang Trời” có ba trăm bảy mươi tám bậc đá. Lúc này trong ánh nắng mùa hạ rực vàng, huynh đệ họ Phùng leo lên đến nửa bậc “Thang Trời” rồi chuyển qua ngã rẽ đi tới động Bàn Cổ. Đây là động treo có từ thời xa xưa, hiện nay chủ nhân cư ngụ trong đó nổi danh khắp giang hồ với ngoại hiệu Tây Âm Dược Mẫu. Nhân vật này là một đạo bà tính tình quái dị, đứng giữa chính tà bất phân thiện ác, Tây Âm Dược Mẫu lừng tiếng võ công cao diệu, lại kiêm tài phối chế kì dược chuyên trị các nan chứng, bởi vậy thường có người mang quái bệnh tìm tới động Bàn Cổ xin cứu chữa. Nhưng không phải bất kì ai đến cầu thuốc cũng được thỏa nguyện, vì Tây Âm Dược Mẫu vui giận thất thường, ghét thương khó đoán, hành sự vượt ngoài lý lẽ, một khi bà ta đã không thích cứu thì dù có van xin lạy lục cách nào cũng vô ích. Nhiều lần thấy người bệnh chết trước mặt bà vẫn lạnh lùng dửng dưng.
Trước cửa động Bàn Cổ là khoảng bình đài vắng lặng, chung quanh rợp bóng cổ tùng. Huynh đệ họ Phùng vừa lên tới đây, đang còn đứng ngơ ngác chưa biết hỏi ai thì từ trong động bước nhanh ra một đạo cô trung niên sắc mặt u ám, chăm nhìn hai người khách lạ rồi cất giọng the thé hỏi:
-Các ngươi là ai?
Phùng Ngọc cung tay đáp:
-Kính chào tiên cô! Chúng tôi là Phùng gia huynh đệ ở Giang Nam... có việc cần xin cầu kiến Dược Mẫu.
Vẻ mặt đạo cô dịu xuống, chắc là do được tôn xưng “tiên cô” và nhìn thấy phong thái nhu nhã của khách. Bà ta trầm giọng:
-Cần việc gì thế?
Phùng Ngọc cúi đầu kính cẩn:
-Chúng tôi cầu Dược Mẫu chữa bệnh.
-Vậy thì các ngươi hãy về đi.
Câu đuổi khách thẳng thừng đường đột khiến Phùng Ngọc ngớ người , vội chắp tay nói:
-Mong tiên cô rộng lòng ban ơn... Xin hãy trình báo Dược Mẫu cho chúng tôi được bái kiến.
Đạo cô lắc đầu:
-Đừng nói trình báo, dù ta có đưa các ngươi vào cũng không thể gặp mặt bổn sư tôn...
Phùng Ngọc cau mày hỏi:
-Vì sao thế? Phải chăng chúng tôi có điều thất lễ, vô tình phạm phải cấm lệ nơi đây? Hay là tiên cô muốn chúng tôi đáp ứng điều kiện gì? Xin cứ nói rõ ra để chúng tôi biết đường lo liệu...
Đạo cô buông giọng nhạt nhẽo:
-Chớ nghĩ lung tung. Đơn giản là bổn sư tôn đã vân du rồi...
Phùng Ngọc lộ vẻ thất vọng, hỏi ỉu xìu:
-Dược Mẫu đi vắng thật ư?
-Phải.
-Tiên cô không gạt chúng tôi chứ?
Đạo cô sầm mặt:
-Ta mà thèm gạt các ngươi sao?
Phùng Ngọc vội cung cẩn xoa dịu:
-Xin tiên cô thứ tội lỡ lời...
Rồi mềm giọng hỏi:
-Chừng bao lâu Dược Mẫu mới về lại?
Đạo cô lạnh lùng đáp:
-Ta chẳng rõ... Có khi là một hai năm.
Phùng Ngọc đứng tần ngần chưa biết nói gì, đạo cô tiếp lời bảo:
-Bổn sư tôn hiện đã tới một nơi ở quan ngoại. Ta nghĩ thương các ngươi tốn công sức từ ngàn dặm đến đây... nên cũng muốn cho các ngươi hay địa điểm bổn sư tôn lưu trú. Nhưng chỗ đó rất xa, hành trình khó nhọc e rằng các ngươi chẳng kham nổi...
Phùng Ngọc vui mừng nói:
-Đa tạ tiên cô rủ lòng thương tưởng... Dù đường xa cách trở thế nào chúng tôi cũng quyết đến tận nơi. Mong tiên cô cho biết chỗ Dược Mẫu tạm ngụ...
Đạo cô gật nhẹ đầu:
-Nơi đó là Tam Tiên Động ở huyện Ô Kháp trong miền cực tây Tân Cương, cách đây khoảng bảy tám ngàn dặm.
Phùng Ngọc ngơ ngẩn:
-Xa vậy ư?
-Thì ta nói rồi mà. Các ngươi nên biết lộ trình này phải đi qua vùng núi Kỳ Liên, Thiên Sơn, sa mạc Đại Qua Bích, vượt Thông Lĩnh mới đến được. Chắc rồi các ngươi cũng bỏ cuộc nửa chừng...
Phùng Ngọc nghiêm trang nói:
-Chúng tôi nguyện chưa tới đích quyết không lui bước quay về... Chỉ ngại mất công mà chẳng gặp Dược Mẫu!
-Các ngươi chớ lo. Bổn sư tôn mới đi ra quan ngoại chừng nửa tháng... Chuyến này bổn sư tôn có việc cần lưu trú ở Tam Tiên Động ít nhất là một năm. Vậy các ngươi cũng không nên vội gấp, cứ thong thả đi tới nơi là chắc chắn gặp. Thôi! Các ngươi xuống núi đi.
Phùng Ngọc thi lễ nói:
-Đội ơn tiên cô chỉ đường... Chúng tôi xin cáo biệt!
Huynh đệ họ Phùng quay trở lại thành Bình Lương vào lúc nửa chiều. Phùng Ngọc ưu tư nói:
-Kim đệ! Đường đi Tam Tiên Động xa xôi hiểm trở... phải vượt qua sa mạc, núi tuyết sông băng... Ta chưa có dịp ra quan ngoại nên chẳng rành lối, mà cũng không quen phong thổ lệ tục của cư dân vùng này. Nếu theo cách thông thường là đi chung với các đoàn thương buôn thì quá chậm, lại bị gò bó. Chi bằng mình tìm thuê một người thông thạo miền Tây Vực nhờ dẫn đường, rồi mua ba con tuấn mã cưỡi đi cho tiện...
Phùng Kim nhíu mày:
-Nhưng ngu đệ chưa từng cưỡi ngựa...
Phùng Ngọc phẩy tay bảo:
-Ngại gì chứ! Cứ tập là biết. Mình ở lại đây thêm một ngày nữa. Chừng ấy cũng đủ cho Kim đệ nắm vững thuật kỵ mã rồi.
Hai hôm sau lúc ánh mặt trời vừa tỏa rạng, ba kỵ sĩ phóng ngựa ra cửa tây thành Bình Lương, mang theo hành trang cột bên yên với các bịch da dê đựng nước. Đi đầu là một lão hán áo xanh trạc năm mươi tuổi, dáng gân guốc với thần thái tinh nhanh, vẻ mặt hồn hậu. Huynh đệ họ Phùng ruổi ngựa theo sau. Phùng Ngọc đã thuê lão hán này dẫn đường qua Tây Vực. Ba người tới trấn huyện Vĩnh Tĩnh lúc chiều tối, ghé vào thành ăn uống rồi thuê phòng trọ nghỉ đêm. Sáng sớm họ phóng ngựa lên phía bắc, tới bờ sông Hoàng Hà. Đoạn này lòng sông hẹp, màu nước trong xanh do ít phù sa, hai bên vách núi dựng đứng. Ở một chỗ dốc xuôi có tên “Dã hồ khiêu” (Chồn hoang nhảy) người ta xây cầu đá bắc qua sông. Lúc này đường rộng vắng, huynh đệ họ Phùng với lão hán cho ngựa đi thong thả lên cầu. Lão hán cao giọng nói :
-Nhị vị thiếu gia! Đây là cây cầu được mệnh danh “Thiên hạ đệ nhất kiều”. Trong các sách “Thủy kinh chú” với “Hà Châu chí” đều ghi rõ cầu này do Ất Phục thị ở xứ Tây Tần xây nên vào thời Đông Tấn...
Phùng Ngọc lộ vẻ thú vị:
-Quả là công trình kì cổ! Lâm đại thúc! Tiểu điệt nghe nói sông Hoàng Hà đảo dòng tại vùng này phải không?
Lão hán họ Lâm gật đầu:
-Chẳng sai. Bên bờ vách kia có động núi tên tên gọi La Gia, theo truyền thuyết lưu lại... thì ngày xưa hoàng tử nước “Ni Bạc Nhĩ” từ Tây Vực tìm vào đó ẩn cư tu hành, vì hoàng tử nằm mộng thấy Phật bảo hãy đến nơi “hồng thổ cái sơn đỉnh, hoàng hà thủy đảo lưu” (đất đỏ trùm đỉnh núi, sông vàng nước đổi dòng) mà tham thiền ắt sẽ thành đạo. Đúng là tại đây nước Hoàng Hà đang chảy về phía đông lại đổi dòng qua hướng Tây, còn trên đỉnh núi động La Gia quả thật có hồng sa thạch phủ đầy...
Phùng Ngọc đang lắng nghe câu chuyện , Phùng Kim bỗng kêu:
-Ngọc đại ca xem kìa! Hai ngọn núi bên đó trông như hai thiếu nữ...
Lão hán họ Lâm nói:
-Ấy là núi Tỷ Muội (chị em), phía sau có chùa Bính Linh với nhiều động thờ Phật đẹp lắm!
Phùng Ngọc bảo:
-Lâm đại thúc! Gặp thắng cảnh mà bỏ qua cũng uổng. Ta ghé chùa xem một lúc rồi hãy đi.
Họ rẽ qua núi Tỷ Muội vào chùa Bính Linh. Sau khi ngoạn cảnh hang động quanh đó, ba người phóng ngựa qua huyện Vũ Uy. Lúc đến nơi lão hán dẫn đường bảo huynh đệ họ Phùng:
-Nhị vị thiếu gia! Vũ Uy còn có tên Lương Châu, thưở xa xưa đây là nước Cô Tàng. Chắc hai vị cũng biết vào thời cổ, ở miền Hà tây này các sắc dân du mục Đê Khương, Ô Tôn, Hung Nô, Nguyệt Thị đều không có thôn xóm định cư... Về sau vua nhà Hán mới đưa dân từ Trung Nguyên đến lập nên làng mạc. Trước kia Vũ Uy từng là kinh đô của các liệt quốc Ngũ Lương, ... do vậy mà trở thành nơi thịnh hội ở miền Tây Bắc...
Từ huyện thành Vũ Uy ba người đi sang Lạc Đô thuộc đất Thanh Hải, sau đó tiến về hướng tây, đến con sông nhỏ có nước màu hồng rất cạn. Họ thúc ngựa bước qua lòng sông ngổn ngang đá sỏi, lên bờ rồi đi xuyên vạt rừng táo gai. Loại cây khô hạn này được dân bản địa trồng nhiều để ngăn cát lấn, đơm quả nhỏ hơn táo thường. Phùng Ngọc hái mấy quả ăn thử, có cảm giác như nhai bột khô, vị chát hơi ngọt. Ra khỏi rừng táo gai thì thấy trước mắt nhấp nhô cồn cát sa mạc, trông giống sóng biển xám vàng, tuôn ngàn lớp trào dâng không bờ bến, tựa hồ muốn nuốt chửng mọi sinh linh, phủ lấp tất cả, nhìn thật đáng khiếp sợ.
Suốt mấy ngày họ ruổi ngựa chạy men rìa sa mạc hoang vắng, khi đói thì nhai lương khô, đêm chui vào túi vải nằm ngủ giữa trời, thỉnh thoảng gặp ốc đảo họ ghé lại nghỉ ngơi lấy nước và cho ngựa ăn uống giữ sức. Ba người tiếp tục hành trình qua huyện Dân Lạc tỉnh Cam Túc, vượt bình nguyện rộng bao la tới chân dãy Kỳ Liên. Không khí miền sơn dã mát lành, nắng vàng rạng chiếu, bầu trời như vừa mới tắm gội trong suốt lạ thường. Từ xa những đỉnh núi khóac bộ áo tuyết trắng tinh khôi, nổi bật giữa nền trời xanh ngắt trông thật tráng lệ. Bên các triền thấp phủ đầy cỏ mã lan, nhiều đám mọc cao đang chuyển sắc vàng. Ba người theo sơn đạo lên núi, sau nửa ngày họ tới khe hẻm Đại Đẩu Bạt Cốc. Đấy chính là cửa khẩu Biên Đô. Muốn đi về phía tây phải qua hẻm này. Hai bên khe núi rừng sững vách đá cao. Sơn đạo gập ghềnh,dọc theo bờ suối nước trong vắt chảy giữa lòng hẻm rộng. Hiện giờ đang là tháng sáu, dưới bình nguyên đâynắng ấm mà tại đây giá lạnh tê người, tuyết dày xốp dưới chân.
Ra khỏi vùng núi Kỳ Liên, ba người thúc ngựa phi song song trên thảo nguyên bằng phẳng. Nhìn về phía đông có mấy đỉnh núi phủ tuyết nổi lên riêng biệt, Phùng Ngọc chỉ tay qua đó hỏi to:
-Núi gì vậy Lâm đại thúc?
Lão hán đáp rõ:
-Ấy là núi Yên Chi... còn có tên Đại Hoàng do trên núi mọc rất nhiều cây đại hoàng. Tuy nó rất gần Kỳ Liên nhưng hai bên hoàn toàn tách biệt. Nhị vị thiếu gia! Thưở xưa người Hung Nô cư trú ở đây, họ rất yêu quý hai dãy núi này... vì tin rằng ở với Kỳ Liên thì gia súc đầy đàn, mà sống bên Yên Chi thì phụ nữ có được nhan sắc xinh tươi. Từ thời cổ nơi đây đã có mã trường nuôi ngựa cho triều đình, đông tới hàng vạn con...
Phùng Ngọc gật đầu:
-Tiểu điệt cũng từng nghe nói vậy. Lâm đại thúc! Đường tới sông Hắc Thủy còn xa không?
Lão hán cao giọng đáp:
-Từ chân núi Kỳ Liên tới đó chừng hai trăm dặm. Mình phải qua sông rồi đi hết huyện Tửu Tuyền, vượt ải Gia Dụ mới đến Ngọc Môn Quan...
Phùng Ngọc nói:
-Chắc mình không kịp tới bến sông trước khi trời tối...
Lão hán nối lời:
-Chẳng kịp đâu. Theo thiển ý thì ta nên nghỉ lại thành Trương Dịch... cách sông Hắc Thủy sáu mươi dặm, ngày mai hãy đi tiếp.
-Cũng được.
Hôm sau ba người rời thành Trương Dịch, phóng ngựa lên hướng tây bắc tới sông Hắc Thủy. Khi qua bờ bên kia họ nhìn thấy một cổ thành hoang phế, phía sau là dãy sơn thạch, trên đỉnh có phong hỏa đài thời xưa. Lão hán họ Lâm nói với Phùng Ngọc:
-Cổ thành này tên gọi Chiêu Vũ, thưở trước là kinh đô nước “Chiêu Vũ Cửu Tính”... gồm chín tiểu quốc do chín dòng họ người Nguyệt Thị cai quản, sau bị Hung Nô tiêu diệt...
Phùng Ngọc hỏi:
-Chín tiểu quốc nào thế?
-Đó là Khương, An, Thạch, Mễ, Sử, Mục, Hà, Tào, Hỏa Tâm... Hẳn nhị vị từng đọc sử sách đời Đường. chắc cũng biết điệu múa xoay Tây Vực do vũ nữ nước Khương nước Sử truyền vào Trung Nguyên, còn trong mười bộ nhạc của vua Đường có phần nhạc của nước Tào nước Mục... đều thuộc “Chiêu Vũ Cửu Tính”.
Phùng Ngọc cao giọng:
-Vậy mà bản triều vẫn gọi các tộc dân ngoài quan ải là man di, có ý khinh miệt...
Lão hán nói:
-Định kiến thế thôi, chứ thật ra chẳng nên phân biệt coi rẻ. Mà chắc nhị vị chưa biết người “Chiêu Vũ Cửu Tính” rất giỏi kinh doanh, xem trọng việc buôn bán... Khi họ sinh con trai thì lấy mật cho nó ngậm, bôi keo dính vào lòng bàn tay đứa trẻ... mong sau này lớn lên miệng nó nói lời ngon ngọt, tay cầm đồng tiển dính chặt không để rơi.
Phùng Ngọc mỉm cười:
-Hay thật! Còn ở Trung Nguyên mình lại đặt thương nhân vào hạng thấp nhất trong tứ dân!
Lão hán chặc lưỡi nói:
-Đó là quan niệm truyền thống cổ hủ...
Từ bờ sông Hắc Thủy ba người đi mất một ngày đến huyện sở Tửu Tuyền, họ vào thành nghỉ lại. Tửu Tuyền xưa có tên Túc Châu, nổi danh trong cổ sử. Sáng hôm sau lão hán họ Lâm dẫn huynh đệ Phùng gia ghé xem Lầu Trống ở nội thành. Đây là một thắng tích được xây từ thời Tiền Lương, có ba tầng bằng gỗ dựng trên nền cao, với bốn cửa lớn trông ra bốn hướng... Sau đó ba người rời Tửu Tuyền đi tới Gia Dụ Quan, cách bốn mươi dặm. Quan ải này là một tòa thành lũy, nó khởi đầu Vạn Lý Trường Thành từ hướng tây, trên cửa phía bắc treo tấm biển lớn đề “Thiên hạ đệ nhất hùng quan” trông rất khí thế. Ra khỏi ải Gia Dụ họ đến Qua Châu. Khắp trời gió mạnh lồng lộng thổi. Ba người cho ngựa chậm bước. Lão hán tụt lại ngang Phùng Ngọc nói to trong tiếng gió ù:
-Nhị vị thiếu gia! Vùng này trồng rất nhiều dưa bở, dưa bạch lan... do vậy mà có tên Qua Châu. Đây cũng là kho gió nổi tiếng... Vì suốt ngày đêm quanh năm đều có gió, nên dân bản địa hay nói đùa mỗi năm trời chỉ nổi gió một lần...
Từ Qua Châu ba người men theo sông Sơ Lặc đến thành Đôn Hoàng. Lòng sông khá rộng, nước chảy yếu. Trên bãi bờ mấy đám dân đang đào muối ăn. Thành Đôn Hoàng bên sông là một lục châu trù phú, được xem như cửa ngõ yết hầu thông thương với Tây Vực. Hai chữ Đôn Hoàng hàm nghĩa “Thịnh Đại”, từ xưa vốn là đất sinh sống của các tộc người Hồ, Khương Nhung, Hung Nô... về sau Hán triều đưa quân đánh chiếm đặt làm quận trị. Thời đó tất cả các con đường ra vào Tây Vực đều chụm lại ở Đôn Hoàng...
Qua một đêm nghỉ ngơi trong thành, ba người tiếp tục dọc theo sông Sơ Lặc tiến về hướng tây. Bên bờ sông nổi lên di tích Trường Thành đời Hán, đứt nối vô chừng. Một tòa ải nằm trên đồi cao cạnh sông, trông uy nghiêm hùng vĩ. Đó là Ngọc Môn Quan vang tiếng thiên hạ. Phía bắc cửa ải trải ra biển cát mênh mông tít tận chân trời. Lão hán họ Lâm chỉ tay về mé tây ẩn hiện sắc xanh, nói lớn giọng:
-Bên phía kia có hồ La Bố Náo Nhĩ, xưa gọi là Biển Bồ Xương. Nhị vị thiếu gia! Qua ải rồi ta hãy ghé thăm Thiên Phật Động ở Mạc Cao... chỉ cách đây ba chục dặm...
Phùng Ngọc gật đầu:
-Nơi đó nổi tiếng từ xưa, nhân tiện mình cũng nên xem kẻo uổng...
Sau khi ngoạn cảnh Thiên Phật Động, ba người tiến vào sa mạc Đại Qua Bích. Giong ruổi suốt bảy ngày giữa cát nắng, họ tới huyện thành Ha Mật bên rìa bắc sa mạc. Vùng đất ngày xưa có tên Y Ngô, vốn là nước Cao Xương thời cổ, sau bị nhà Hán chiếm diệt. Lão hán họ Lâm nói:
-Nhị vị thiếu gia! Ở đây có loại dưa bở tuyệt ngon không đâu trồng được.
Phùng Ngọc hỏi:
-Ngon thế nào mà bảo là tuyệt?
Họ Lâm đáp:
-Dưa Ha Mật vỏ mỏng thịt dày, mùi thơm vị giòn ngọt, cho quả chín cả ba mùa xuân, hạ, thu... Dù cất giữ vài tháng vẫn tươi ngon không hư thối, lại có thể cắt thành miếng phơi khô, trở thành thứ thực phẩm hiếm lạ...
Phùng Ngọc liếm môi:
-Có loại dưa quý vậy ư? Tiểu điệt nghe đại thúc mà chảy nước miếng...
Lão hán họ Lâm cười bảo:
-Thì cứ bỏ tiền ra mua là được ăn tha hồ. Loại dưa đó rất hiếm ở Trung Nguyên, nhưng tại đây không thiếu!
Lão hán chợt nhìn Phùng Ngọc, nghiêm mặt nói tiếp:
-Phùng đại thiếu gia! Từ nơi này đi Tây Vực có hai ngã, ấy là tuyến nam và tuyến bắc Thiên Sơn...
Phùng Ngọc nhướng mày hỏi:
-Tuyến nào đến Tam Tiên Động mau hơn vậy Lâm đại thúc?
-Tuyến nam. Từ Ha Mật qua Thổ Lổ Phàn, Khố Mễ Thập, Hòa Thạc, Yên Kỳ, Cừ Lê, A Khắc Tô rồi tới Ô-Kháp.
-Thì mình cứ đi ngã này...
-Hạ nhân nghĩ là nên theo tuyến bắc trước đã, sau hãy chuyển qua tuyến nam.
-Ủa! Sao phiền phức thế Lâm đại thúc?
Lão hán thấp giọng đáp:
-Vì hạ nhân đóan có người bám theo ta gây điều bất lợi...
Phùng Ngọc xoay nhìn tứ phía, thấy chung quanh vắng lặng liền bật hỏi:
-Có ai đâu?
-Họ bám theo từ xa chẳng lộ tung tích...
-Nhưng họ là ai? Làm thế vì mục đích gì?
Lão hán lắc đầu:
-Hạ nhân cũng không rõ. Nếu chẳng phải bọn cướp thì hẳn bang hội tà ác nào đó trên giang hồ...
-Đại thúc đã nhìn thấy họ ư?
-Không... Thật tình hạ nhân chỉ có cảm giác như vậy thôi, nhưng dám chắc mình đóan không lầm.
-Tại sao đại thúc quả quyết như thế?
-Thật khó giải thích rõ... Có lẽ do hạ nhân lăn lộn trên đường Tây Vực lâu năm, trải qua nhiều hiểm cảnh, tự nhiên hình thành giác quan báo động...
Phùng Ngọc lạnh mặt suy nghĩ chốc lát rồi lên tiếng:
-Cho dù mình đi ngã bắc Thiên Sơn cũng đâu thoát được?
-Đại thiếu gia hãy yên tâm... Hạ nhân chỉ ngại họ còn đồng đảng chờ phía trước, chứ mình muốn tránh bị theo dõi thì dễ thôi.
-Vậy ư? Lâm đại thúc tính liệu cách gì?
-Mình cứ vào thành Ha Mật thuê phòng trọ nghỉ đêm như thường, rồi nửa khuya lấy ngựa ra khỏi thành chạy nhanh lên phía bắc, vượt qua Thiên Sơn là ổn. Chắc chắn họ sẽ lạc hướng không đuổi kịp.
Phùng Ngọc nghi ngại hỏi:
-Nhưng lúc nửa đêm thì cửa thành đã đóng... làm sao mình ra được dễ dàng?
Lão hán họ Lâm nói:
-Đại thiếu gia chớ lo. Hạ nhân quen biết mấy vị chức phận lớn tại Ha Mật, có thể nhờ họ thu xếp cho mình rời thành bất kể giờ giấc. Xin hãy để hạ nhân đảm đương chuyện này...
Nét mặt Phùng Ngọc nhẹ giãn:
-Thôi được. Việc của tiểu điệt không gấp, Lâm đại thúc cứ tùy ý trù định lộ trình. Thật lòng tiểu điệt chẳng sợ chi, chỉ e gặp phải bọn cướp đường cậy đông hiếp ít, gây trắc trở thì phiền.
Đêm đó giữa canh khuya, ba người phóng ngựa rời Ha Mật đi lên hướng bắc, băng qua rìa sa mặc khoảng hơn trăm dặm là tới chân núi nam Thiên Sơn, tiến vào cửa khẩu có phong hỏa đài và bãi đá lớn...
HỒI THỨ MƯỜI SÁU
PHONG SƯƠNG LƯU LÃNG MIỀN QUAN NGOẠI
Lão hán họ Lâm với Phùng gia huynh đệ thúc ngựa qua cửa khẩu nam Thiên Sơn lúc bình minh vừa rạng tỏ, trời đổ mưa lất phất. Ba người theo sơn lộ đi men theo bờ con sông nhỏ cuộn chảy quanh co, leo dần lên núi cao cao mãi, mưa rơi biến thành tuyết lúc nào không hay. Trong một khe núi có đầy cỏ xanh có bầy dê đứng lặng yên quay lưng về hướng gió lộng, nhìn thật hiền hòa. Tuyết rơi phủ một lớp mỏng như tấm choàng lụa trắng phơn phớt trải lên nền cỏ xanh lục, quang cảnh trông thật tuyệt kì khiến Phùng Ngọc đôi lúc dừng ngựa ngắm nhìn bật lời tán thán, còn Phùng Kim vẫn vô tâm hờ hững trước vẻ đẹp thiên nhiên. Trong màn vân vụ mờ ảo, hoa tuyết múa bay đầy trời, thỉnh thoảng hiện ra các khoảng rộng mọc dày cây vân sam cao mướt khoác áo trắng tinh. Sơn đạo lên tới tận đỉnh Phạp Lư (Lừa mệt) rồi rẽ ngoặt, đi xuôi xuống cửa khẩu “Khâu môn tử” ở mé bắc dãy núi. Bên vùng nam Thiên Sơn khí hậu ẩm ướt, tùng sam mọc xanh tốt, còn ở phía bắc này khô ráo, đồi non nhẵn trọc. Từ chân núi nhìn ra không gian thoáng đãng, thảo nguyên bát ngát cuối trời, cỏ cao ngang thắt lưng phủ xanh mặt đất phẳng bằng vô tận. Lúc nghĩ chân ăn trưa giữa đồng cỏ, Phùng Ngọc nói với lão hán:
-Lâm đại thúc! Trước kia tiểu điệt từng được nghe “Bài ca Sắc Lặc” của người Mông Cổ... có câu “Thiên thương thương, dã mang mang, phong xuy thảo đê kiến ngưu dương” (Trời xanh xanh, đất mênh mông, gió thổi rạp cỏ mới thấy bò dê)... lúc ấy tiểu điệt không hiểu vì sao cỏ cao hơn cả dê bò? Giờ tới đây nhìn tận mắt mới rõ bài ca thật chẳng ngoa...
Lão hán nói:
-Trời sinh vậy mà. Nếu không có nguồn cỏ trù phú, dân bản địa làm sao nuôi nổi ngàn vạn gia súc.
Ba người tiếp tục lên đường, khoảng nửa chiều họ đến “biển” Bồ Loại. Thật ra đây là cái hồ lớn nhưng nước lại mặn chát và không có tôm cá rong rêu, ven bờ người ta làm muối bán cho các vùng lân cận. Mặt trời chiều treo lơ lửng trên góc trời thảo nguyên xanh thẳm, tỏa rực nắng nhuộm hồng những ngọn núi tuyết phía nam. Dãy Thiên Sơn phản chiếu ánh hào quang lấp lánh, từng mảng ngời rạng đẹp không thể tả...
Con đường gần chân núi chạy song song với dãy Thiên Sơn gọi là “hoành lộ”. Ba người theo lối này đi hết thảo nguyên, đến vùng bán hoang mạc có cây bụi và khe nước. Bên đường mọc đầy cỏ nhục tử tỏa mùi thơm lạ. Họ qua các huyện Mộc Lũy, Kỳ Đài, sang sông Thủy Ma. Bên sông là trảng cỏ lớn, đầy hoa dại với đủ màu sắc sặc sỡ, trông tựa bức tranh gấm thêu. Xa xa phía núi, hàng lớp vân sam xanh thẩm trùng điệp, với nhiều tấm thảm vàng óng mượt mà vắt ngang các sườn dốc thấp, ấy là những vạt nương trồng cải đang nở rộ hoa. Cảnh tượng kỳ mĩ khiến Phùng Ngọc phải bật thốt lên:
-Ôi! Đẹp quá chừng!
Trên bãi chăn thả có tên Hạ Oa Tử cạnh bờ sông Thủy Ma đang diễn ra lễ hội. Ba người ghé xem thấy lều trại san sát, người già trẻ nhỏ với những cô gái bản xứ mặc trang phục hoa hòe, các chàng trai cưỡi tuấn mã đi lại nhộn nhịp. Giữa đám đông một người trung niên râu rậm đội khăn rằn, ôm cây đàn mã đầu vừa hát vừa đàn, âm điệu trầm lắng ngân nga. Lão hán họ Lâm nói:
-Nhị vị thiếu gia! Người đàn hát kia được dân trong vùng tôn làm “a khẳng”. Danh vị này không có quyền hành nhưng rất cao quý. Nghe nói khi các bộ tộc ở đây xảy ra tranh chấp đối đầu, chỉ cần “a khẳng” xuất hiện tỏ lời hòa giải, đàn hát mấy bài là mọi sự êm xuôi. Một “a khẳng” phải có tài ứng tác lời ca tùy hoàn cảnh...
Phùng Ngọc gật gù:
-Xem ra dân du mục rất trọng nhạc nghệ ca xướng...
-Phải. Bản tính họ ưa thích hát hò... Như lễ hội này kéo dài sáu ngày đêm, phần nhiều là múa hát.
Phùng Ngọc buông lời cảm khái:
-Vậy mới biết người Tây Vực sống khoáng đạt hơn dân Trung Nguyên nhiều...
Ba người đi tiếp về phía tây đến cổ thành “Cát Mộc Tát Nhĩ”, theo nghĩa tiếng Hán là “Kim Mãn” (đầy vàng), rồi phi ngựa thêm bốn mươi dặm tới bờ sông Ô Lỗ Mộc Tề xanh tươi cây cỏ. Lão hán bảo Phùng Ngọc:
-Đại thiếu gia! Đây là vùng trù mật nhất miền Tân Cương. Cái tên “Ô Lỗ Mộc Tề” có nghĩa là “mục trường xinh đẹp”...
Phùng Ngọc khen:
-Tên hay lắm! Quả đúng “danh phù kỳ thực”!
Lão hán tiếp lời:
-Ngày xưa lưu vực sông này là sinh địa của các “hành quốc” (nước di chuyển) như Ty Lục, Đơn Hoàn, Thả Nhĩ... Họ không xây thành quách, chẳng có chỗ ở nhất định, chỉ thuận theo thời tiết mà tìm nơi nhiều cỏ để chăn thả... Về sau các tộc người Đột Quyết, Mông Cổ, Hồi Hột, Tái Chủng, Ô Tôn mới thiên di tới đây định cư.
Từ sông Ô Lỗ Mộc Tề lão hán dẫn huynh đệ họ Phùng rẽ ngoặt về hướng nam. Họ đến huyện Thác Khắc Tốn nhằm ngày lễ “Khai Trai Tiết” của dân Duy Ngô Nhĩ theo đạo Hồi ở vùng này. Khắp nẻo làng ngõ phố nhộn nhịp, quang cảnh rộn ràng vui vẻ. Tất cả cư dân vừa trải qua kì trai giới theo tục lễ truyền thống, mỗi ngày chỉ được ăn uống sơ sài trước bình minh và sau hoàng hôn, còn suốt cả sáng chiều phải nhịn đói khát. Hôm nay dứt tuần ăn chay gọi là ngày “khai trai”, mọi nhà làm sẵn rất nhiều món ngon lành, đi thăm hỏi lẫn nhau kéo dài trong ba hôm giống như người Hán ăn Tết đầu năm mới...
Ba người tiếp tục cuộc hành trình, đi qua gần một vùng núi toàn nham thạch đỏ hồng, hơi nóng bốc lên ngùn ngụt. Không khí oi bức quá độ khiến áo quần khô giòn kêu sột soạt như giấy, da mặt rát phừng. Phùng Ngọc hỏi lão hán họ Lâm:
-Núi gì mà trông đáng sợ thế?
Lão hán đưa tay gạt mồ hôi dưới cằm rồi đáp:
-Người Duy Ngô Nhĩ gọi khu núi đó là “ Khắc du lặc tháp cách” tức “hỏa sơn”. Thật ra nó không bốc lửa, mà do vùng này quá viêm nhiệt đá núi lại màu đỏ nên trông như thế. Trên núi có một thạch trụ, người ta bảo chính là chỗ cột ngựa của Tôn Ngộ Không lúc phò Đường Tăng tây du...
Phùng Ngọc nói:
-Đây chắc là do người Hán đặt chuyện, chứ dân bản địa theo đạo Hồi đâu biết chi tới Tôn Ngộ Không!
-Đại thiếu gia nói phải...
Ba người qua khỏi vùng nóng bức, khoảng gần trưa đến bờ sông A La Câu, tìm chỗ mát mẻ dừng lại nghỉ ngơi ăn uống. Sau đó họ đi dọc bờ sông tiến vào lòng núi Thiên Sơn, leo dần lên thượng nguồn hẻo lánh bằng đường mòn hẹp, rồi theo sông nhánh Ô La Tư Đài rẽ về hướng nam, xuống bình nguyên Yên Kỳ tới Lưu Sa hà (sông Cát Chảy). Lão hán họ Lâm đưa chuyện lúc dừng ngựa bên sông:
-Nhị vị thiếu gia! Trong truyền thuyết Tây du có đoạn kể Đường Tăng gặp trắc trở tại sông Lưu Sa... chính là nơi này đó. Nước sông đổ vào hồ Bác Tư Đằng ở huyện Yên Kỳ. Cái hồ ấy cực lớn, xưa gọi là “biển”, nó thông với Khổng Tước hà chảy ra sa mạc Tháp Khắc La Mã Can. Hiện giờ mình đã chuyển sang tuyến nam Thiên Sơn rồi...
Từ sông Lưu Sa ba người ghé vào thành Yên Kỳ. Vùng đất này xưa kia là nước A Kỳ Ni nằm kề nước Quy Tư ở mặt tây, chung quanh tòan núi non vây bọc, với nguồn cá dồi dào nhờ có hồ Bác Tư Đằng. Hôm sau họ rời thành Yên kỳ tới sông Khổng Tước, vượt khu núi đá trọc Khố Lỗ Khắc ở khe hẻm “Tứ Thập Công Lý”, qua cửa ải Thiết Môn Quan có hai bờ vách đá thẳng dựng màu xám sắt rợn người. Từ đây đi thêm hai mươi dặm nữa là tới vùng lục châu Cừ Lê. Ba người đi tiếp sang huyện Luân Đài, hai ngày sau họ qua huyện Khố Xa, rồi đến cửa khẩu thông sang huyện Bái Thành thì dừng lại nghỉ trưa. Tại đây có một phế tích phong hỏa đài cao hơn năm trượng, tường xây bằng đất nện chắc, nằm cạnh khe nước sâu trắng xóa tên gọi Diêm Thủy. Bên chân đài dựng tấm bia đá khắc dòng chữ “Tháp đất Khắc Tư Nhĩ Gả Ha”. Lão hán họ Lâm giải thích:
-“Khắc Tư Nhĩ Gả Ha” trong tiếng Duy Ngô Nhĩ có nghĩa là “Con gái ta ở lại đây”...
Phùng Ngọc cười thú vị:
-Sao lại đặt cái tên quái kì thế?
Lão hán nói:
-Cũng do tích xưa lưu truyền... Hạ nhân nghe kể là thưở trước xứ sở này có một ông vua hiếm con, chỉ sinh được cô công chúa xinh đẹp. Bữa nọ có vị thầy bói nổi danh đóan rằng công chúa sẽ gặp tai họa trong vòng một trăm ngày, phải ẩn lánh trên tháp đất may ra thóat nạn. Nhà vua nghe lời, liền đưa con gái tới phong hảo đài tạm trú. Qua được chín mươi chín hôm, vào ngày cuối cùng vua sai đem cho công chúa một quả hồng, ấy là thứ nàng rất thích ăn, không ngờ bị con sâu cực độc trong quả hồng chui ra cắn chết. Nhà vua quá đau khổ, chạy lên tháp ôm xác nàng gào lớn: “Con gái ta ở lại đây”... Thế là người dân lấy câu này đặt tên cho đài phong hỏa.
Phùng Ngọc hắng giọng nói:
-Chỉ một tháp đất bình thường lại có câu chuyện rất hay... Quả là trên đời còn lắm điều kì thú!
Buổi chiều ba người chuyển sang hướng tây nam. Trên con đường ven sa mạc hoang vắng, thỉnh thoảng lại nhìn thấy di tích phong hỏa đài, đôi khi gặp đoàn thương buôn với những con lạc đà chất đầy hàng hóa... Dưới bầu trời nắng rực, những hình ảnh ấy in rõ đường nét sẫm màu, tạo nên bức tranh sống động...
Vào lúc hoàng hôn ba người đến thành Ha La Ngọc Nhĩ Cổn, thưở xưa đây là thủ phủ nước Bạt Lộc Già. Họ tìm nhà trọ nghỉ đêm, qua sáng sớm phóng ngựa về hướng tây chừng hơn một trăm dặm đến huyện A Khắc Tô. Thời nhà Hán vùng này thuộc nước Cô Mặc. Từ đây họ đi chếch lên ngã tây bắc, qua khe núi Mộc Tư A Đặc, gọi theo tiếng Đột Quyết có nghĩa là Băng Sơn Khẩu do ở đây băng đóng quanh năm. Sau đó ba người tới sông Khắc Tư Lặc ở huyện Ba Sở. Sông này nước luôn ngầu đỏ nên còn có tên Xích Hà. Họ đi ngang qua cổ thành “Thoát Khố Tư Tát Lai”, dịch nghĩa tiếng Hán là “Chín gian nhà khách”. Xưa kia nước Úy Đầu đóng đô ở đây, về sau bị nước Quy Tư cai quản, rồi nhà Đường chiếm lấy xây thành “Thoát Khố Tư Tát Lai” có chín khu nhà lớn.
Lộ trình tiếp theo chạy qua giữa vùng đồi đá ven sa mạc, thỉnh thoảng mới gặp khe nước với đám cây bụi cằn cỗi. Giữa đất trời hoang vu, đường đi gập ghềnh dài mãi không hết khiến cho khách lữ hành càng cảm thấy mỏi mệt. Khoảng xế chiều lão hán họ Lâm ra hiệu cho huynh đệ Phùng gia cùng dừng lại bên một ao nước nhỏ cạnh đường. Khi cả ba người đã xuống ngựa, lão hán cao giọng nói:
-Nhị vị thiếu gia! Phía trước còn xa mới đến chỗ có nước, mà trời sắp tối rồi. Mình tạm nghỉ lại đây đã , mai hãy đi tiếp.
Giọng Phùng Ngọc nhẹ khản:
-Cũng được. Lâm đại thúc! Đến Tam Tiên Động còn xa không?
-Chẳng xa mấy đâu. Từ đây qua huyện thành Ô Kháp là tới Tam Tiên Động, chỉ còn khoảng ba trăm dặm nữa... Chắc ngày mốt mình tới nơi rồi.
Khuôn mặt Phùng Ngọc lộ sắc tươi, nói lẩm bẩm:
-Vậy cũng gần tới đích...
Ba người cột ngựa xong lấy hành trang xuống, chuẩn bị chỗ ngủ bên ao nước. Ao này thông với dòng khe sâu từ dãy đồi đá chảy về. Lão hán họ Lâm đi vào vạt cây bụi gần đó, nhặt bẻ một ít cành khô, rồi quay lại đun nước nấu trà trong cái ấm đồng mang theo suốt cuộc hành trình. Phùng Ngọc kéo tay Phùng Kim, thấp giọng bảo:
-Mình đi tìm chỗ tắm giặt thôi Kim đệ.
Hai người soạn hành trang lấy áo quần sạch cầm trong tay đi dọc bờ khe, lên dần phía đồi đá. Trên đường Phùng Ngọc bần thần nói như giải bày tâm sự:
-Kim đệ này! Lúc quyết định đi Tam Tiên Động ta cũng biết là hành trình cách trở, đâu ngờ quá xa xôi như thế! Dù sao mình cũng sắp tới nơi... Ta chỉ lo việc chữa trị cho đệ... chưa biết có hy vọng gì không. Nếu chẳng thành thì quá uổng phí công sức...
Phùng Ngọc thở dài tiếp lời:
-Thật ra khi mình còn ở dưới Huyền Nhai bên bờ Tư Giang, ta đã định đưa ngươi tới một chỗ gần Thiệu Dương để chữa trị... Nơi ấy là núi Thiếu Hoa ở Giang Tây, có vị đại y sư Đoản Túc Sinh Thần nổi tiếng thiên hạ. Nhưng rồi ta lại nhớ ra ông này là bằng hữu của chủ nhân Hàm Long Bảo, e rằng ngươi tới đó dễ bị lộ tung tích... nên ta dẫn ngươi đi núi Không Động tìm Tây Âm Dược Mẫu. Bà ấy là thánh thủ giải trừ các nan chứng, lại có giao tình với môn hộ của ta. Khi gặp Dược Mẫu ta sẽ xuất trình tín bài, chắc bà ấy cũng nể tình mà nhận lời chữa trị...
Phùng Kim nói:
-Ngọc đại ca thật quá nhọc lòng vì đệ...
Phùng Ngọc thở dài, trong tim chợt trào lên nỗi phiền muộn ray rứt, vì những lời thốt ra từ miệng Phùng Kim đều trống rỗng vô hồn, chẳng mang cảm xúc thật. Dù mình nặng lòng thương yêu nhưng liệu có thể chung sống lâu dài với một người nhạt nhẽo như thế? Phùng Ngọc tự hỏi nếu thần trí của Phùng Kim hồi phục bình thường, chàng ta có đáp lại tình cảm tha thiết của mình không?
Hai người đi thêm một đoạn nữa đến chỗ lòng khe rộng thoải, Phùng Ngọc lên tiếng:
-Ngươi ở đây tắm giặt, còn ta lên phía trên... Nhớ để ý có ngươi tới thì kêu to báo hiệu cho ta biết. Ngươi tắm xong chớ đi lung tung, hãy chờ ta quay lại cùng về...
Khi hai người trở lại ao nước, lão hán họ Lâm đã chuẩn bị sẵn ấm trà nóng với lương khô đặt trên tấm vải dày trải trên nền đất. Sau bữa ăn họ tiếp tục ngồi uống trà. Phùng Ngọc hỏi lão hán họ Lâm:
-Mấy bữa nay tiểu điệt thấy đại thúc có vẻ bần thần... hay là bị đau ốm gì chăng?
Lão hán xoa cằm đáp:
-Chẳng bệnh hoạn chi đâu. Hạ nhân chỉ đang lo chuyện có người theo dõi...
Phùng Ngọc ngạc nhiên:
-Ủa... Không phải là mình đã thoát khỏi họ khi vượt Thiên Sơn rồi sao? Chính đại thúc bảo vậy mà!
Lão hán trầm giọng:
-Đúng ra phải thế. Nhưng sau đó hạ nhân vẫn có cảm giác bị bám theo...
Phùng Ngọc nhíu mày:
-Vậy ư? Hay đại thúc nhầm lẫn?
-Không lầm đâu. Hạ nhân rất tin vào cảm nhận của mình.
-Thế tại sao đến lúc này chúng ta vẫn bình yên, chưa bị ai gây sự? Họ bám theo mãi để làm gì?
-Hạ nhân cũng rất băn khoăn. Thật không hiểu ra sao nữa.
Phùng Ngọc trấn an:
-Thôi... chớ bận tâm lo lắng nhiều. Nếu đúng như lời đại thúc thì ta cứ cẩn thận đề phòng biến sự...ấy là cách ứng phó hay nhất!
-Đại thiếu gia thật khoáng đạt...
Họ lặng yên ngắm cảnh chiều tà trên sa mạc hoang vu. Hoàng hôn nơi đây lắng sâu vào tĩnh mịch. Bỗng nhiên họ nghe những tiếng động khác thường trong đám cây bụi trải dài bên kia đường. Phùng Ngọc bật người dậy nhìn về hướng đó, lão hán họ Lâm với Phùng Kim đứng lên theo. Họ thấy nhiều con vật hoang tuôn ào ra khỏi vạt cây bụi, băng ngang đường phóng chạy qua gần trước mặt ba người, rồi chúng lao lên dãy đồi đá phía bắc, tựa như cố tranh nhau lẫn trốn thứ gì đó rất khủng khiếp ở đằng sau. Chẳng bao lâu ba người nhìn rõ một con vật kỳ quái từ mé đường bên kia tiến nhanh về phía họ. Nó giống như con sâu đen trùi trũi với hình thù cực lớn, cỡ bằng thân người trưởng thành, nhìn thật quái gở kỳ dị. Phùng Ngọc kinh ngạc vội hỏi:
-Lâm đại thúc! Con gì mà trông ghê thế?
Lão hán họ Lâm nhíu mày:
-Hạ nhân cũng không rõ. Xem bộ dạng thì chắc đây là con “Ôn Gôi Khốc Khôi”. Trước kia hạ nhân đã được nghe dân du mục kể về nó... chứ bản thân chưa gặp bao giờ.
Phùng Ngọc nhăn mũi:
-“Ôn Gôi Khốc Khôi” à? Cái tên này quá lạ! Nó có nghĩa là gì Lâm đại thúc?
Lão hán ngập ngừng:
-Hạ nhân chỉ biết người bản địa gọi thế, thật tình không diễn giải được.
Hai người vừa trao đổi mấy câu, con “Ôn Gôi Khốc Khôi” đã vượt qua đường, băng tới phía họ. Nhìn con vật dị hình lầm lũi tiến đến gần, Phùng Ngọc cảm thấy bất an liền vận công phòng bị, cùng lúc ấy Phùng Kim bước lên phía trước như muốn chận đầu con “Ôn Gôi Khốc Khôi”. Lão hán họ Lâm bỗng cuống giọng nói gấp:
-Nguy... nguy tai! Giờ hạ nhân mới nhớ... dân du mục bảo con vật này đáng sợ nhất vùng sa mạc, đến cách nó mười bước là bị trúng độc chết ngay!
Rồi lão cấp tốc lao tới chặn trước Phùng Kim, vừa hét to với chàng:
-Nhị thiếu gia lui mau! Hãy tránh lẹ qua chỗ khác!
Phùng Kim liền dừng bước, quay người lại với tư thế bình thường chứ không xuất động khinh công phóng đi. Trong lúc cấp bách này mà chàng vẫn không hiển lộ thân pháp thượng thừa đã học khi còn ở Hàm Long Bảo. Sự thật là bản lãnh Phùng Kim hiện thời chỉ kém hạng cao thủ nhất lưu về hỏa hầu tu tập. Ngoài môn ToảnTiêm Thần Chưởng và Hóa Ngọc Công, cùng với các tuyệt học Hàm Long Bảo do Dương Thanh Tiên truyền thụ tâm quyết, chàng còn luyện thành Phiêu Tinh bộ pháp là môn khinh công nhanh nhất thiên hạ. Nhưng vì Phùng Kim vẫn ghi nhớ lời dặn của lão Ngạ Hồn và Dương Thanh Tiên, ấy là không được tùy tiện phô bày tuyệt kĩ, cho nên chàng luôn giữ ý niệm giấu kín võ công trước mặt người khác, kể cả với Câu Hồn Băng Nga. Chỉ những khi Phùng Kim ở một mình nơi vắng vẻ, không có ai nhìn ngó chàng mới thi triển công phu để ôn luyện...
Lúc này Phùng Ngọc cũng hốt hoảng, vội nín hơi bế mạch để phòng độc, lao nhanh tới chộp tay Phùng Kim kéo gấp qua chỗ khác, nhưng vừa mới lôi đi nửa bước thì trong mũi thoảng nồng mùi lạ, rồi toàn thân bỗng tê nhũn, lập tức cả hai cùng té nhào. Phùng Ngọc ngã lăn nằm ngửa trên đất, bị Phùng Kim đè úp lên người. May mà gặp chỗ cát mịn không có đá sỏi nên đỡ bị trầy da rách thịt, nhưng cơ thể bại liệt khó bề nhúc nhích, kinh mạch tắc nghẽn không vận nổi chân lực, cả họng lưỡi cũng cứng đơ chẳng thốt được lời nào. Phùng Ngọc rất kinh hãi khi biết mình và Phùng Kim đã trúng độc, chưa rõ hậu quả ra sao nhưng hai người phải chịu bất động ở đây thì nguy hiểm vô cùng. Cách họ chừng mấy trượng, lão hán họ Lâm nằm chết rúm, mắt lồi to da xanh lè. Phùng Ngọc chưa biết người dẫn đường đã tuyệt mạng. Con quái vật “Ôn Gôi Khốc Khôi” đang chạy thẳng lên dãy đồi đá, chắc vừa rồi nó không có ý tấn công ba người mà chỉ phóng độc khi thấy kẻ lạ tới gần. Chất độc này cực kì mãnh liệt, lão hán họ Lâm đứng chận trước bị lãnh trọn nên chết ngay lập tức, còn lại chút hơi độc tỏa ra phía sau, dù Phùng Ngọc đã bế khí phong huyệt để ngăn ngừa mà vẫn không chống nổi, Phùng Kim tuy có Thiên Độc tàng ẩn trong người nhưng cũng chịu tê liệt toàn thân...