Thương Hải (Phượng Ca) - Tập 2
Chương 12 - Lục triều kim phấn
Thiên 2
Dịch giả: StormRaider
Nguồn: Tàng thư viện
Thích Kế Quang nghiêm mặt nói:
- Vạn lần không thể, Thích gia của ta từ khi khai quốc đến nay là một trong sáu đại tướng môn, nhiều đời chịu quốc ân, sống là minh thần chết là minh quỷ, hơn nữa đích thực đã ra quân bại trận, có bị Hồ đại nhân chém đầu cũng xứng đáng. Việc vượt ngục đào tẩu không được nhắc đến nữa, nếu không hai người chúng ta sẽ ân đoạn nghĩa tuyệt, vi huynh nhất định sẽ không nhận nghĩa đệ nhà ngươi nữa.
Lục Tiệm nghe y quyết liệt như vậy bất giác ách khẩu, trong lòng biết rõ kiếp nhân kiếp ngục là như thế nào, nhưng lại không thể nói gì, trong lúc khẩn cấp lại nghĩ nếu Cốc Chẩn có ở đây tất nhiên sẽ nghĩ ra được biện pháp nhất cử lưỡng đắc, chỉ là không biết giờ này hắn đã ở đâu rồi, nhớ tới ngày hôm đó chỉ vì lời nói của Doanh Vạn Thành, chưa minh bạch sự tình đã bỏ Cốc Chẩn mà đi, giờ đây ngoài hối hận còn thực sự rất đau lòng.
Đoàn người cứ thế đi, không biết đã qua bao ngày nhưng cũng gần tới được Nam Kinh. Ngày hôm đó đột nhiên thấy phía trước xuất hiện một tòa lương đình, bên cạnh đình là một quán trà đón khách đường xa. Chúng nhân đúng lúc đang khát nước thì lại gặp quán trà, tức thì nhốn nháo reo lên, tiến vội về phía đình, gọi lấy trà uống.
Thích Kế Quang tay chân bị trói, hành động không được tự nhiên, Lục Tiệm liền cầm hai ấm trà tới, một ấm đưa cho y, một ấm tự mình uống. Trong lúc uống trà đột nhiên nghe có tiếng xe ngựa, nhìn ra thì thấy một cỗ xe song mã đang tiến tới, trên xe là một văn sĩ áo xanh, mặt vuông dài, thiên đình nở rộng, môi đỏ râu đen, có vẻ như người chuyên nghề vẽ.
Lục Tiệm trong tâm chợt động, cảm giác như đã gặp người này ở đâu đó, nghĩ lại quả nhiên nhớ ra được, chính là nam nhân đứng bên phải chiếc ghế trong họa tượng tổ sư, bất quá người trong họa tượng trên mặt có vết sẹo, thần thái phi thường, anh hùng hơn văn sĩ này nhiều. Dong xe là một nam tử vấn khăn, áo tơi giày cỏ, ngoài ra còn có một lão già đi bộ theo. Lão già này đầu to cổ nhỏ, trán đầy nếp nhăn, mình mặc nho sam nhưng phía trên vắt chéo, phía dưới cắt ngắn như đoản y, trông chẳng ra chủ hay tớ, khó mà hiểu được.
Lục Tiệm nhìn thấy hai người này bỗng có cảm giác bất an, hận không thể chạy ngay khỏi nơi này, trong lúc đang cố gắng đè nén cảm giác quái dị đó thì ba người kia đã tiến đến gần. Thanh y văn sĩ tuy tuấn tú nhưng niên kỷ không nhỏ, khóe mắt đã có nhiều nếp nhăn, ngồi trên xe, chỗ đáng lẽ là hai chân y thì chỉ thấy trường sam bay bay theo nhịp xe. Lục Tiệm thấy vậy, trong lúc đang cảm khái “người này là một thư sinh tốt, không ngờ lại là một phế nhân” chợt nghe tiếng động, nhìn ra thì thấy lão già đầu to đó hai môi máy động, đang nói gì đó, chỉ có người mặc áo tơi là thủy chung giấu mặt sau mũ tre, không nhìn được diện mục.
Thanh y văn sĩ đến giữa đình, thở phào nhẹ nhõm nói:
- Vị Quy, lấy cho ta một chén trà.
Người áo tơi liền từ sau xe lấy ra một chiếc chén nhỏ, bên ngoài vừa mỏng vừa trắng, sáng như ngọc, bên trong chén màu xanh phỉ thúy như nước chè, màu trắng thì yên tịnh, màu xanh thì thanh tân, vừa nhìn đã khiến cảm giác nóng bức tan biến mất. Văn sĩ tiếp lấy trà, vui vẻ cười một tiếng nói:
- Nếu có Bích Loa xuân mới hái thì tốt quá. Hiện giờ qua mùa lạnh đã lâu, dư hương mất đi, tư vị không được như cũ.
Lão già đầu to đột nhiên nói:
- Bích Loa xuân được xưng là Động Đình sơn trà. Trong Trà kinh của Lục Vũ đời Đường nói về tám loại trà đã viết: “Tô châu Trường châu sinh Động Đình sơn”. Cư Cận nhân Tùy Kiến Lục cũng viết “Động Đình sơn có trà, nhìn giống như giới trà nhưng nhỏ hơn, vị đậm, có hương thơm, tục gọi là “hách sát nhân”, trồng trên núi Bích Loa nên gọi là Bích Loa xuân …
Thanh y văn sĩ không chờ y nói xong đã quát lên:
- Nói lăng nhăng. Ta bất quá tùy khẩu nói về trà vị chứ đâu có hỏi về lai lịch trà.
Lão già đầu to nói:
- Đại quan trà luận của Tống Huy Tông có nói “Trà thì vị là quan trọng nhất. Mùi thơm có thể không đậm, chỉ cần có vị là đủ toàn diện. Chỉ có sản phẩm của Bắc Uyển là … "
Văn sĩ đó mặt hiện thần sắc khó chịu, lạnh nhạt nói:
- Ta nói về trà vị không phải nói về vị (uống) mà là về hương vị.
Lão già đầu to nói:
- Cũng theo Đại quan trà luận: "Trà có mùi hương riêng, không phải long xạ thì không so bì được. Phải chưng cất nghìn lần, đồng thời phải có dụng cụ uống đẹp đi cùng.” Chu Quyền của bản triều cũng có quyển Trà phổ, viết về “Huân hương trà pháp”: "trăm hoa có hương đều có thể dùng. Đang lúc hoa nở rộ thì dùng giấy bao bọc, trên đặt trà dưới đặt hoa, để vào chỗ kín gió, hoa héo thì thay hoa khác. Như vậy khi uống trà tự nhiên có hương khí khả ái …"
Văn sĩ biết rằng bất kể y phát hạ thế nào cũng không ra khỏi được đống trà kinh ngàn năm của Trung Hoa, bất giác cười khổ nói:
- Mạc Ất, ngươi im đi. Nếu ta không hỏi thì cấm không được nói một tiếng.
Lão già đầu to tức giận im tiếng, nam nhân áo tơi đột nhiên đặt bình trà xuống, quay người bỏ đi, chỉ một bước đã ra ngoài hai trượng, một bước nữa lại vượt thêm bốn trượng, lúc đầu còn có dáng đi bộ, nháy mắt đã chuyển sang tư thế chạy, nhân ảnh hóa thành một điểm lưu quang chớp mắt đã biến mất.
Người trong quán trà thấy thế sợ hãi, tưởng như đang nằm mộng. Lục Tiệm thất kinh, trong lòng tự nghĩ dù trước đây có Bắc Lạp Sư Môn hỗ trợ cũng không thể nào có được cước lực như y. Người này mới động thân đã như vậy, đến khi viễn phi bôn bào thì thật khó có thể hình dung, chắc chắn nhanh không kém gì chim bay trên trời. Thanh y văn sĩ bất giác lắc đầu thở dài, liếc Thích Kế Quang một cái, đột nhiên cười nói:
- Tướng quân trông rất uy vũ, không hiểu sao lại bị khóa lại như vậy, là phạm quân pháp hay tham ô …
Mạc Ất không nhịn được, chen vào nói:
- Về quân pháp, trong “Chu lễ" của Tảo Kiến Vu, quyển thứ tư "Ti mã" , phần “Ti mã pháp” viết …
Thanh y văn sĩ nhíu mày nói:
- Ai hỏi đến ngươi ?
Mạc Ất lúng túng, hổ thẹn cúi đầu. Thích Kế Quang cười cười nói:
- Ta đâu dám tham ô. Thích mỗ truy khấu bất thành, bại trong tay Oa khấu, coi như phạm quân pháp.
Thanh y văn sĩ cười nói:
- Binh pháp có nói, cùng khấu vật bách (giặc cùng đường chớ đuổi) …
Mạc Ất vội nói tiếp:
- Câu này là từ Tôn Tử binh pháp, phần Quân tranh thiên. Tôn Tử viết: phàm là phép dụng binh …
Nói đang say sưa, đột nhiên nghe thanh y văn sĩ ho khan to một tiếng, thất kinh vội khép miệng lại.
Thích Kế Quang xua tay nói:
- Thích mỗ không phải gặp cùng khấu mà là bọn tặc khấu tinh nhuệ. Trong số tướng lĩnh không có ai chịu xuất binh nghênh chiến, chỉ cố gắng cố thủ kiên thành, ngồi xem giặc hoành hành. Thích mỗ tuổi ít khí thịnh, xuất sư truy kích, không ngờ bị trúng mai phục, thủ hạ binh tốt yếu nhược, bị Oa tặc phá tan, thật là xấu hổ.
Thanh y văn sĩ hơi trầm mặc, thở dài nói:
- Có câu “duệ tốt vật công, nhị binh vật thực” (gặp quân tinh nhuệ thì đừng tấn công, gặp quân đánh nhử thì đừng đuổi theo), ông phạm phải hai điều đại kị của binh gia, bảo sao không bại.
Thích Kế Quang bình sinh thích võ, ít nói đến binh pháp, lần này ra ngoài lại gặp một thư sinh lắm chuyện, buông lời nghị luận binh pháp, bất giác cười dài nói:
- Tiên sinh không lời nào không nói tới Tôn Tử binh pháp, e rằng không biết Tôn Tử binh pháp tuy có mười ba chương, từ ngữ tuy nhiều nhưng chân chính đắc dụng bất quá chỉ có một câu.
Văn sĩ nén không được, cười phá lên nói:
- Như tướng quân nói thì trừ một câu đó, còn lại binh pháp cái thế của Tôn Vũ toàn là lời thừa à ?
- Thích mỗ sao dám nhục mạ tiên hiền – Thích Kế Quang thở dài nói – bất quá Tôn Tử binh pháp viết ra không phải cho chính mình mà dành cho đám vương hầu tướng quân tầm thường. Thực ra ông ta thiên phận dụng binh cực cao, chỉ là con ông ta sợ rằng người khác đọc không hiểu, nên lúc viết lại ngôn từ đã cố gắng viết chi tiết tinh tường. Lúc hành quân bố trận phải dựa vào từng cá nhân mà tính toán mới có thể không gặp thất bại, nếu như câu nệ từng chữ thì đâu phải thường thắng bất bại chi pháp. Tự cổ thường thắng bất bại chi tướng đều là những người nghĩ những điều người khác không nghĩ tới, làm những điều người khác không làm, có như vậy mới đánh là thắng, thắng không nhờ may mắn. Kẻ câu nệ binh pháp sẽ chết vì ngôn từ mà thôi.
Văn sĩ cười nói:
- Nói hay lắm, nhưng chưa biết câu duy nhất trong binh pháp của ngài là gì ?
Thích Kế Quang cười nhẹ, cao giọng nói:
- “Năng nhân địch biến hóa nhi thủ thắng giả, vi chi thần” (dựa vào biến hóa của quân địch để thủ thắng mới là thần).
Văn sĩ chưa kịp đáp lại, Mạc Ất đã tiếp lời:
- Đó là câu thứ hai trong đệ lục thiên “Hư thật thiên” của Tôn Tử binh pháp.
- Trí nhớ các hạ tốt thật – Thích Kế Quang thở dài nói – khi lâm trận quyết chiến, sinh tử chỉ cách nhau một đường, thống lĩnh quân sĩ không có nhiều thời gian để nghĩ về binh pháp, chỉ có cách dựa vào hư thực để tùy nghi ứng biến. Thích mỗ đọc binh thư không biết bao nhiêu, nhưng chân chính nhớ kỹ chỉ có câu đó mà thôi.
- “Năng nhân địch biến hóa nhi thủ thắng giả, vi chi thần”, câu này hay lắm – văn sĩ cười to nói – nếu ngài không phải là bại quân chi tướng thì lời này thật động lòng người.
Thích Kế Quang không kìm được cười khổ. Văn sĩ đó cười xong hỏi:
- Thế nào, ngài không hài lòng sao ? Nghe ngài nói rõ ràng am hiểu binh pháp, vì sao không liệu được mai phục ? đã biết không địch lại được kẻ địch sao còn truy đuổi để tự chuốc nhục vào người ?
Last edited by kedatinh1974; 05-09-2008 at 03:43 PM.
|