Đi Tìm Bài Thơ Cổ
Tác giả: Hữu Phong
Hồi 3: Câu trả lời của Thường Kiệt. (p1)
Nghe “keng” một thanh âm chát chói, thanh gươm trong tay cô gái chấn động mạnh, cong lại và đâm vào khoảng không, tiếp đó một thân ảnh màu xanh phóng đến, tung ra những dòn cước liên hoàn tấn công cô gái, khiến cô liên tiếp né tránh trong thế không thể phản công, chẳng có thời giờ để nhìn rõ người kia già hay trẻ, nam hay nữ huống hồ phán đoán chiêu thức của họ thuộc tông phái nào.
Càng lúc cô gái càng ở thế bất lợi, khoảng ba mười chiêu, người áo xanh cúi thấp người chân phải công vào song cước của đối thủ, cô gái nhảy lên, mừng thầm vì thời cơ đã đến, thanh gươm trong tay cô chém xuống với thế chẻ tre, chẳng chút khoan nhượng. Người áo xanh mỉm cười, thanh gươm vừa đến gần, anh ta nghiêng đầu, thân pháp mau lẹ cả người anh cong thành cánh cung, lạng một cái đã đứng lên, mặt đã gần chạm đến má phải của giai nhân.
Cô gái hơi bối rối thì thanh gươm của cô đã bị hai tay đối phương chế ngự, biết mình bị trúng kế thì đã quá muộn, vũ khí liền bị tước đoạt. Người áo xanh không thừa thế đả phương đối thủ, anh ta cho đối phương một cơ hội biết khó để lui, cô gái tức điên người nhưng cảm thấy mình đã nhận ân huệ. Trong lúc đó vị tu sĩ đã đánh lui lão già bên kia, ông ta dù cố gắn dụng công đến đâu, tất cả các chiêu thức đều bị bộ áo rộng của nhà sư kiềm chế. Nếu đánh cả ngày kết quả cũng chỉ có tệ hơn mà thôi.
“Mô Phật! Hai vị cư sĩ đi thong thả, hãy yên tâm giao cậu bé họ Đinh cho bần tăng, nhân duyên đã dẫn dắt cậu bé đến đây, các vị đừng nên nhọc lòng làm chi nữa!” Nhà sư buông lời khiêm cung, hai người kia không nói gì, lẳng lặng bỏ đi.
Người mặc áo xanh mới đến là một thanh niên tuổi đôi mươi, nhìn thoáng qua thì không phải là công tử con nhà quyền quý, nhưng nét mặt anh ta mang thần sắc uy dũng và trang nghiêm, nước da ngăm đen cùng thân người vạm vỡ săn chắc như tự công khai anh là một cao thủ ngoại công rồi.
“Sư phụ! Thầy bao năm qua sống yên ổn không chen với đời, không hiểu sao lại có người đến sinh sự, việc này phải chăng có liên quan đến thằng bé hôm qua!” Thanh niên cất lời, ngữ khí hòa hảo như các vị sư thuần hành.
“Mô Phật! Tường Minh! Con đoán đúng rồi, thằng bé đó có thân phận thật đặc biệt, nửa tháng trước ta có ghé thăm sư Chân Thịnh ở chùa Quốc Oai, vô tình có nghe câu chuyện của thằng bé, nó mới mười hai tuổi thôi phải nhận lãnh tội chết … Mô Phật!” Nhà sư cất tiếng niệm Phật rồi nói tiếp: “Trong lúc cấp bách bọn thuộc hạ của cha nó đã đến tương cứu, chắc trong số đó có hai người vừa rồi.”
“Ghê gớm vậy sao! Thân phận nó quá không hề tầm thường!” Thanh niên thoảng thốt, nhà gật gù nói tiếp: “Mô Phật! Chưa hết đâu, trước khi đưa ra pháp trường có đến ba nhóm người đến tấn công cướp ngục, mục tiêu của họ chính là thằng bé họ Đinh này, ta được sư Chân Thịnh cho hay, bọn giang hồ tin rằng, thằng bé chính là manh mối quan trọng để họ tìm kiếm một món đồ … đó là một bài thơ cổ!”
“Một bài thơ? Kỳ lạ! Bọn giang hồ đa số thường thô lỗ cộc cằn, đâu phải nho sĩ yêu văn yêu thơ gì đâu chứ!” Tường Minh khó hiểu trong lòng, buột miệng nói, nhà sư vẫn giữ nét điềm tĩnh cất lời: “Mô Phật! Nghe thì có vẻ kỳ lạ thật, nhưng chuyện một bài thơ bị tranh giành đã từng xảy ra trong quá khứ. Vào thời loạn mười hai xứ quân, đã có rất nhiều người nhảy vào nhưng cuộc tranh đoạt này. Người ta đồn thổi đủ thứ chuyện nào là bài thơ là bí kiếp võ công thượng thừa thất truyền đã lâu, có người cho rằng nó là một bản đồ kho báu … Nhưng nội dung bài thơ ra sao, nó chứa bí ẩn gì thì không ai hay biết … Sau khi Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn mười hai xứ quân, dẹp luôn những cuộc náo loạn trong giang hồ. Nhiều người tin rằng ông ấy đã có được bí kiếp lợi hại từ bài thơ nên không ai địch lại, người khác thì cho rằng họ Đinh có được kho báu nên có tài lực để củng cố quân đội, dẫn đến đánh đâu thắng đó.”
“Sự thật là như thế nào! Thằng bé họ Đinh này có liên quan gì đâu …” Nói đến đây Tường Minh dừng lại, nét mặt thay đổi, anh ta ngập ngừng nói tiếp: “Chẳng lẽ thằng bé họ Đinh này chính là con cháu của Đinh Tiên Hoàng?”
“Mô Phật! Theo mấu chốt nhiều vấn đề, rất có thể đây là sự thật, nhưng thằng bé có biết bài thơ hay không, thì việc này không dám chắc. Có một điều chắc chắn là thằng bé đang bị nguy hiểm, lúc đầu thầy định giữ nó ở lại chùa, nhưng giờ đã bị bọn người kia phát hiện, chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến chốn thanh tu của hàng trăm tăng sĩ, võ công con dạo này tiến triển vượt bậc, ta hoàn toàn tin tưởng để giao thằng bé cho con. Bao lâu này con vẫn muốn tìm kiếm cha mình phải không? Sẵn dịp này hãy đi đến Nam Sơn, vùng đất gần giáp ranh với người Chiêm Thành, có một người có thể biết tông tích của cha con, đó là họ Trần, ông ta là em rễ của cha thân sinh con đấy. Hãy nhớ những điều này, cha con là Phan Tường Thanh, em rể ông ấy tên là Trần Lâm, làm nghề thợ rèn, là một thợ rèn giỏi nhất Đại Cồ Việt, Con hãy nhớ lấy mười sáu chữ này. “Mồng tám tháng giêng, trên sông Lục Đầu, kết nghĩa kim lang, thề cùng sống chết!” Hãy nhớ lấy những lời đó, chỉ cần nói ra ông ấy sẽ biết con là huệ duệ của cố nhân.”
“Dạ! Con ghi nhớ rồi, thưa sư phụ!” Tường Minh tuân lời, sư thầy lấy trong bọc áo ra một lọ thuốc trao cho thanh niên họ Phan và nói: “Đây là thuốc bổ tâm, con hãy đều đặn cho thằng bé họ Đinh uống mỗi ngày, tuyệt đối đừng để nó luyện công, nếu không hậu quả khó lường.”
Phan Tường Minh đáp dạ rồi cáo biệt, chẳng tỏ ra buồn bã khi phải xa người thầy bao năm dung dưỡng ân nghĩa, vị tu sĩ mỉm cười hài lòng, giáo lý nhà Phật xem sinh ly tử biệt là chuyện thường của kiếp người không nên chấp vào đó mà phiền não, Tường Minh bao năm thiền hành đã thấu đáo được việc này, anh cho rằng làm tốt việc thầy giao là cách tỏ lòng biết ơn đối với người thầy của mình.
***********************
Cánh đồng hoa lan rừng như những đoàn quân kỷ luật nhất quán, bảo ban nhau xếp hàng ngay ngắn trải dài đến tận cuối đường chân trời xa thăm thẳm. Gió thu hiền hòa thổi mát vào lòng nhân thế, mơn man diều dắt tân hồn người thi sĩ. Nơi trời đất giao thoa, ánh nắng sớm chiếu rọi chan hòa.
Trên đỉnh đồi thấp thoáng bóng dáng hai con người, một già một trẻ. Người mặc áo rộng màu xanh lam tuổi chừng bốn mươi, bốn mốt. Ông có khuôn mặt chữ điền, ngũ quan sáng rỡ cùng với nét chấm phá uy võ của bộ râu dày, khiến người đối diện không khỏi sinh lòng ngưỡng mộ. Đứng cạnh là thiếu niên mặc áo da hổ chừng mười một, mười hai tuổi. Cậu bé tùy còn quá trẻ nhưng những nét thanh tú, hoa mỹ đã hiện rõ nét, hứa hẹn tương lai sẽ trở thành một mỹ nam tử có một không hai.
“Thu đến mang theo làn gió mát.
Hòa với rừng lan hương thơm ngát.
Giang sơn gấm vóc đẹp tuyệt vời!
Kẻ sĩ thấy thu, thu đang hát.”
Những câu thơ chứa đầy phong vị, được ngâm bằng tất cả trách nhiệm của một thi nhân yêu thơ, yêu cảnh, yêu vật. Người trung tuổi quay sang thiếu niên cất tiếng nói diệu nhẹ, trầm ấm: “Thường Kiệt! Con có thấy không, đất nước của chúng ta xinh đẹp biết mấy! Con có yêu nước nhà ?”
Thiếu niên thoáng suy nghĩ trên nét mặt, một hồi lâu môi mấp máy nhưng vẫn chưa nói. Người trung tuổi mỉm cười, kiên nhẫn chờ đợi câu trả lời của cậu bé.
“Câu hỏi của cha khó trả lời đến như vậy sao?” Người đàn ông hiền hòa nói. Cậu bé vẫn suy tư, chưa trả lời.
Giây phút im lặng, tiếp tục kéo dài, lúc đó dưới ngọn đồi thấp thoáng bóng dáng cô thôn nữ đang vui tươi gánh trên vai hai bó lúa. Cô ta vừa đi và bắt đầu cất tiếng hát. Giọng hát thanh tao, giản dị, ngân vang hòa trong lòng gió mát, lời ca mộc mạc, gần gũi với nhà nông chân lấm tay bùn. Người đàn ông bất giác không cầm lòng được buột miệng rêu lên “hát hay quá!”
Bài sơn ca dần trở nên nhỏ tiếng cho đến khi dứt hẳn thì hình bóng cô thôn nữ đã nhạt nhòa, nam nhân lại quay sang cậu con trai và nói: “Con có yêu những con người vất vả ngược xuôi, có yêu đồng bào ta?”
Cậu bé lại suy nghĩ miên man, người đàn ông vẫn kiên nhẫn đợi cậu trả lời.
Thời khắc trôi qua, cuối cùng câu ta cất tiếng nói: “Hai câu hỏi của cha thật sự trong đời này chẳng còn câu nào khó hơn, con tự cảm thấy mình không đủ khả năng để trả lời, cho nên con có thể không nói, được không cha ?”
Trung niên cười hiền hòa, quay sang cậu con trai bảo: “Cha vẫn tin tưởng vào con, mãi mãi là như vậy. Thôi! Chúng ta về nhà nhé!”
Cậu bé chợt cười hồn nhiên rồi nắm lấy tay cha mình kéo đi. Hai người đàn ông một đã từng trải sự đời, một thì chưa, họ dìu dắt nhau đi xuống dốc núi rồi qua những đoạn đèo quanh co, những con suối nước mát chạy róc rách, lâu lâu cậu bé cười lên khanh khách bởi những câu nói đùa của cha mình. Trung niên lòng tự nhủ, chẳng có gì hạnh phúc hơn nụ cười của con trẻ.
*********************
Mưa, hôm nay là một buổi chiều mưa tầm tã, cơn mưa như nổi oán giận của nàng thu đối với những ngày hè khô hạn. Gió, mỗi lúc một gia tăng thêm lên, như muốn thổi bay hết những gì còn sót lại của mùa cũ. Người, người lê thê những bước chân nặng nhọc, ông ta nghiến chặt hàm răng, như muốn thách thức tất cả, thách thức tất cả những vết thương sâu chí mạng trên người ông, thách thức với lão diêm chúa đang đe dọa mạng sống của ông. Cậu bé, cậu chờ cha cả buổi chiều nhưng không thấy bóng dáng cao cao cùng nụ cười hiền hòa ấy đâu. Thay vào đó là cảnh tượng bi thương tột cùng dần hiện ra trước mắt cậu.
“Cha!” Ngô Thường Kiệt hét lên trong nỗi kinh hoàng, người ông be bét máu thôi là máu, hơi thở dồn dập của ông khiến bụng dạ cậu cồn cào, như muốn đứt ra từng khúc. Giây lát sau, hai người ở chạy đến và giúp đỡ cậu, thân thể đầy thương tích của vị quan tên Ngô An Ngữ này được đưa vào chánh phòng, gia phủ nhỏ bé này náo loạn cả lên. Những tiếng người huyên náo thi nhau nói: “Gọi đại phu”, “Ông chủ! Sao thế này”, “nhanh nhanh lên”.
“Vô ích thôi! Thường Kiệt này, hôm trước … khi ở trên đồi Ngọc Lan, cha … cha đã hỏi … hỏi con … con có trả lời … cho cha được không?” Giọng nói yếu ớt của An Ngữ khiến con trai ông chấn động tâm thần, đối với cậu nó còn rúng động hơn hàng trăm hàng ngàn lần lời quát nạt của những kẻ cùng hung cực ác.
Trong khách phòng, Ngô An Ngữ đang nằm góc phía đông, trên chiếc phản chiêu khách, chính giữa giang nhà lớn này là bàn thờ tổ, theo đúng cách cha ông xưa bày trí. Ngô Thường Kiệt gạt lệ, ánh mắt cậu chợt trở nên cương nghị, mỗi ngày trên đất của người Việt luôn có những đứa trẻ mới được sanh ra đời, nhưng đứa trẻ đang lớn và những đứa trẻ sắp trưởng thành, nhưng một đứa trẻ nhỏ tuổi đã mang khí khái của một đấng anh hào, đầy rẫy chính khí như cậu thì trăm năm mới có một.
Thường Kiệt không nói một lời, cậu bé vỗ về lưng bàn tay cha mình như muốn nói “cha hãy yên lòng”, rồi cậu nhẹ cất bước đến bàn thờ tổ, thao tác nhanh nhẹn đốt lấy ba nén nhang, cậu nhẹ cất chân lui xuống ba bộ, nghiêm trang quỳ xuống cất tiếng nói dõng dạt: “Kính thưa các vị tiền nhân nhà họ Ngô! Con! Ngô Thường Kiệt con trai trưởng của Sùng Tiết Tướng quân Ngô An Ngữ, cháu sáu đời của Ngô Vương Quyền (2) … thừa hưởng chí hướng truyền đời của các vị Lạc tổ Lạc tông, hôm nay xin được thề nguyện, nếu một tấc đất của Đại Cồ Việt bị dày xéo con sẽ liều thân này để bảo vệ, nếu một người dân Việt bị bức hại con xin dùng tánh mạng này để ngăn cản, con …” Nói đến đây Thường Kiệt đã không thể giồng mình để kìm hãm cảm xúc được nữa, nước mắt nước mũi cậu tuông rơi, cậu quay đầu nhìn cha thì thấy nụ cười đã mãn nguyện trên môi ông, tay An Ngữ nắm thanh gươm hướng ra như muốn trao lại cho con mình, nhưng ông đã không giữ được đến lúc chính tay Thường Kiệt chạm vào, lúc thanh gươm rơi xuống đánh “keng” một tiếng cũng là lúc An Quốc công Ngô An Ngữ đã buông xuôi tất cả.
Chú Thích: nguồn wiki
(1)Ngô Thường Kiệt: sau này đổi sang họ Lý, ông tên thật là Ngô Tuấn (吳俊), là con của Sùng Tiết tướng quân Ngô An Ngữ, cháu của Ngô Ích Vệ, chắt của Sứ quân Ngô Xương Xí và cháu 5 đời của Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập–hoàng tử trưởng của Ngô Quyền, người phường Thái Hòa, thành Thăng Long (Hà Nội ngày nay). Có tài liệu lại nói quê ông là làng An Xá, huyện Quảng Đức (Cơ Xá, huyện Gia Lâm ngày nay). Cha ông làm Thái úy đời Lý Thái Tông[4], quê ở huyện Câu Lậu, Tế Giang (nay thuộc huyện Mỹ Văn, Hưng Yên), được vua ban quốc tính, vì mới có tên là Lý Thường Kiệt. Cha của Đỗ Anh Vũ gọi Lý Thường Kiệt là cậu ruột.
Sử sách Trung Quốc chép tên ông là Lý Thường Cát hoặc Lý Thượng Cát.
(2): Ngô Vương Quyền: là tên gọi theo dân gian của Ngô Quyền, người đã chỉ huy cuộc chiến chống quân Nam Hán trong trận Bạch Đằng nổi tiếng, chính thức kết thúc hơn một thiên niên kỉ Bắc thuộc, mở ra một thời kì độc lập lâu dài của Việt Nam. Sau chiến thắng này, ông lên ngôi vua, trị vì từ năm 939 đến năm 944.
|