Hồi 12
Người Si Đao
Khốc nhiệt còn chưa tiêu tận, khốc hàn đã đâm chích thấu xương.
Cũng chỉ có ở chỗ Biên Thành này mới có thể hưởng thụ thứ khí hậu biến hóa cực hạn như vậy.
Minh nguyệt còn chưa lên cao, những vì sao còn ẩn trốn trong những đóa phù vân, thời gian luân ca giao kíp lại đã đến.
Nhìn theo bóng gã canh gác ca trước biến mất trong màn đêm vô tận, Lâm Tuấn rùng mình dưới bộ y phục da cừu, rụt cổ hết mức, đôi mắt chuột ánh lên vẻ hoảng sợ nhìn bốn bề tối đen.
Ca gác hôm nay vốn là trách nhiệm của Hồ Tam, nhưng đêm hôm qua gã đã chết, chết trên đường đi đến tiểu trấn.
Nghe nói là bị Hấp Huyết Quỷ hút cạn máu mà chết.
Vừa nghĩ đến Hấp Huyết Quỷ, thân thể Lâm Tuấn không khỏi run lẩy bẩy, nỗi khủng bố trong mắt càng trầm trọng hơn.
Vạn Mã Đường gần đây cơ hồ đã bị bao trùm trong một tấm màn khủng bố, kẻ thất tung, người chết, cả Hấp Huyết Quỷ trong truyền thuyết cũng xuất hiện, sao mà không sợ được ?
Cho nên đến ca canh gác ban đêm, ai ai cũng luân phiên nhau tiếp đón tâm tình kinh hãi khủng bố.
Bất quá có một điểm có thể an ủi, ánh trăng đêm nay rất sáng, chỗ Lâm Tuấn đứng cũng có treo một ngọn đèo bão khá lớn trên cột cờ.
Ánh trăng sáng ngời cùng ánh đèn bão ít nhiều gì cũng đã mang đến một chút quang minh, cho nên tâm tình của Lâm Tuấn có phần nào kiên định lại.
-- Từ xưa đến nay, bóng tối làm sao mà không phải là căn nguyên của khủng bố cho được ?
Hơi lạnh theo gió thâm nhập thấu y phục của Lâm Tuấn, ở nơi khốc hàn như vầy, nếu quả không liên tục “động”, công phu không tới một tuần trà, bảo đảm biến thành một cột băng.
Tay trái của Lâm Tuấn nắm chặt trường đao, bước đi chầm chậm vòng vòng, tay phải móc trong ngực áo ra một bình rượu nhỏ, há miệng hớp một ngụm đầy.
Đợi đến lúc rượu vào đến dạ dày, Lâm Tuấn mới cảm thấy ấm áp một chút, chiếu theo quy định, người đang canh gác không được uống rượu, nhưng có thể không uống được sao ?
Chỉ cần không đụng chuyện, không bị bắt gặp, thượng ty cũng nhắm mắt cho qua.
Lúc rượu dần dần cạn biến khỏi bình, hơi ấm mới khuếch tán khắp toàn thân, Lâm Tuấn ngừng bước vòng vòng, đại khái là vì ý rượu, hoặc giả sự khủng bố của bóng đêm đã không còn sâu đậm quá trong tâm của gã nữa.
Lâm Tuấn đang chuẩn bị ngồi xuống dựa lưng vào cột cờ nhắm mắt một chút, đột nhiên thấy một bóng người từ trong bóng tối chầm chậm lềnh bềnh bước ra, phảng phất giống như vô số bóng đen ngưng kết tạo thành.
- Ai ?
Lâm Tuấn tròn xoe mắt, đao và bình rượu trong hai tay cũng đã hoán đổi chỗ.
- Ai ? Nói khẩu lệnh mau !
Bóng người không nói gì, lại phát ra một tràng tiếng cười âm trầm khủng bố, song cước của y bất động, người lại một mực tiến tới.
Lâm Tuấn phát giác bóng người đó đang lăng không dật dờ bay qua, phảng phất như quỷ mỵ du tẩu, bình rượu trong tả thủ của gã bất giác đã rớt xuống đất, hữu thủ tuy vẫn nắm chặc trường đao, mũi đao lại run rẩy như cành liễu trước gió.
Đôi mắt chuột cũng đã bị sự khủng bố chiếm cứ, Lâm Tuấn nghe thanh âm của mình run rẩy:
- Ngươi ... Ngươi là ... ai ?
- Hắc hắc ...
Tiếng cười âm u phảng phất vang lên từ địa ngục, theo bóng người vang vọng càng lúc càng gần.
Đợi đến khi nhìn thấy rõ, bóng người đó không ngờ chính là Phi Thiên Tri Thù đã chết mấy hôm trước, khố của Lâm Tuấn đã ướt nhẹp.
Ánh trăng sáng ngời chiếu trên khuôn mặt trắng nhợt của Phi Thiên Tri Thù, càng làm tăng vẻ trắng nhợt, chiếu trên ngấn máu trên miệng y, càng đỏ tươi khủng khiếp, hai cái răng nanh dài thượt trong miệng không ngờ lại phát xuất ánh sáng lấp lóe như đao phong.
Lâm Tuấn vốn là cao thủ nhất lưu về tốc độ bỏ chạy khi lâm địch, giờ phút này đôi chân lại phảng phất đã mọc rễ, chỉ run rẩy không ngừng, không ngờ không biết chạy, lúc mắt nhìn thấy hai cái răng nanh lấp lóe phát xuất những tia sáng âm trầm đó kề sát cổ, Lạp Tát mới phát giác một cơn đau đớn cùng cực từ cổ truyền khắp thân người, sau đó người gã đã chết hẳn.
Máu còn chưa bị hút hết, người gã đã chết.
Lâm Tuấn đã chết vì sợ.
Răng nanh vừa rời khỏi cổ, hai ống trúc đồng trên tay Phi Thiên Tri Thù cùng lúc lập tức đâm nhập vào miệng vết thương trên cổ Lâm Tuấn, sau đó liền lấy ra một cái túi lớn tiếp dẫn máu tươi chảy ra từ hai ống trúc đồng.
Nhìn máu tươi dần dần ngập đầy cái túi, trong mắt Phi Thiên Tri Thù tán xuất thần tình đắc ý khoái trá.
Không đến một tuần trà sau, máu tươi đã không còn chảy qua ống trúc đồng nữa, Phi Thiên Tri Thù đợi đến lúc máu tươi đã ngừng nhỏ giọt hẳn, mới cột chặt miệng túi, rút hai ống trúc đồng ra khỏi cổ Lâm Tuấn.
Nhìn thi thể Lâm Tuấn đã bị hút cạn máu, Phi Thiên Tri Thù đắc ý cười khành khạch.
Sáng hôm sau, bọn chúng lại có thể phát hiện một thi thể bị Hấp Huyết Quỷ hút hết máu.
oo Khí hậu không cần biết nóng tới cỡ nào, hay lạnh tới cỡ nào, Phó Hồng Tuyết vĩnh viễn đều vận bộ đồ vải bố đen sì đó, viền áo đã bạc màu mấy phần.
Con người hắn phảng phất giống như con hắc báo trong khu rừng âm u nguyên thủy, không cần biết khí trời ác liệt tới cỡ nào, biến hóa cực hạn tới cỡ nào, đều vĩnh viễn có thể thích ứng, có thể sinh tồn.
Phó Hồng Tuyết không những có thân thể kiên nhẫn của hắc báo, cũng có cảm quan thứ sáu bén nhọn linh mẫn như hắc báo.
Đêm lạnh còn chưa tàn, đèn mờ đã lụi.
Phó Hồng Tuyết nằm trong bóng tối, nằm trên chiếc giường băng lãnh, gió khuya Biên Thành ngoài song cửa mặc tình gào thét, hắn đã mệt rồi.
Đang lúc Phó Hồng Tuyết ngủ mơ màng, hắn đột nhiên nghe thấy một tiếng động khe khẽ, tiếng động khe khẽ vọng lên giống như lúc ngọn nến cháy tàn phụt lên một tiếng rồi tắt ngóm, cho dù lắng nghe kỹ càng cũng không dễ gì nghe được, đừng nói gì tới nghe rõ.
Phó Hồng Tuyết không nghe được thanh âm lạ lẫm đó, hắn làm gì mà thấy được.
Nhưng, mỗi một sợi lông trên người hắn đều có cảm giác, mỗi một bắp thịt đều có cảm giác, mỗi một sợi dây thần kinh đều có cảm giác, đều bỗng co thắt lại.
Bởi vì hắn đã cảm thấy một đạo sát khí.
Sát khí không sờ được, không nghe được, cũng không thấy được.
Chỉ có người giết người vô số và lợi khí giết người vô số mới có thứ sát khí đó.
Chỉ có thứ người như Phó Hồng Tuyết mới có thể cảm thấy thứ sát khí đó. Cơ bắp toàn thân hắn tuy đều co thắt lại, nhưng hắn đã bất chợt phóng người lên khỏi cái giường gỗ cứng lạnh đó.
Ngay lúc thân người hắn như con cá chép phóng khỏi mặt nước, hắn thấy một đạo kiếm quang đâm thẳng vào chỗ hắn nằm hồi nãy.
Nếu quả hắn không phải là Phó Hồng Tuyết, nếu quả hắn không có giác quan thứ sáu linh mẫn bén nhọn như hắc báo, nếu quả hắn chưa từng có những kinh nghiệm vừa đáng quý vừa đáng sợ, nếu quả hắn không cảm thấy đạo sát khí đó, hồi nãy hắn nhất định đã bị đạo kiếm quang đó ám sát trên giường.
Kiếm quang vừa lóe lên, kiếm thanh vang lên.
Kiếm không có thanh âm, kiếm thanh mà Phó Hồng Tuyết nghe được là thanh âm mũi kiếm đâm từ dưới giường xuyên lên.
Lúc hắn nghe được tiếng động đó, mũi kiếm đã xuyên qua bản gỗ, chỗ mũi kiếm đâm xuyên vốn đáng lẽ là tâm tạng của Phó Hồng Tuyết, nhưng hiện tại cái mũi kiếm đâm lủng chỉ bất quá là một bản gỗ.
Không cần biết thanh kiếm đó là loại kiếm gì, thanh kiếm đó nhất định nằm trong tay một người. Không cần biết người đó là loại người nào, người đó nhất định còn ở dưới giường.
Thân người Phó Hồng Tuyết vừa lăng không, mỗi một bắp thịt, mỗi một phân khí lực trên dưới toàn thân đều đã vận dụng phát huy đến mức tột độ, thân người hắn bỗng lại lộn một vòng, sau đó quăng người thẳng xuống, nhắm hướng mà hắn tính trước sẽ có người bộc phát ra.
Hắn không tính lầm.
Dưới sàng có một người, mũi kiếm còn ghim trên giường, cán kiếm lại đã không còn nằm trong tay người đó.
Phó Hồng Tuyết vừa phóng xuống, người đó lập tức bay lên, trong bóng tối, Phó Hồng Tuyết phảng phất nhìn thấy có đạo đao quang lợt lạt từ bên hông người đó lóe xuất.
Lức đó thân hình Phó Hồng Tuyết đang hạ xuống, lực lượng tiềm ẩn toàn thân đã tận dụng hết hồi nãy lúc tung mình lên không trung, khi hắn nhìn thấy ánh đao quang lợt lạt, khí lực của hắn đã kiệt tận, tân lực chưa hồi sinh.
Người đến ám sát Phó Hồng Tuyết, không còn nghi ngờ gì nữa, là cao thủ trong cao thủ, y đã tính đúng Phó Hồng Tuyết nhất định có thể tránh khỏi một kiếm của y, cũng tính đúng Phó Hồng Tuyết sẽ bay ngược xuống về phía y, y đương nhiên đã tính đúng Phó Hồng Tuyết nhất định biết giữa một sát na lúc Phó Hồng Tuyết bay xuống, y vô phương rút kiếm ra khỏi giường.
Y càng tính đúng Phó Hồng Tuyết nhất định đoán không được là y còn có một thanh đao.
Một đao đó mới chân chân chính chính là một đao trí mệnh.
Người trên không trung, đã vô phương thoái lui.
Đao quang vừa lóe lên, người tất vong.
Một đao huy xuất, đao quang lợt lạt ánh lên nụ cười đắc ý nơi khóe miệng thích khách, y biết một đao đó Phó Hồng Tuyết tuyệt đối vô phương dự tính tới, cũng vô phương tránh né.
Không dự tính tới, không tránh khỏi, là phải chết.
Ngay lúc thích khách đó chuẩn bị thưởng thức mỹ cảnh máu tươi phún trào, y đột nhiên nghe thấy một thanh âm, một thứ thanh âm phảng phất rất quen thuộc.
Một thứ thanh âm chỉ có lúc mũi đao phá gió mới có thể phát xuất ra.
Cái y nghe thấy chính là đao thanh.
Đang lúc y nghe thấy đao thanh, y đã có cảm giác mặt đất dưới lưng lạnh như băng, càng kỳ quái hơn là y không ngờ nhìn thấy Phó Hồng Tuyết lạnh lùng đứng trước mặt y, đang dùng ánh mắt như vì sao treo mình trên đỉnh núi xa xăm mà nhìn y.
Sao lại có thể thế được ? Một đao đó đã là một đao chắc chắn chết, Phó Hồng Tuyết làm sao có thể tránh khỏi ?
Y nhớ lại phảng phất nghe thấy đao thanh.
Đao thanh của ai ?
Không thể là Phó Hồng Tuyết, căn bản không nhìn thấy hắn bạt đao, đao không bạt, làm sao có thể có đao thanh ?
Y dùng hết sức nhoài người dậy, chợt phát giác hữu thủ không có cảm giác, đợi đến lúc Phó Hồng Tuyết điềm nhiên thắp lại ngọn đèn tàn, y mới nhìn thấy hữu thủ của mình đã đứt lìa.
Có lẽ nào lúc nghe đao thanh hồi nãy, cổ tay phải của y đã bị chém đứt ? Y chỉ nghe thấy đao thanh, không nhìn thấy đao, có lẽ nào trên thế gian thật sự có thứ đao nhanh như vậy ?
Dưới ánh đèn mù mờ, Phó Hồng Tuyết phát hiện người đi ám sát hắn không ngờ là một người hoàn toàn xa lạ, hiện đang giương mục quang cực kỳ kinh hãi nhìn hắn.
“Ngươi không tin một đao của ta có thể chém đứt tay ngươi ?” Phó Hồng Tuyết hững hờ hỏi.
“Chỉ nghe thấy đao thanh, đao thanh ...” Y lẩm bẩm đáp:
“Không nhìn thấy đao, không nhìn thấy đao ...” Biểu tình trên mặt y méo mó, tịnh không phải vì vết thương đau điếng, mà vì nội tâm đang vật lộn với sự thật đó, y không tin trên thế gian có thứ đao nhanh như vậy, nhưng sự thật khơi khơi phơi bày trước mắt.
“Ngươi là ai ?” Phó Hồng Tuyết lạnh lùng hỏi y.
Y không hồi đáp, chỉ giương thị tuyến nhìn về hướng khúc tay bị chém đứt của mình, nhìn bày tay vẫn còn nắm cán đao, trong mắt y chợt lộ xuất một thứ thần tình hỗn hợp, vừa bất lực, ai thương, trầm thống, vừa giải thoát.
Trong bao nhiêu tâm tình phức tạp như vậy, sao lại có tâm thái giải thoát ?
Phó Hồng Tuyết cũng đưa mục quang nhìn về phía bàn tay bị chặt, khi hắn chạm mắt lên bàn tay đó, trên mặt hắn cũng chợt lộ xuất một thứ biểu tình rất kỳ quái.
Lúc Phó Hồng Tuyết nhìn thấy đoạn tay bị chặt đứt đó, hắn chợt đã hiểu thấu thích khách đó vì sao khi nhìn thấy bàn tay bị chặt đứt của mình lại hiển lộ thứ thần tình rất phức tạp đó.
Kỳ thực cái Phó Hồng Tuyết nhìn không phải là đoạn tay bị chặt, mà là thanh đao trên đoạn tay bị chặt.
Đó là một thanh đao rất cong, cong như trăng huyền, cong như lưỡi câu của ngư ông.
Thứ loan đao đó đại bộ phận người dân ở biên cường đều dùng, nhưng cách đây ba năm, võ lâm Trung Nguyên chợt xuất hiện một cao thủ dùng loan đao.
Vị cao thủ đó sử một thanh Huyền Nguyệt loan đao, nội trong vòng ba năm ám sát tổng cộng năm mươi hai cao thủ nhất lưu, chưởng môn các phái, võ lâm danh gia, giang hồ hào khách.
Cho tới nay y chưa từng bại qua một lần.
Phó Hồng Tuyết quay đầu ngưng thị nhìn y, qua một hồi rất lâu mới mở miệng:
- Ngươi là Loan Đao A Thất ?
“Phải”. A Thất đáp:
“Ta là Loan Đao A Thất”.
Phó Hồng Tuyết lại chú thị nhìn y một hồi lâu, điềm đạm hỏi:
- Ngươi đã lầm.
- Ta đã lầm ?
“Ngươi nếu quả quang minh chính đại đến tìm ta, có lẽ ngươi có thể nhìn thấy đao”. Phó Hồng Tuyết nói từng tiếng.
“Nhìn thấy đao ?” Trước ngày hôm nay, A Thất tuyệt đối không tin câu nói đó, nhưng hiện tại y đã không thể không tin, trong mắt y lại lộ xuất những biểu tình phức tạp đó lần nữa.
Mục quang của Phó Hồng Tuyết lại đón nhận thần tình “giải thoát” trong ánh mắt của A Thất, hắn lẳng lặng nhìn A Thất, cũng không biết bao lâu sau, hắn mới thở dài nhè nhẹ.
A Thất cũng thở dài một hơi, biểu tình phức tạp trên mặt cũng theo tiếng thở dài đó mà tan biến, chỉ còn dư lại nỗi hoan du giải thoát và hư thoát, sau đó y chợt dùng một khẩu khí rất chân thành mà thốt:
- Cảm tạ ngươi.
“Không cần khách khí”. Phó Hồng Tuyết hững hờ đáp lời.
A Thất vì sao đối với Phó Hồng Tuyết vừa chém đứt tay mình lại nói lời cảm tạ ?
Phó Hồng Tuyết đương nhiên hiểu rõ ý tứ của A Thất, cho nên hắn mới nói “không cần khách khí”, bởi vì hắn cũng là người dụng đao.
Người si đao thông thường cũng giống như người si tình.
Người hãm mình trong lưới tình, bị tơ tình quấn quyện, không những vô phương tự thoát thân, thậm chí muốn cầu chết cũng không thể nào.
Lối sống đó còn tệ hơn chết, thứ thống khổ đó phát ra từ tận thâm sâu cốt tủy, cũng duy nhất có người si đao mới có thể hiểu thấu.
Cho nên tơ tình thông thường phải cần thanh kiếm trí tuệ cắt đứt, người si đao cũng chỉ còn nước chết dưới đao mới có thể giải thoát.
Cho nên Phó Hồng Tuyết tuy đã chém đứt tay A Thất, y không những không một lời oán trách, còn rất cảm kích Phó Hồng Tuyết.
A Thất gắng gượng lôi người đứng dậy, dùng tả thủ còn lại lượm bàn tay bị chặt đứt, sau đó nói với Phó Hồng Tuyết:
- Ngươi không cần tiễn ta.
“Ta biết”. Phó Hồng Tuyết đáp.
Hai người im lặng nhìn nhau một cái, A Thất chợt quay người bước ra, lúc y ra tới cửa, Phó Hồng Tuyết bỗng mở miệng.
“Tả thủ cũng có thể dùng đao”. Phó Hồng Tuyết điềm đạm thốt:
“Vào thời của Tiểu Lý Phi Đao có một vị vốn là người dùng kiếm tay phải, sau đó tay phải bị chặt đứt, nhưng kiếm của y dùng tay trái lại còn nhanh hơn so với tay phải”.
Người Phó Hồng Tuyết nói tới chính là Kinh Vô Mạng, A Thất biết, nhưng y chỉ đi hững hờ quay đầu lại, hững hờ nói với Phó Hồng Tuyết:
- Ta rời khỏi nhà đã ba năm, cố hương của ta còn có một người si tình đang đợi ta.
Có lẽ sau này ta có thể dùng tả thủ để xắt đồ ăn, dùng tả thủ để nâng chén uống với nàng.
“Có cơ hội ta nhất định đi ăn đồ ăn ngươi nấu”. Phó Hồng Tuyết thốt.
“Ta nhất định đợi ngươi”. A Thất đáp:
“Nhà ta ở ngoại thành Lạp Tát, một nơi gọi là Phong Linh”.
Hết hồi 12.
Hồi 13
Thiếu Phụ Dưới Phong Linh
Ánh sao Lạp Tát mông lung như Giang Nam trong mộng.
Ánh đèn phảng phất cũng xa xăm như Giang Nam, người đứng dưới phong linh bên dưới ánh đèn, ánh mắt của thiếu phụ vẫn mộng mơ thẫn thờ ngưng thị nhìn vào nơi dịu vợi.
Mộng của nàng có phải ở viễn phương, hay viễn phương có người nàng đang nhớ nhung bao lâu nay ?
Đêm Lạp Tát tuy cũng lạnh giá, gió khuya lại không thấu xương như Biên Thành, thậm chí còn mang đến Lạp Tát nhiệt tình nam nhi tráng kiện.
Gió khuya lùa cây tùng cổ lão già nua bên ngoài Phong Linh, cũng quyến luyến dàn phong linh dưới mái hiên vang vọng tiếng leng keng.
Tiếng phong linh thanh thúy, nghe trong đêm vắng như vầy, càng làm tăng thêm hương sầu nhớ nhà của lãng tử, niềm bi thương chán chường của du tử.
-- Ánh sao còn xa vời hơn cả cố hương, nhưng ánh sao có thể nhìn thấy được, còn cố hương ? Bao nhiêu đứa trẻ ngồi quanh một cái bàn, đứa nào cũng ăn ngon lành, vào cái tuổi của bọn chúng, căn bản vẫn còn chưa thể hiểu thấu chân ý nghĩa của nhà, bọn chúng chỉ cần có ăn, có chơi, có ngủ, thì cho dù có thiên tháp từ trên trời hạ xuống cũng không cần biết.
Diệp Khai cũng từng trải qua cái tuổi đó, nhưng lúc đó chàng đã hiểu được nhà trân quý ra sao.
Có phải vì sau khi mất mát tất cả, mới biết nhà quý tới cỡ nào ?
Thiếu phụ đang nhìn xa xăm, Diệp Khai đang nhìn thiếu phụ, Tô Minh Minh chú thị nhìn Diệp Khai, Kim Ngư cùng bọn Tiểu Hoa tụ hòa liến thoắng.
Ánh mắt của thiếu phụ như mộng, ánh mắt của Diệp Khai như một dụng cụ quan sát tinh chế, ánh mắt của Tô Minh Minh mông lung như ánh sao.
“Muốn nghe cố sự không ?” Tô Minh Minh chợt hỏi khẽ.
“Cố sự ?” Diệp Khai chợt tỉnh, quay đầu nhìn Tô Minh Minh:
“Cố sự gì vậy ?” “Cố sự của nàng ta”. Thị tuyến của Tô Minh Minh quay về hướng thiếu phụ dưới phong linh.
- Muốn.
- Đi theo tôi !
oo Muốn kể cố sự của “nàng”, đương nhiên không nên nói trước mặt nàng, cho nên Tô Minh Minh dẫn Diệp Khai đến bên bờ thác.
Đêm nay Lạp Tát có sao, cũng có trăng.
Còn Giang Nam ? Ánh sao mông lung, ánh trăng sáng ngời, dòng thác rì rào ánh thành một dải thắt lưng dài thượt trắng bạc lấp lánh.
Gần thác có một tảng nham thạch rất lớn, Tô Minh Minh ngồi bên trên, Diệp Khai đương nhiên cũng ngồi bên trên, ngồi bên cạnh Tô Minh Minh trên tảng nham thạch.
Ánh trăng sáng như vậy, phong cảnh đẹp như vậy, tiếng suối chảy dịu dàng như vậy, mặt đất thanh bình như vậy, nếu quả bọn họ là một đôi tình nhân mà nói, đó đã là một bức họa lãng mạng làm sao.
“Tên của nàng là Na Oa”. Tô Minh Minh dịu giọng.
Diệp Khai đương nhiên biết “nàng” là chỉ thiếu phụ dưới phong linh:
- Na Oa ?
Biểu tình của Tô Minh Minh chợt biến thành rất bi thương:
- Nếu quả chàng muốn hiểu rõ con người của Na Oa, nhất định trước hết phải nghe một thiên cố sự mới được.
Chuyện nàng kể đích thị là một cố sự bi thương.
Na Oa là nữ nhân, trăm ngàn năm trước sinh trưởng ở phía bắc Thánh Mẫu Phong, là một nữ nhân vừa vĩ đại vừa thánh khiết trong bộ tộc Khoách Nhĩ Khách thời cổ đại.
Khi bộ lạc Khoách Nhĩ Khách bị tộc nhân của bộ tộc Nê Cổ hung ác cường bạo tấn công, tộc nhân của nàng bị đánh bại, người yêu của nàng bị bắt đày đi xa, nàng cũng bị tù trưởng của tộc Nê Cổ bắt sống.
Tiêu chí của tộc Nê Cổ là màu đỏ, màu đỏ mang theo mùi máu, bọn chúng thích mùi máu và sự đổ nát.
Tù trưởng của bọn chúng muốn gạ gẫm Na Oa, nàng thà chết chứ không chịu phục tùng.
Cho nên tên tù trưởng đe dọa sẽ giết người yêu của nàng.
Cho nên Na Oa chỉ còn nước ... Nàng chịu đựng, bởi vì nàng muốn phục thù.
Nợ máu trả bằng máu, nàng chung quy đã đợi được cơ hội cứu được người đồng tộc và người yêu bị đày.
Nàng cũng không phải là không có hy sinh.
Đợi đến lúc người yêu của nàng dẫn dắt đại quân phục thù công nhập tới bên dưới đại trướng doanh của tên tù trưởng bộ tộc Nê Cổ, nàng đã hóa thành hương hồn.
Là hương hồn, cũng là trung hồn.
Trong tay nàng còn nắm chặt một tình khúc nàng viết cho tình nhân ”quả cảm” của mình trước khi lâm tử.
Là tình khúc, cũng là sử thi.
Xin đưa tới người ca khúc này, làm ơn giao cho niềm quả cảm của tôi trú bên dưới dòng suối nhỏ.
Niềm quả cảm yêu mến của tôi, chàng nhất định phải sống.
Chàng phải sinh tồn, phải cảnh giác đề phòng, đề phòng từng giây từng phút, vĩnh viễn ghi nhớ, ghi nhớ đám người thích ô tinh huyết hồng kia.
Bọn chúng hiếu sát.
Chàng đụng phải bọn chúng, cũng bất tất phải lưu tình, chàng phải đem bọn chúng quăng vào cùng hải, đem bọn chúng nhốt vào hoang tái, trùng kiến cố quốc điền viên mỹ lệ của chàng.
Cố quốc tuy đã trầm luân, điền viên tuy đã hoang vu, nhưng chỉ cần chàng cần cù nỗ lực, cố quốc của bọn ta tất có ngày phục hưng, điền viên tất có ngày trùng kiến .
Tình nhân của nàng không phụ lòng nàng, tộc nhân của nàng cũng không phụ lòng nàng.
Cố quốc của nàng đã được phục hưng, điền viên đã được trùng kiến.
Bài thơ của nàng và xương trắng của nàng đều được mai táng dưới tòa bạch tháp Na Oa Tự xây dựng cho nàng, vĩnh viễn lệnh truyền sự sùng bái tôn kích của người người.
Đó không phải là thiên cố sự tráng liệt.
Đó là thiên cố sự bi thảm.
oo Diệp Khai không rơi nước mắt, một người nếu quả trong lòng nhiệt huyết đằng đằng dâng trào, làm sao rơi nước mắt được ? Bất quá chàng không thể không hỏi:
- Xương trắng của nàng đãi mai táng dưới tòa bạch tháp, Na Oa mà nàng kể tới lại làm sao mà về đây ?
“Na Oa ngày nay tuy không không có đám tộc nhân khát máu hung tàn áp chế”, thanh âm của Tô Minh Minh vương vấn một tia ai sầu:
“Nhưng lại phảng phất có một vật khát máu áp chế nàng và người yêu của nàng”.
- Vật gì ?
“Thành danh”. Tô Minh Minh đáp:
“Người yêu của nàng rời bỏ nàng là vì muốn thành danh”.
“Người yêu của nàng rời bỏ nàng là vì muốn vang danh trong giang hồ ?” Diệp Khai hỏi.
“Đúng”. Thanh âm của Tô Minh Minh mộng ảo như tiếng suối chảy:
“Cho nên nàng bị giam cầm trong trướng bồng của tên tù trưởng danh lợí, chịu đựng tịch mịch cô độc, chịu đựng năm tháng dày vò, đợi chờ một ngày người yêu của nàng trở về cứu nàng”.
“Đợi bao lâu rồi ?” Diệp Khai hỏi:
“Nàng đã bầu bạn với tịch mịch bao lâu ?” “Ba năm”. Tô Minh Minh đáp:
“Đã ba năm dưới phong linh chỗ cây cổ tùng”.
- Người yêu của nàng tên gì ?
“A Thất”. Tô Minh Minh đáp.
- A Thất ?
Trong óc Diệp Khai chợt lóe lên một bóng người, một thanh niên tay cầm một than loan đao như trăng huyền.
“Loan Đao A Thất”. Diệp Khai lẩm bẩm:
“Có phải là y ?” - Chàng nói gì vậy ?
“Không”. Diệp Khai hiển nhiên không muốn để nàng biết con người của Loan Đao A Thất, cho nên chàng liền hỏi:
“Vậy nàng ta có biết A Thất trên giang hồ có danh tiếng gì chưa ?” “Nàng ta từng nói với tôi, cho dù A Thất đã có danh trên giang hồ, y vẫn không thể trở về”. Tô Minh Minh đáp:
“Bởi vì khi y có danh, cũng trở thành bất lực”.
“Điều đó là thật”. Diệp Khai cười thốt:
“Thân tại giang hồ, thân bất do kỷ, sau khi đã thành danh, thông thường đều có thể gặp phải những chuyện không còn đường lựa chọn”.
“Một người đã thành danh, thông thường có người khác muốn thành danh đến tìm mình quyết đấu, sau đó còn có thể có người thứ hai, người thứ ba ... cho đến lúc mình bại”. Tô Minh Minh thốt:
“Trên giang hồ bại tức là chết”.
Tô Minh Minh dừng một chút, lại từ từ nói tiếp:
- Cho nên Na Oa lại nói, A Thất nếu quả có trở về, nhất định là đã đến lúc y chết.
“Nàng ta đã biết kết quả như vậy, tại sao lại vẫn phải chờ đợi ?” Diệp Khai hỏi.
“Bởi vì nàng ta si tình”. Thanh âm của Tô Minh Minh lại thẫn thờ thương cảm:
“Biết rõ kết quả như vậy, nàng ta vẫn phải đợi chờ, một người si tình, cũng giống như người si kiếm, biết rõ kết quả là chết dưới kiếm của người si kiếm khác, hắn vẫn làm vậy”.
-- “Nhân tại giang hồ, thân bất do kỷ”, người trong giang hồ, thân không còn thuộc về mình, người nói câu đó thật sự hiểu thấu người giang hồ.
Ánh trăng là tà trên suối nước, sóng nước lăn tăn, phảng phất dòng suối cũng có vô số vì sao đang nhấp nháy.
Dưới ánh trăng, đôi mắt thẫn thờ ai sầu tịch mịch trống vắng của Tô Minh Minh đang chăm chăm nhìn Diệp Khai.
“Còn chàng ? Chàng có phải đang đợi một trường quyết đấu vĩnh viễn không an nghỉ ?” Tô Minh Minh hỏi:
“Chàng vì sao không thoái lui khỏi giang hồ thị phi ?” Diệp Khai không nhìn nàng, mục quang của chàng xuyên thấu gợn sóng bập bềnh đến tận đáy nước sâu thẳm.
“Cho dù người có thoái xuất giang hồ, nhưng danh vẫn còn tại giang hồ”. Diệp Khai cười khổ:
“Người muốn thành danh đều có thể tìm đến mình, cho dù người mình ở chân trời góc biển, phiêu diêu ở hư nguyên, ngày tháng an bình của mình cũng có lúc kết thúc”.
Tô Minh Minh không nói tiếng nào, người nàng đã hãm nhập trong trầm tư, phảng phất đang gặm nhấm ý vị câu nói của Diệp Khai, mục quang của nàng cũng quay về hướng dòng suối trong vắt nhìn thấy tận đáy.
Nàng không mở miệng, Diệp Khai đương nhiên càng không thể nói gì, giây phút tĩnh lặng mỹ miều lãng mạng đó, hà tất để cho sự tình ân oán không đường lựa chọn phá hoại không gian ? Nhưng đang lúc Diệp Khai chuẩn bị hưởng thụ tình điệu đó, Tô Minh Minh chợt hỏi:
- Chàng nhìn kìa, cái gì đang lềnh bềnh trên mặt nước vậy ?
Diệp Khai lập tức quay đầu nhìn.
Trên mặt suối lăn tăn sóng nước, có một chiếc giày trôi nổi, một chiếc giày rất nhỏ, xem chừng là giày con nít.
“Giày”. Diệp Khai đáp:
“Xem chừng là giày con nít mang”.
- Mau, mau đi coi ...
Tô Minh Minh còn chưa dứt lời, Diệp Khai đã phóng đi, người nhẹ nhàng điểm trên mặt suối, lại đã quay trở về đến trên tảng nham thạch, trong tay chàng cầm một chiếc giày nhỏ, nước nhỏ giọt trên mặt nham thạch.
Tô Minh Minh hồi nãy vội vả, nhưng bây giờ nàng tịnh không đón lấy chiếc giày, nàng chỉ dùng ánh mắt ngập tràn vẻ khủng bố nhìn chiếc giày nhỏ trên tay Diệp Khai.
Tại sao nàng có biểu tình như vậy ? Đó chỉ bất quá là một chiếc giày rất bình thường, nàng tại sao lại có cử động như vậy ? Diệp Khai không hỏi nàng, tịnh không phải vì chàng đã biết nguyên nhân, mà là chàng biết Tô Minh Minh nhất định sẽ giải thích.
Tô Minh Minh quả nhiên đã giải thích, nàng nhìn chằm chằm lên chiếc giày một hồi lâu, sau đó mới nói:
- Đó là giày ba tháng trước tôi đã mua cho Ngọc Thành.
Chiếc giày đó của Ngọc Thành, nó đêm hôm qua đã thất tung, hiện tại có một chiếc giày của nó trôi tới đây, nhất định là nó đã có chuyện.
Diệp Khai quay đầu nhìn vách đá nơi thác nước đổ xuống:
- Trên đó là chỗ nào ?
Tô Minh Minh cũng nhìn lên vách đá, thanh âm của nàng có vẻ sợ hãi:
- Nghe nói dòng suối đó chảy qua bên dưới Hầu Viên.
“Hầu Viên ?” Diệp Khai hỏi:
“Hầu Viên bên trên vách đá đó ?” - Phải.
Chiếc giày trôi theo thác nước từ trên vách đá rơi xuống, chảy tới đây, trên vách đá là Hầu Viên, Ngọc Thành lại đi tới Hầu Viên rồi mất tích, chiếu theo đó mà nói, tòa Hầu Viên đó nhất định ẩn tàng bí mật không ai biết, không thể nói cho ai biết.
oo Ánh sáng bình minh đột phá mấy tầng mây, bắn ra trên đầu Tử Cảnh, bầu trời tuy đã sáng, nhưng mặt đất vẫn còn là một phiến mông lung.
Tử Cảnh trong mông lung nhìn giống như một bức tranh thủy mặc, lại một phần thần bí, một phần quái dị, một phần khủng bố hơn tranh thủy mặc.
Vết thương tuy đau đớn, nỗi vui mừng trong tâm lại đã lấn át nỗi đau ngoài da, A Thất chú thị nhìn Tử Cảnh trong mông lung, hân hoan nhướng mày.
Qua khỏi Tử Cảnh là tới Lạp Tát, Lạp Tát sau ba năm xa cách có còn nguyên dạng như xưa ? Mái vòm của Bốt Đạt Lạp Cung có còn phát quang lấp lánh dưới trời xanh như xưa ? Những tín đồ hoạt Phật kiền thành có còn không ngại đường xá xa xôi tam bộ nhất bái, ngũ bộ nhất khấu, dùng phương pháp gian khổ đó để biểu thị lòng tôn kính của bọn họ như xưa ? Con đường trường trong thành có còn ngập tràn mùi sữa chua nồng nặc gần như làm người ta không thể thở nỗi như xưa ?
Phong linh dưới mái hiên ngoài thành có còn treo đung đưa như xưa ? Tiếng vọng phát xuất có còn dẫn đưa nỗi nhớ nhà như xưa ? Bên dưới phong linh có còn người tựa song cửa nhìn xa xăm như xưa ? Trong mắt nàng có còn mang theo niềm thương cảm triền miên như xưa ? Nghĩ tới nàng, A Thất hận mình không thể lập tức về cạnh bên nàng, y mập mờ nhớ lại tình cảnh năm đó lúc y muốn rời bỏ nàng, nàng không la lối, cũng không khóc.
Nàng cũng không níu kéo, chỉ dùng một khẩu khí rất lợt rất lạt mà nói:
- Nhớ Lạp Tát có Phong Linh.
“Ta nhất định nhớ”. Năm đó A Thất đáp lời nàng một cách khẳng định:
“Chỉ cần mộng tưởng của ta vừa được thực hiện, ta nhất định trở về”.
Lúc đó A Thất còn là một thanh niên tràn đầy hoài bão, nghĩ giang hồ cũng giống như khách sảnh ở nhà y, rất dễ dàng đi lại, lúc hứa hẹn phảng phất rất có lòng tin đối với mộng tưởng của mình.
Đợi đến khi y đem mộng tưởng, hoài bão, và thanh loan đao cong cong như trăng huyền đó vào giang hồ, y mới biết giang hồ là nơi như thế nào.
“Mộng tưởng” sau đó tuy đã được thực hiện, nhưng người lại đã biến đổi.
Không phải là biến tâm, không phải là biến thành hư hỏng, mà là biến thành “sợ làm hư sự”, biến thành không dám về nhà, bởi vì y chỗ nào lúc nào cũng đều phải dự phòng có người đến tìm y quyết đấu.
Y sợ sau khi trở về nhà, làm liên lụy đến nàng.
Một lần không dám về, hai lần không dám về, ba lần, bốn lần ... Càng lâu lại càng không dám về.
“Giang hồ càng đi càng sợ”, câu nói đó tuy tịnh không hoàn toàn chính xác, lại cũng có đạo lý của nó.
A Thất biết cả đời này đại khái đã vô phương về nhà được, bởi vì trên giang hồ, bại là chết.
Người chết có về nhà được hay không đều không thành vấn đề nữa.
-- Có thật sự không thành vấn đề không ?
Đại hiệp khách, đại danh nhân, anh hùng hảo hán trên giang hồ, tịnh không giống như trong truyền thuyết, bọn họ và người bình thường đều phải sinh hoạt, phải ăn, phải chơi, phải uống rượu, phải xài tiền.
Không có thu nhập, làm sao mà ăn xài ? Những hiệp khách, danh nhân, anh hùng hảo hán lại không thể đi trộm đi cướp, cho nên có người bắt đầu làm “kiêm sai”, làm nghề tay trái.
Tối hảo nhất trong nghề nghiệp “kiêm sai” đương nhiên là “chức nghiệp sát thủ”, sát thủ chuyên nghiệp.
Trong tất cả các chức nghiệp của nhân loại, chức nghiệp lâu đời nhất, không có đường chọn lựa nhất trong lịch sử, là sát thủ, cũng là chức nghiệp nguyên thủy nhất của nam nhân.
Thậm chí so với chuyện sinh đẻ của nữ nhân còn cổ xưa hơn.
Làm sát thủ tuy kiếm được nhiều tiền, nhưng đại đa số là nhân vật bi kịch, bởi vì khi bọn họ thi hành nhiệm vụ, lúc nào chỗ nào cũng đều có thể chết, hơn nữa còn phải có lối sinh hoạt ẩn tích mai danh.
Có lúc tiếp nhận nhiệm vụ đi giết thân nhân của chính mình, lúc đó không những không thể đắn đo, mà còn phải cả nhíu mày một lần cũng không thể.
Sát thủ không những lục thân bất nhận, hơn nữa còn phải lãnh khốc vô tình, càng phải tuyệt tình, quyết không thể có một chút nhi nữ tư tình, cũng không thể có tình cảm luân thường đạo lý.
Tuyệt tình tuyệt nghĩa, tàn khốc ngoan bạo, lãnh huyết vô danh, những thứ đó đều là điều kiện cần thiết để làm một sát thủ, quan trọng là cần phải giữ có một mình mình.
Không có thời gian của mình, không có lợi ích của mình, không có ân thù của mình, không có gia hận của mình, tất cả những gì phụ thuộc về mình đều phải cách ly tuyệt đối.
Một điểm càng trọng yếu là sát thủ không có cơ hội thoái lui, chỉ có nước bước tới, tới chết mới nghỉ.
Nếu quả mình muốn đợi gom góp để giành đủ tiền, sau đó thoái lui, đó tuyệt đối là chuyện không thể có, cho dù cừu nhân không giết mình, kẻ đồng hành nhất định cũng truy đuổi mình, truy đuổi mình tới lúc hoàn toàn không thể nói ra bí mật mới thôi.
-- Người không thể nói ra bí mật, trên thế gian này đại khái chỉ có một dạng người, người chết.
Còn có một dạng cũng có thể, đó là lúc người ta đã nghĩ mình không thể uy hiếp người ta, có lẽ người ta sẽ phóng tha mình.
Giống như A Thất hiện tại.
Hữu thủ của y đã đứt lìa, người đã tàn phế, cho dù có nắm giữ bí mật trọng đại, nhưng để bảo toàn sinh mệnh, chết cũng không thể tiết lộ ra.
Cho nên dạng của A Thất, có thể coi là may mắn nhất trong đám sát thủ, bởi vì y đã chết qua một lần.
Người ta nhất định có thể nghĩ y đã chết dưới đao của Phó Hồng Tuyết, tuyệt đối không tưởng tượng được Phó Hồng Tuyết không ngờ lại có thể phóng tha y.
Phó Hồng Tuyết tuy chém đứt một tay y, lại bảo toàn sinh mệnh của y.
Từ nay trên giang hồ đã không còn con người “Loan Đao A Thất”.
Nắng sớm dâng cao, tản mác trên mặt đất vô biên, cũng đẩy lùi giá lạnh tàn lưu từ đêm qua.
Vẻ hiểm ác của Tử Cảnh có thể nhìn thấy rõ, nhưng A Thất tịnh không sợ, y từ nhỏ đã sinh trưởng ở Lạp Tát, không biết đã chơi bời ở Tử Cảnh này bao nhiêu lầ n rồi, đối với truyền thuyết yêu ma quỷ quái, y càng không tin.
Cho nên y tuy ba năm rồi chưa trở về, đi đến Tử Cảnh, trong tâm đã dâng trào một hương vị ngọt ngào, nhìn thấy Tử Cảnh phảng phất đã như nhìn thấy nhà mình vậy, cước bộ của y không khỏi càng lúc càng nhanh.
Vách đá cao vút dựng đứng che ánh mặt trời, A Thất bước vào trong bóng tối âm u, chút nữa đây sẽ quay khỏi Tử Cảnh, mau chóng về đến Lạp Tát, đương nhiên cũng rất mau chóng nhìn thấy nàng.
Ngay lúc đó, y chợt nhìn thấy một lão nhân khập khiễng từ đầu kia của Tử Cảnh đi tới.
Lão nhân đó lưng đã cong gù, trên lưng đeo một cái gùi tre, hữu thủ của lão chống cây nạng kết bằng hai phiến trúc, lần mò thất thểu bên vệ đường lượm phế khí vật.
Lão nhân đó nguyên lai là một “thập hoang giả”, lão già lượm đồ phế liệu.
A Thất nhìn thấy lão nhân lượm phế liệu đó, trong tâm không khỏi dâng lên một niềm tôn kính, một người già nua như vậy còn phải vì sinh hoạt mà bôn ba, năm tháng tuy đã để lại nhiều vết tích tàn khốc trên người lão, thập hoang lão nhân đó lại không cúi đầu, lưng của lão tuy cong, hành động tuy không quá linh hoạt, nhưng lão vẫn bằng vào nỗ lực của chính mình mà kiếm đồng tiền bát gạo sinh sống.
Lão có con cái thân nhân gì không ? Nhất định là không, nếu không ai lại tàn nhẫn để cho một người già cỗi như vậy lao thân lụy sức sinh nhai ? Thứ người không bị sinh hoạt sống còn hiện thực đánh gục như lão, tâm tự tôn nhất định rất cường liệt, y nếu quả muốn để lộ chút đồng tình thương hại lấy lão, lão nhất định có thể giận dữ chống lại y.
Cũng may A Thất đã nghĩ ra phương pháp, vừa có thể trợ giúp lão, cũng không làm thương tổn đến lòng tự tôn của lão.
A Thất rút trong túi ra một tấm ngân phiếu, sau đó nhàu nát, quăng dưới đất, y lại nhanh nhẹn bước đi, rất mau chóng bước qua mặt thập hoang lão nhân.
Ánh mắt của thập hoang lão nhân một mực nhìn chăm chăm trên mặt đường, lão đương nhiên nhất định sẽ phát hiện tờ ngân phiếu mà A Thất quăng trên đường.
Tiền tài rơi rớt lượm được dọc đường, tịnh không thể làm tổn thất đến sự tự tôn của lão nhân, cho nên tâm tình của A Thất thật sự khoái trá cực kỳ.
-- Giúp đỡ một người già cần được giúp đỡ, chuyện đó tuy không phải là việc thiện gì lớn lắm, nhưng lại có thể làm cho tâm tình mình thoải mái cực kỳ.
Gió sớm tươi tắn nhất, cũng ôn nhu nhất, trong gió không những phảng phất mùi lá cây từ núi non xa xăm, cũng có mùi sữa chua từ trong thành Lạp Tát bay ra.
A Thất hít một hơi dài, mùi vị đó quen thuộc làm sao ! Mỗi lần sau khi uống rượu hoặc mộng mơ lúc nửa đêm, y khao khát có thể ngửi thấy mùi vị đó làm sao ! Y tham lam hít mấy hơi liền, sau đó đang chuẩn bị bước tiếp, chợt nghe thanh âm từ đằng sau truyền tới:
- Người trẻ tuổi !
Thanh âm già nua trầm khàn, lại mang đậm những nỗi thăng trầm của cuộc đời, nhất định là thanh âm của thập hoang lão nhân, A Thất quay đầu nhìn lão nhân đang bước về phía y.
“Người trẻ tuổi có biết tiền đáng quý lắm không”. Thập hoang lão nhân cầm tờ ngân phiếu hồi nãy A Thất quăng trên mặt đường:
“Ngươi sao lại bất cẩn đến thế ? Vạn nhất gặp người khác, chắc mất luôn rồi”.
A Thất lập tức giơ tả thủ còn lại lắc lắc:
- Không phải của ta.
- Không phải của ngươi ?
“Không phải”. A Thất rút trong người ra một sấp ngân phiếu:
“Tiền của ta đều cất trong này, tiền ông lượm đâu phải tiền của ta”.
“Ồ !” Thập hoang lão nhân nhìn tiền trên tay, thở dài:
“Ái chà ! Nhiều tiền như vầy không ngờ không ai muốn”.
“Là ông nhìn thấy, ông nên giữ”. A Thất thốt:
“Ta còn có chuyện phải đi đây !” A Thất quay đầu, vừa muốn đi, chợt nghe lão nhân nói một câu rất kỳ quái:
- Cái giá ta giết người tuy rất cao, nhưng luôn luôn đều là người sống giao tiền cho ta, không tưởng tượng được lần này không ngờ có người chết lại có thể cho ta tiền”.
Cái giá giết người ? Có lẽ nào thập hoang lão nhân là sát thủ ? A Thất vội quay mình, đôi mắt nhìn thập hoang lão nhân chằm chằm, nhưng nhìn cách nào đi nữa, cũng nhìn không ra thập hoang lão nhân đó là sát thủ.
- Lão nhân gia, hồi nãy ông nói gì vậy ? Có thể lặp lại được không ?
“Được mà”. Thập hoang lão nhân nhướng mày thốt:
“Ta giết người luôn luôn là người sống trả tiền, không tưởng tưởng được lần này không ngờ là người chết trả tiền”.
“Người chết trả tiền ?” A Thất hỏi:
“Người chết là ai ? Ai là người muốn ông giết người ? Giết ai ?” “Người chết là ngươi”. Thập hoang lão nhân cười đáp:
“Người hồi nãy len lén quăng tiền dưới đất, đại khái là sợ làm tổn thương lòng tự tôn của ta, có phải không ?” Đến rồi, chuyện A Thất lo lắng quả nhiên đã đến.
Tưởng không được Phó Hồng Tuyết tuy đã tha y, tổ chức lại vẫn không tha y.
“Là tổ chức phái ngươi đến ?” A Thất giới bị chăm chú nhìn thập hoang lão nhân:
“Ta đã thành người tàn phế, trốn tránh còn không kịp, làm sao có thể tiết lộ bí mật ? Tổ chức vì sao còn không chịu phóng tha ta ?” - Vì Phong Linh.
“Phong Linh ?” A Thất ngẩn người:
“Vì vợ ta ?” “Phải”. Thập hoang lão nhân cười cười:
“Ngươi không chết, Phó Hồng Tuyết làm sao chết được ?” Câu nói đó A Thất nhất định nghe không hiểu lắm, cho nên đang chờ thập hoang lão nhân giải thích.
“Ngươi tuy rời khỏi nhà đã ba năm, nhưng lão bà của ngươi vẫn si dại đợi chờ ở Phong Linh ốc, cho dù có đợi mười năm, ả vẫn có thể đợi cho được”. Thập hoang lão nhân thốt:
“Nếu quả ngươi đã chết, tình huống lại khác, vợ ngươi nhất định đi lượm xác ngươi, cũng nhất định trả thù cho ngươi”.
Thập hoang lão nhân lại cười cười, nói tiếp:
- Vợ ngươi ra sao, ngươi nhất định rất thấu hiểu, không cần biết là ai đã giết ngươi, ả đều có thể truy tung cho ra, hơn nữa cũng nhất định có thể giết cho đưọc đối phương, không cần biết đối phương là cao thủ lợi hại tới cỡ nào, ả đều có biện pháp giết chết”.
“Bọn ngươi đã biết tâm lý báo thù của Phong Linh trầm trọng đến cỡ nào, thì càng không nên giết ta”. A Thất thốt.
“Bọn ta phải giết ngươi sao ?” Thập hoang lão nhân nhướng mày, khóe miệng hé lộ nụ cười quỷ dị:
“Ngươi chết dưới đao của Phó Hồng Tuyết, bọn ta toàn tâm toàn ý muốn báo thù cho ngươi”.
Mặt đất tuy đã dần dần ấm áp, A Thất lại cảm thấy một luồng khí lạnh xuyên thấu lòng bàn chân đi lên, y cuối cùng đã minh bạch mục đích của tổ chức, bọn chúng muốn giá họa cho Phó Hồng Tuyết.
Bọn chúng đương nhiên nhất định có biện pháp làm cho “Phong Linh” nghĩ là y đã chết dưới đao của Phó Hồng Tuyết, một khi nàng biết y đã chết dưới đao của Phó Hồng Tuyết, sau này ngày tháng của Phó Hồng Tuyết sợ rằng sẽ không tốt đẹp gì.
Thủ đoạn truy tung báo thù của “Phong Linh”, không ai rõ bằng A Thất, cho dù mình có là ông trời, nàng cũng có biện pháp bắt mình từ thâm cung hoàng điện đem ra nơi hoang dã lăng trì đến chết.
Thập hoang lão nhân dùng một ánh mắt rất nhân từ nhìn A Thất, đương nhiên cũng dùng một thanh âm rất từ tốn hỏi A Thất:
- Ngươi có biết ta dùng binh khí gì đến giết ngươi không ?
“Đao”. A Thất đáp:
“Ngươi chỉ có thể dụng đao”.
“Bởi vì Phó Hồng Tuyết dụng đao”. Câu nói đó tịnh không cần phải nói ra, trong tâm hai người đều hiểu rõ.
“Ngươi có biết ta dùng thứ đao gì để giết ngươi không ?” Thập hoang lão nhân lại hỏi.
- Loại đao gì ?
“Hai thước bảy tấc, rộng sáu phân”. Thập hoang lão nhân cười dáp:
“Trọng lượng không thể vượt quá mười bảy cân”.
A Thất tuy nhìn không thấy đao của Phó Hồng Tuyết, nhưng y đã từng đương đầu với đao của Phó Hồng Tuyết, cho nên y biết những thước tấc mà thập hoang lão nhân nói nhất định là kích thước và trọng lượng của thanh đao của Phó Hồng Tuyết, chỉ là không nghĩ ra lão nhân đó không ngờ đã mang thanh đao đó đến.
Cán đao đen sì, thân đao đen sì.
Cả thanh đao đều một màu đen sì.
Đen sì phảng phất như khung trời trong đêm mưa giá lạnh, lại lấp lánh một thứ ánh sáng quỷ dị khôn tả.
Hình dáng của đao lại phổ phổ thông thông, bình bình phàm phàm.
Thanh đao đó có phải là ma đao làm cho người ta run sợ ?
A Thất nhìn đao trong tay thập hoang lão nhân, biểu tình trên mặt in hằn nét tôn kính lẫn khủng bố.
Khủng bố là vì y biết hôm nay không thể không chết.
-- Trên thế gian có ai có thể chân chính không sợ chết ?
Tôn kính đương nhiên là vì thanh đao trong tay thập hoang lão nhân, bởi vì thanh đao đó tượng trưng cho Phó Hồng Tuyết.
Phó Hồng Tuyết mà y tôn kính.
Nghênh đón ánh mặt trời, lưỡi đao đen sì quỷ dị khôn tả đột nhiên lóe xuất một tia sáng chói ngời.
Một đao huy xuất, đao phong phá không.
Đao thanh còn chưa vang vọng, cổ A Thất đã rời khỏi thân y.
Thập hoang lão nhân từ tốn rút trong cái gùi trúc sau lưng ra một tấm lụa trắng, dịu dàng chùi sạch vết máu trên lưỡi đao, dịu dàng đến mức phảng phất giống như tổ phụ đang chùi miệng cho đứa cháu mình.
Đầu A Thất lăn long lóc trên hoang mạc nóng bỏng, mắt y không nhắm lại, cũng không có vẻ thống khổ, mắt y không ngờ lại như tươi cười nhìn thập hoang lão nhân.
Bởi vì trước khi y lâm tử đã biết một chuyện, y không nhìn thấy đao của Phó Hồng Tuyết, chỉ nghe thấy đao thanh, nhưng y lại đã nhìn thấy đao của thập hoang lão nhân, lại không nghe thấy đao thanh.
Một chỉ nghe thấy đao thanh, một chỉ nhìn thấy đao, thử hỏi có sai biệt gì không ?
Khi đầu A Thất rơi xuống đất, dàn phong linh treo dưới mái hiên của “Phong Linh” ốc ngoài thành Lạp Tát đột nhiên đã vang vọng leng keng.
Hết hồi 13.
Last edited by phamhau1986; 11-08-2008 at 02:14 PM.
Lý do: Hệ thống tự ghép bài chống spam
|