Trịnh Phúc chỉ Vũ Ðạt:
– Sư đệ nắm tay trái y thị giật mạnh. Y thị co tay lại, trong khi chân xoạc thành trung-bình tấn. Thế là sư đệ bị bay tung lên cao, rồi ngã sấp xuống.
Hầu cười:
– Ðây là chiêu Kình-ngư thăng thiên của phái Mê-linh, không có gì lạ cả.
– Sư đệ tung cước theo thế Tản-viên quyền pháp thứ 9, đá vào hông thị. Thị trầm người, dùng tay đẩy chân sư đệ, chân trái quét chân trái sư đệ.
- À, chiêu phản đòn chân của phái Tiêu-sơn. Có điều nội công cô cao nên cô thắng dễ dàng.
Rồi Trịnh Phúc trình bầy những chiêu Minh-Ðệ đấu với Vũ Ðức. Hầu đáp:
– Mấy chiêu này của phái Ðông-a chính tông đây. Muốn xử dụng những chiêu này, thì nội công phải cao thâm lắm.
Ðến đây mặt hầu trở thành đăm chiêu, chứ không cười nữa.
Trịnh Phúc diễn lại chiêu thức Minh-Ðệ đấu với y cùng đấu cả bọn khi loạn đả cho đến khi con trâu xông vào trận. Mặt hầu tái nhợt:
- À, đây là võ công phái Hoa-sơn bên Trung-quốc.
Cuối cùng y trình tiếp về hai viên tuần đinh đánh Minh-Ðệ bị văng côn lên cao. Mặt hầu càng nhợt nhạt:
– Phải chăng tiểu cô nương là đệ tử của Ưng-sơn song hiệp?
– Thưa cụ cháu đã nói, cháu chưa từng học võ, dĩ nhiên là chưa có sư phụ.
Hầu tần ngần một lúc, rồi vẫy tay cho Minh-Can:
– Minh-Can, con là gái, con ra lĩnh giáo mấy cao chiêu của Yến-Loan cô nương đi.
Từ nãy đến giờ, Minh-Can đã nhận ra Yến-Loan là chị mình. Y thị ngồi xem mọi biến chuyển mà trong lòng lo sợ Minh-Ðệ tố giác việc thị dùng võ đánh nàng hồi trước. Bây giờ được sư phụ gọi ra đấu với Minh-Ðệ, thị nghĩ:
Hồi xưa mình hơi ra tay là nó đau đớn khổ sở vô cùng. Năm gần đây, mình thấy người nó thon lại, da đẹp ra, rồi mình đánh, nó không biết đau. Sáu tháng trước, mình đánh nó, nó không đau, mà tay mình thấy ê ê, thì ra nó được cao nhân nào đó bí mật truyền thụ võ công. Bây giờ sư phụ sai mình đấu với nó, mình phải đánh cho nó tàn tật, để nó không luyện võ được nữa, hy vọng mới không bị nó báo thù.
Nghĩ vậy thị bái tổ, rồi phát một quyền đánh vào thái dương Minh-Ðệ. Minh-Ðệ nghĩ thầm: dù sao nó cũng là em mình, mình chẳng nên hại nó làm gì. Nếu nó có thế nào ắt bố mẹ đánh mình chết. Vì vậy nàng dùng thế phản đòn tay, ngửa chưởng phải lên bắt lấy quyền Minh-Can, rồi vặn tréo.
Minh-Can đau quá nghiêng người đi, nàng lên đầu gối trúng ngực y thị. Nhưng gối vừa chạm da thịt thị thì nàng ngừng lại. Minh-Can co chân phóng vào ngực Minh-Ðệ một hoành cước với tất cả sức lực. Minh-Ðệ không phản ứng kịp, binh một tiếng, người nàng chỉ hơi rung động, nhưng Minh-Can thì bị bay ngược trở lại ngã sóng xoài trên mặt đất. Thị uốn con người vọt lên như con cá chép, dùng hai tay đấm vào thái dương Minh-Ðệ theo thế Chung cổ tề minh. Minh-Ðệ chắp hai tay lại theo thức lên chùa lễ Phật, rồi gạt ngang, lập tức Minh-Can loạng choạng ngã ngửa người ra.
Vừa đau vừa thẹn, y thị rút trong bọc ra một con dao trủy thủ ngắn, rồi giả làm quyền đánh vào giữa ngực Minh-Ðệ. Khi tay y thị sắp tới ngực nàng, Minh-Ðệ mới khám phá ra. Nàng kinh hãi vội vung tay trái gạt mạnh. Thanh thủy thủ rời khởi tay Minh-Can bay lên cắm vào kèo nhà đến chát một cái, còn người thị thì bị trúng quyền đến bùng một tiếng, y thị ngã úp sấp xuống đất, không bò dậy được nữa.
Mặt Siêu-loại hầu tái mét. Ông nhảy đến vung tay tát vào mặt Minh-Can hai cái:
– Ðồ vô luân, dùng thủ đoạn đê hèn ám toán người.
Minh-Can ôm mặt đứng lui lại. Siêu-loại hầu nói với Minh-Ðệ:
– Tôi đã tìm ra môn hộ của cô nương rồi. Cô nương học với hai hay ba sư phụ một lúc. Cô nương học khí công thượng thừa âm nhu của phái Mê-linh, rồi lại được truyền Vô-ngã tướng Thiền-công. Cô nương còn được đả thông Kỳ-kinh bát mạch, luyện vòng Ðại-chu-thiên, Tiểu-chu-thiên của phái Ðông-a. Còn những chiêu ngoại công thì cô nương được học của ba phái là Ðông-a, Tiêu-sơn và Hoa-sơn, có đúng không?
Minh-Ðệ lắc đầu:
– Thưa cụ cháu chưa từng học võ.
Hầu gọi Trịnh Phúc, Vũ Ðức, Vũ Ðạt, đến trước mặt, rồi mắng:
– Ba đứa bay đã biết tội chưa?
– Thưa thầy chưa.
– Bay học võ để diệt bạo, trừ tà, cùng hộ quốc, chứ có phải học để đi gây sự đâu? Bay tới chùa, dùng võ tấn công người ngay trước bảo điện là một tội. Ðánh thua người rồi, còn về cáo gian rằng người ta ăn trộm trâu là hai tội. Cậy thế đem theo người đến bắt kẻ đã thắng mình là ba tội. Nay ta phạt mỗi đứa 20 côn cho chừa thói xấu.
Lập tức ba người bị nọc cổ ra đánh đủ mỗi người hai chục côn. Sau khi bị đòn, ba người ngồi dậy không được, đồng môn phải khiêng vào nhà trong rịt thuốc. Hầu vẫy tay gọi Minh-Can:
– Ta sai mi đấu với cô nương, để tìm hiểu môn hộ của người. Cô nương đây đã nhường nhịn, không muốn làm ngươi đau khổ, thế mà mi lại ám toán cô nương.
Ông vẫy tay cho đệ tử nọc Minh-Can xuống đánh hai mươi roi, rồi nói:
– Trịnh Phúc, Vũ Ðức, Vũ Ðạt, Minh-Can, mỗi đứa phải quỳ gối lạy cô nương đây mười lạy tạ tội.
Minh-Ðệ vẫy tay:
– Thưa cụ cháu không dám đâu.
– Nếu cô nương không để chúng lạy, thì cái thân già của lão phải lạy cô nương. Cô nương ơi, nếu cô nương không để cho trường Trung-nghĩa tạ tội, thì e rằng chỉ trong ba ngày Ưng-sơn song hiệp sẽ giết hết người trong trường này, cả đến con chó, con mèo cũng không sống sót.
Minh-Ðệ đành đứng cho bốn đứa lạy.
Năm trẻ đứng sau Minh-Ðệ, chúng khoái chí nhìn mấy đứa thì thụp lạy. Mỗi lần như vậy, chúng lại gật đầu, làm như chúng được lạy vậy.
Siêu-loại hầu thở dài nói với Minh-Ðệ:
– Cô nương đã muốn dấu thân phận thì thôi. Nhưng thưa cô nương, không biết cơ duyên nào mà cô nương lại được gặp Ưng-sơn song hiệp. Già này cũng không rõ cô nương đã làm gì cho hai vị đệ nhất danh nhân đương thời này vui lòng, rồi truyền thụ võ công cho cô nương, mà chính cô nương cũng không biết? Cô nương thử xét xem, nếu không phải Ưng-sơn song hiệp truyền thụ võ công cho cô nương, thì sao cô nương lại có bản lĩnh cao đến như thế? Kìa, xá đồ Trịnh Phúc luyện võ với lão đã trên mười năm, thế mà không chịu nổi hai chiêu của cô nương.
Ông nhìn thẳng vào mặt Minh-Ðệ:
– Cái vụ làng xử cô nương bị đánh côn, già này cũng bỏ qua, và kính cẩn mời cô nương trở về chùa Từ-quang. Nếu cô nương gặp lại sư phụ, xin nói dùm: già này có lời vấn an, và khấu đầu trăm lạy để tạ tội về vụ không quản chế học trò, thành ra chúng vô lễ với cô nương.
Ông nói với Ðoàn Quang-Minh:
– Người mau đem con trâu mộng ra biếu tiểu cô nương, để tạ tội cho các sư đệ.
Minh-Ðệ lắc đầu:
– Thưa cụ cháu không dám đâu. Cụ bán trâu thì cháu xin mua, chứ cụ cho thì cháu không dám nhận đâu.
– Thôi được. Bay đâu, lấy tám lạng bạc trả lại cô nương, rồi nhận nén bạc.
Minh-Ðệ cứu được con trâu thì mừng vô kể. Nàng cùng bà Ðinh rời đại sảnh, rồi cùng đám trẻ dắt trâu thư thả về chùa.
Minh-Ðệ với bà Ðinh về tới chùa, thì thấy trong sân người tụ họp khá đông. Nguyên sau khi bà Ðinh với Minh-Ðệ bị bắt đi rồi, thì những người làm công quả trong chùa vội thông báo cho thiện nam tín nữ. Họ kéo nhau lên chùa, để hỏi cho ra lẽ nguyên ủy sự việc. Vừa lúc đó thì đại sư Viên-Chiếu cùng chư đệ tử trở về. Nghe mỗi người nói một đằng, đại sư không hiểu cái gì đã xẩy ra. Ông định truyền cho đệ tử lên bảo điện nhập thiền, rồi ông sẽ cùng mấy đệ tử đến dinh Trung-nghĩa để hỏi thăm tin tức. Mọi việc vừa xong thì Minh-Ðệ cùng bà Ðinh với năm trẻ dắt trâu về trong dáng an nhàn.
Ðám Phật tử kinh ngạc hỏi:
– Sao, cụ Trung-nghĩa xử sao?
Bà Ðinh tường thuật chi tiết cho mọi người nghe. Ðám Phật tử chùa Từ-quang bàn tán không ít về Minh-Ðệ. Họ đều biết nàng tới chùa làm công quả lâu rồi, nhưng họ không biết rõ chân tướng nàng. Bây giờ nghe bà Ðinh kể, họ đều tin rằng nàng phải đi ở, và quê mãi trong Thanh-hóa.
Sư ông Thiện-Căn vẫy Minh-Ðệ:
– Sư phụ truyền cháu lên bảo điện gặp người.
Minh-Ðệ bước lên bảo điện, liếc mắt qua, nàng thấy đầy đủ tăng chúng trong chùa, cùng đông đảo Phật tử, tất cả đang nhập thiền. Nàng đảnh lễ với đại sư Viên-Chiếu, rồi quỳ gối chờ đợi.
Một lát sau Viên-Chiếu mở mắt ra, ông hỏi:
– Con hãy tường thuật chi tiết về vụ hai quý nhân đến cư ngụ trong chùa hơn tháng cho thầy nghe.
Minh-Ðệ thuật lại, không dấu diếm một điều gì, rồi nàng hỏi:
– Bạch thầy, ông bà này xưng là sư đệ của thầy, vậy ông bà tên thực là gì?
Viên-Chiếu lắc đầu:
– Ta không hề quen biết hai người này. Họ cũng chưa từng đến chùa Từ-quang bao giờ, thế mới lạ chứ. Ta độ chừng họ biết ta đi vắng, nên đến đây với một chủ tâm khác hơn là lễ Phật. Hà, không biết họ là ai?
Minh-Ðệ kinh hãi hỏi:
– Trời ơi. Không lẽ ông bà ấy đói quá, nói dối vậy để kiếm ăn?
Nói đến đây nàng biết không phải, vì ông bà cho nàng số vàng bạc, mà nếu dùng để ăn uống, thì nàng ăn cả đời cũng không hết.
Viên-Chiếu hỏi:
– Trong những ngày ở đây, ông bà ấy có lên bảo điện lục lọi gì không?
– Bạch thầy, thường vào lúc chuông thu không, ông bà đều lên bảo điện ngồi thiền cho đến khuya, có khi tới sáng. Những lúc đó, ông bà bảo con với bà Ðinh cứ đi ngủ, không phải ứng hầu.
Viên-Chiếu cau mặt lại, tỏ vẻ khó hiểu, lát sau nói:
– Cái người đánh xe cho ông bà ấy, con cho anh ta ở đâu?
– Bạch thầy sau khi đến chùa, thì anh ta đánh xe đi mất. Tới ngày ông bà lên đường, anh ta mới trở lại.
Nàng đem số vàng, bạc ông bà quý nhân tặng, trình cho Viên-Chiếu:
– Bạch thầy, lúc ra đi, ông bà có cho con ba nén vàng, mười nén bạc. Con đã mua con trâu mất hai lạng, còn lại con xin gửi trả chùa.
Viên-Chiếu vẫy tay:
– Ông bà ấy cho con, chứ không phải cúng dàng cho chùa. Con cầm lấy mà chi dùng.
Minh-Ðệ cung tay:
– Bạch thầy, duyên khởi của đám vàng bạc này là ở điểm ông bà ấy đến sống ở trong chùa hơn tháng. Con lại sống dưới hào quang Tam-bảo, vì vậy con xin cúng dàng Tam-bảo.
– Không, thầy không nhận đâu.
Nét mặt ông trở thành từ ái, nhìn Minh-Ðệ:
– Thôi, việc xong rồi, con có thể lui.
Minh-Ðệ hành lễ, rồi lui ra ngoài làm việc.
Viên-Chiếu gọi năm trẻ lại. Ông cật vấn chúng về những gì xẩy ra khi ông vắng chùa. Chúng nhất nhất thuật lại không thiếu chi tiết nào.
Minh-Ðệ hoang mang vô hạn. Nàng nghĩ thầm: rõ ràng hai ông bà ấy là người tử tế. Ông bà dạy nội công, dạy võ công cho nàng, rồi còn cho nàng vàng bạc quá nhiều, như vậy ông bà là người tốt, chứ đâu phải người xấu? Nhưng tại sao ông bà lại đánh lừa nàng?
Suốt đêm đó nàng trằn trọc không ngủ được, tự nghĩ:
– Vàng bạc trong người ta không phải do ta mà có. Vàng bạc này do ông bà ấy đến chùa, ở trong chùa, ăn uống của chùa rồi cho ta, tức là ông bà ấy cúng dường. Nhưng thầy không nhận, thôi thì ta đem bỏ vào trong phúc-sương, như vậy sau này các thầy mở thùng ra, thì cho là của thập phương.
Nghĩ là làm, nàng rón rén lên bảo điện, móc vàng bỏ vào phúc-sương. Nhưng miệng phúc-sương nhỏ quá, bỏ vào không lọt. Nàng nghĩ:
– Làm sao bây giờ? À hôm trước ta lau tượng ngài Quan-Thế-Âm, thấy tượng rỗng bên trong. Vậy ta gói tất cả lại, rồi bỏ vào bụng tượng, như vậy là êm đẹp.
Nàng khẽ vận sức cho tượng Quan-Thế-Âm nghiêng đi, rồi bỏ vàng, bạc vào đấy. Xong việc, nàng về phòng, rồi thiu thiu ngủ. Không biết nàng ngủ trong bao nhiêu lâu, bỗng nàng giật mình thức giấc vì có nhiều tiếng động, tiếng người nói, tiếng kim khí chạm nhau. Hé cửa nhìn ra sân, bất giác nàng giật mình, vì trong sân đầy binh lính, đèn đuốc sáng chưng. Một người lính đập cửa phòng nàng, miệng hô lớn:
– Mở cửa mau.
Minh-Ðệ vội mở cửa, một người lính la lớn:
– Trong phòng này có con gái.
Một người mặc quân phục đội trưởng chạy lại hỏi nàng:
– Cô ở trong phòng này à? Trong phòng còn ai nữa không?
– Thưa không.
Tất cả tăng chúng đều bị lùa vào một chỗ. Minh-Ðệ cũng bị lùa đến phía trước tăng chúng. Nàng đưa mắt nhìn: quanh chùa binh lính gươm đao sáng choang bao vây chùa cực kỳ nghiêm mật. Một viên quan nói với Viên-Chiếu:
– Thưa đại sư, bản chức là Phạm Anh, lĩnh Kinh-lược an-phủ sứ lộ Kinh-Bắc này. Vì có người cáo giác rằng trong chùa Từ-quang tăng chúng không giữ giới luật, nào là chứa phụ nữ làm điều trên bộc trong dâu, nào là làm chuyện đạo thiết, nào là ăn mặn; cho nên bản chức phải đem quân đến khám xét, điều tra thực hư. Ở đây bản chức có năm thư lại, cùng năm tốt trưởng sẽ đi khám khắp chùa. Xin sư trưởng cho năm vị tăng đi theo năm toán, để hướng dẫn họ làm việc.
Viên-Chiếu lên tiếng gọi:
– Viên-Căn, Viên-Mộc, Viên-Chi, Viên-Diệp, Viên-Hoa, các con hướng dẫn quan quân làm việc.
Ðó là năm tăng trẻ, khoảng 25-30 ra, theo năm toán.
Phạm Anh ra lệnh:
– Chúng ta có năm toán, mỗi toán phụ trách khám xét một khu, với sự chứng kiến của một vị tăng. Tuy nhiên nếu có gì phạm pháp trầm trọng, thì các người phải gọi ta để thỉnh hoà thượng trị sự trưởng cùng chứng kiến.
Năm toán chia nhiệm vụ làm việc. Một toán lên bảo điện; một toán khám các tăng phòng; một toán khám nhà bếp, kho chứa lúa, chuồng trâu; một toán khám ngoài vườn; một toán khám sân chùa.
Ðến đó, năm trẻ cắp sách vào chùa. Chúng lấm lét nhìn quan quân, nhưng không dám hỏi han.
Sân chùa tuy rộng, nhưng ngoài tượng Quan-Thế-Âm đứng trên đài, với những chậu cảnh ra, không có gì khác lạ. Khi khám đến dưới gốc dàn thiên lý, thì quân sĩ tìm thấy một ít lông gà, cùng lông chó. Viên thư lại nói với sư ông Viên-Hoa:
– Lông gà, lông chó này còn mới, như vậy chứng tỏ trong quý tự có người làm thịt chó, làm thịt gà. Xin đại sư cho biết ai đã làm chuyện đó?
Nhà sư Viên-Hoa lắc đầu:
– Lông gà, lông chó này dường như có người cố ý bỏ vào đây, chứ trong bản tự giới luật rất nghiêm, đời nào lại để cho người ta sát sinh trong khuôn viên này nhỉ?
– Ðại sư nói thế, thì tôi biết vậy. Nhưng đại sư ơi, tôi không có quyền gì cả, đợi quan trên phân xử. Tang chứng này tôi xin giữ.
Lý Ðoan chạy lại cầm đám lông gà, lông chó lên xem, rồi nó nói:
– Nhất định là có ai bỏ vào đây. Bởi từ mấy hôm nay trời không mưa. Nếu như lông gà do người trong chùa vứt ra thì phải khô rồi chứ? Có đâu ướt nhèm thế này? Nhất định là ai bỏ vào rồi.
Phạm Anh quát:
– Ranh con im mồm, lý của mi không vững.
Toán khám vườn đã tìm ra được bốn hố rác, trong đó chôn đầy lông gà, xương gà, lông xương chó, xương lợn, xương trâu. Họ đào lên, cho tất cả vào một cái túi. Viên thư lại chỉ huy toán này chế diễu sư Viên-Mộc:
– Tất cả có 5 cái xương sọ chó, thế thì ít ra trong quý tự đã giết đến năm con chó. Tôi tìm được mười tám cái mỏ gà, thế thì ít nhất quý tự đã giết mười tám con gà. Tôi lại tìm được trước sau mấy chục cái xương gối lợn, năm cái xương gối trâu. Hà, cái này tội nặng quá. Nam-mô thịt chó, Nam-mô thịt gà, Nam-mô-thịt trâu, Nam-mô thịt lợn. Tu với hành. Như vậy chùa này là chùa của Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng rồi.
An-phủ-sứ nghe đến tiếng Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng thì mặt tái xanh, y quát:
– Im cái mõm đi. Việc mình mình lo, đừng có nói bậy nói bạ mà chết cả nhà bây giờ!
Ðây là lần thứ nhì Minh-Ðệ nghe đến danh tự Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng. Không biết Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng là ai, mà từ Lý-trưởng cho đến An-vũ-sứ nghe đến tên mà đã kinh hoảng?
Nhà sư Viên-Mộc là người thực thà, ông nói:
– Chùa chúng tôi giữ giới rất nghiêm, nhất định có ai hại chúng tôi, đem những thứ dơ bẩn này chôn vào đây, rồi đi báo quan mà thôi. A-Di-Ðà Phật.
Viên thư lại cười nhạt:
– Chứng cớ rành rành ra thế này, mà đại sư còn biện luận ư?
Hai biến cố động trời như vậy xẩy ra, mà đại sư Viên-Chiếu vẫn thản nhiên, không nói không rằng. Một lát viên thư lại khám nhà bếp chạy ra trình:
– Trong bếp còn một nồi lớn rựa mận thịt chó, hai con gà luộc, ba cái đùi chó luộc.
Tang vật được để tất cả trước mặt Phạm Anh với đại sư Viên-Chiếu. Ðến đó viên quan khám tăng phòng cùng nhà sư Viên-Chi ra sân. Viên quan trình cho Phạm Anh những phạm vật:
– Bẩm An-phủ-sứ. Trong phòng của sư Viên-Căn có cái yếm dấu dưới gối. Phòng của sư Viên-Mộc có hai cái quần nái đen. Phòng của sư Viên-Chi có một cái áo cánh, một cái yếm, một cái quần lụa đen đàn bà. Phòng của Viên-Diệp có cái khăn vuông, cái áo tứ thân. Phòng của Viên-Hoa có hai chai rượu đã uống đở, với hai cái quần thâm. Ðặc biệt phía sau, có một phòng của con gái ở.
Y chỉ vào Minh-Ðệ:
– Có phải phòng kia của cô không?
– Vâng.
Minh-Ðệ nhìn đám quần áo tang vật, bất giác nàng rùng mình kinh hãi. Vì đó đều là quần áo của nàng hồi còn ở với bố mẹ. Khi nàng rời nhà ra đi, thì trên người chỉ mặc có cái áo cánh nâu, với cái quần nái đen. Tất cả quần áo đều còn để ở nhà nàng, mà sao bây giờ lại ở trong phòng mấy vị sư kia?
Lát sau, sư Viên-Căn với viên quan khám bảo điện đi ra. Viên quan cung tay nói:
– Trình với An-vũ-sứ, trên bảo điện thì không có gì, nhưng dưới đế tượng Quan-Thế-Âm thì có ba nén vàng, tổng cộng 30 lạng; chín nén bạc, mỗi nén 10 lạng, thêm tám lạng lẻ, như vậy cộng chung thành 97 lạng bạc. Bẩy lạng bạc lẻ là bạc Ðại-Việt, còn lại vàng, bạc đều là vàng bạc của Tống.
Kinh-lược-sứ hất hàm ra lệnh:
– Phong tỏa chùa, niêm phong tài sản, sau đó giao cho hàng xã trông coi. Còn vàng, bạc, tang vật đem về về dinh của ta để điều tra thêm. Tất cả tăng trong chùa đều đóng gông. Riêng đứa con gái này thì chỉ trói lại giải đi mà thôi.
Các sư cùng Minh-Ðệ đều biện luận, nhưng đại sư Viên-Chiếu phất tay:
– Khi nghiệp quả đã đến, thì phải thản nhiên đón nhận, đừng có cưỡng. Nếu cưỡng chống, thì nó sẽ đeo bên mình mà đòi nữa.
Ông thản nhiên để cho lính đóng gông, cùng chư đệ tử ra khỏi chùa. Dân làng đứng chen nhau ngoài cổng, kẻ khóc kêu oan, người niệm Phật. Năm đứa trẻ khóc rống lên. Chúng chửi đổng:
– Ðịt mẹ... đứa nào hại các thầy.
Trong đám dân chúng, Minh-Ðệ thấy có cả bọn Phúc, Ðức, Ðạt, cùng Minh-Can, chúng cười cười, nói nói nét mặt hân hoan không thể tưởng tượng được. Ðoàn quân giải đại sư Viên-Chiếu cùng năm đệ tử, mười đồ tôn, với Minh-Ðệ đi hết buổi hôm đó mới đến dinh kinh-lược-sứ. Minh-Ðệ bị tống giam chung với ba người đàn bà khác. Nàng không bị đóng gông. Vì đi đường xa mệt mỏi, nàng nằm lăn ra ngủ, không để ý đến ba người đàn bà bị giam cùng. Trong giấc ngủ, tiềm thức làm việc, nàng vẫn luyện nội công.
Chiều hôm đó Minh-Ðệ thức giấc, nàng để ý đến ba người đàn bà. Một người tuổi khoảng năm mươi, bà này ngồi thu hình trong góc không nói gì. Người thứ hai là một trung niên thiếu phụ, bà ta nằm ngửa mặt lên trời, mắt mở thao láo. Người thứ tư là một thiếu nữ tuổi khoảng mười hai, mười ba, khá xinh đẹp. Cô ngồi ôm gối không nói không rằng. Thấy Minh-Ðệ thức giấc, cô hỏi:
– Này bà chị mới vào. Bà chị tên gì, tại sao bị tù vậy?
– Tôi tên Yến-Loan, tôi không hiểu tại sao mà bị tù. Có lẽ kiếp trước tôi làm tội, nên kiếp ngày phải trả. Tên em là gì?
– Em họ Chu, tên là Thúy-Phượng, năm nay mới mười ba tuổi. Nhà em nghèo, nên bố mẹ bán em cho nhà giầu làm con ở. Sau chủ bán em cho người khách phú thương làm lẽ. Em trốn đi. Chủ trình quan, quan bắt được, giam em ở đây, rồi sẽ trả về cho chủ.
Thúy-Phượng chỉ vào người đàn bà ngồi thu hình:
– Vì em trốn đi, nên mẹ em cũng bị bắt vào đây. Không biết rồi sẽ ra sao? Mẹ em tên Thúy-Hoàng.
Nó chỉ vào thiếu phụ trung niên:
– Bà kia tên là Phạm Thị-Nương, cũng nhà nghèo, có con gái bán cho người ta. Nhưng được hai năm, con gái trốn đi mất, chủ đem đơn kiện lên quan, nên quan bắt bà bồi thường. Bà không có tiền, nên bị bắt giam.
Minh-Ðệ tường thuật qua biến cố của chùa Từ-quang cho mẹ con Thúy-Phượng với bà Nương nghe. Bà Thúy-Hoàng tỏ vẻ thương hại Minh-Ðệ:
– Ta nói cho cháu biết. Trong trấn này thì Kinh-lược-sứ phu nhân là người nắm quyền chứ không phải chồng bà. Bà là cháu gọi Thượng-Dương hoàng hậu bằng cô ruột. Kinh-lược-sứ trước kia chỉ là một đô thống xuất thân. Từ sau khi hết hôn với bà, thì công danh lên như diều. Ông được thăng lên làm Vũ-kị đại tướng quân, chỉ huy hai đạo quân Thiên-tử binh. Năm sau chẳng công trạng gì, lại được cất nhắc lên làm Kinh-lược an-phủ-sứ. Còn quan coi về án ở đây gọi là đề điểm hình ngực có tên là Hoàng Khắc-Dụng, ông xuất thân từ quan văn, tính tình cương trực. Hai hình quan cũng là người ngay thẳng tên Tô Sơn-Lâm, Vương Ðình-Thụ. Nếu cháu có phạm tội, thì phải khai thực, để ông ấy xử nhẹ cho.
– Cháu có nghe rằng mỗi án đều do vua xử kia mà?
– Cháu chưa hiểu gì về tổ chức tư pháp cả. Trước tiên những việc nhỏ, tội nhẹ thì do hương lý xử. Nếu phạm nhân kháng án, thì đưa lên châu-quận xử. Còn những tội nặng thì do quan Ðề-điểm hình ngục cùng với hai hình-quan xử. Xử xong, tư lên quan Kinh-lược an-phủ-sứ duyệt xét. Quan Kinh-lược có quyền giảm án, hay tăng án. Nếu giữa quan Ðề-điểm hình ngục với quan Kinh-lược an-phủ-sứ bất đồng ý kiến thì sẽ đưa về bộ hình phúc thẩm. Tuy nhiên đương kim Hoàng-thượng là người nhân từ, nên ngài định rằng tất cả các án tử hình đều phải để chính ngài xử.
Chuyện vừa hết, thì cai ngục gọi:
– Yến-Loan đâu, lên hầu quan.
Minh-Ðệ vội vàng đứng dậy theo cai ngục lên công đường. Tại công đường, một viên quan ngồi trên cái sập, sau cái án thư. Nàng biết đó là viên Ðề điểm hình ngục Hoàng Khắc-Dụng. Hai bên viên Ðề điểm hình ngục là hai viên hình quan Tô Sơn-Lâm, Vương Ðình-Thụ chuyên hỏi cung và hơn mười người lính đứng hầu, mỗi người cầm một hình cụ, đó là hình-binh, chuyên việc tra khảo phạm nhân. Nàng từng nghe nói, những viên quan, binh này gan bằng sắt, tim bằng gỗ lim, tra khảo người không nương tay.
Hình quan Tô Sơn-Lâm hô:
– Yến-Loan quỳ xuống.
Minh-Ðệ quỳ gối.
Hình quan Vương Ðình-Thụ hỏi:
– Con kia, họ tên là gì? Quê quán ở đâu? Bố mẹ là ai, năm nay bao nhiêu tuổi?
Minh-Ðệ đã có chủ tâm, nàng khai láo như đã khai ở chùa:
– Bẩm con mồ côi từ nhỏ, không biết bố, mẹ là ai. Con ở với dì. Dì con chết rồi, thì người ta bắt con bán cho nhà giầu. Nhân chủ nhân ác độc đánh đập tàn nhẫn, con trốn đi, được sư cụ chùa Từ-quang thương tình, cho con tá túc, làm công quả.
– Thế mi đến chùa từ bao giờ?
– Bẩm tháng hai vừa rồi, đến nay là 6 tháng.
– Trong khi ở chùa, mi đã ăn nằm với bao nhiêu nhà sư?
– Bẩm con còn là trinh nữ. Con ở chùa làm công quả. Các thầy thương con là trẻ mồ côi, coi con như đệ tử, có đâu làm chuyện trên bộc trong dâu.
– Những quần áo trong phòng các nhà sư đều một khổ người với mi. Phải chăng đó là quần áo của mi?
– Bẩm vâng. Quả là quần áo của con.
Viên Ðề điểm hình ngục Hoàng-khắc-Dụng đập tay xuống sập:
– Nói láo. Mi bảo mi không ăn nằm với sư. Thế sao quần áo của mi lại để rải rác ở phòng năm nhà sư?
– Con cũng không biết tại sao nữa.
– Khảo.
Hai tên quân nọc cổ Minh-Ðệ nằm xuống nền nhà, rồi dùng roi mây quất túi bụi. Minh-Ðệ vội vận công chống đau. Vì vậy roi đánh xuống, mà nàng không cảm thấy đau đớn gì. Nàng nằm yên cho tên quân đánh. Sau khi tên quân đánh đủ 20 roi, mà nàng không dãy dụa, cũng chẳng kêu khóc.