Sáng hôm sau Ngọc lấy cớ ra Đảng bộ Tàu, ngồi lại nói chuyện ba hoa với một vài nhân viên để làm chậm cuộc đi lại. Chàng vui mừng thấy trời không có một đám mây nào; cả ngày hôm nay chắc nắng. Buổi sáng hơi mát nhưng chàng đoán mười giờ trở đi trời sẽ nắng gắt lắm.
Ngọc nghĩ đến những ngày nắng và có gió heo may ở vườn nhà; chị chàng mỗi khi đi qua chỗ nắng vẫn thường lấy cánh tay hoặc lấy vạt áo che trán cho đỡ nắng và thường bắt chàng phải đội mũ:
“Chú không biết nắng tháng tám nám bưởi à?”
Khí hậu ở Ma-Lì-Pố, chàng thấy giống như hệt khí hậu ở bên nước nhà; chàng vẫn thích nhất những ngày thu trong sáng có gió heo may; khi chàng còn ở quê nhà chàng thường ra ngồi dưới gốc cây nhãn ở bờ sông, nhìn ngắm những ngôi sao lấp lánh trên gợn nước. Hôm nay thấy trời nắng chàng lại vui vì một lẽ khác. Ngọc tự nhủ:
“Nắng này thì quả lựu Thanh để phần mình chắc đã chín, dám hồng hơn cả đôi gò má nàng. Không biết có được về ăn không?”
Chàng tự nhiên thầm gọi:
“Em Thanh của anh”.
Rồi chàng rẽ qua bưu tín cuộc đánh điện về cho Ninh: “Người em bảo đảm vô can”.
Đánh điện xong chàng nhẹ hẳn người:
“Thế là Thanh hết ăn cơm với ruốc xót ruột nhé. Tha hồ mà đi lượn phố”.
Thanh vô can thì một lần khác chàng có thể đem Thanh đi theo khi nào chàng được phái về biên giới. Chàng chỉ mong sao được Ninh phái về Ma-Lì-Pố lần nữa. Ngọc vui vẻ thổi sáo miệng rồi hát:
Ăn cháo hoa... hay là... là ăn ruốc.
Lúc về công tác trạm, trèo thang lên gác, chàng vẫn vui vẻ tươi cười tiếp tục hát câu đó. Tứ hỏi:
“Lại gặp cô nào hẳn?”
Ngọc không đáp lại vừa tiếp tục hát vừa cho các thứ đồ đạc vào túi vải. Chàng thấy một gói tròn cồm cộm ở trong túi, lấy ra hỏi:
“Cái gì thế này?”
Tứ nói:
“Tôi cũng có, anh Nghệ cũng có. Cơm nắm với ruốc rang”.
Hân mủm mỉm cười nói:
“Bô độ này túi rích tiền. Các anh đi đường ăn cơm nắm suông, nuốt khó trôi lắm”.
Ngọc nghĩ ngay đến chỗ ăn ruốc thì việc chàng định làm càng dễ:
“Cám ơn Bô nhé”.
Sửa soạn xong xuôi, lúc mọi người ra đi, xuống chân cầu thang, Ngọc kêu lên:
“Ấy chết quên hẳn mất cái bi-đông cà-phê của chị Nam”.
Rồi chàng chạy lên lấy cái bi-đông mà chàng đã cố ý bỏ quên.
Tính và Hân tiễn ba người ra khỏi Ma-Lì-Pố. Mọi người giơ tay vẫy nhau. Ngọc nói to với Hân:
“Ba ngày nữa tôi về, Bô rích, Bô phải mua quà mừng tôi nhé”.
Đôi mắt Hân cười nheo lại, rồi Tính và Hân quay trở về công tác trạm.
Từ biệt Tính và Hân rồi, Ngọc bắt đầu đi mau như chạy. Con đường ấy Ngọc đã biết là không có một dòng nước nào chảy qua. Có chăng chỉ là những dòng ở chân núi, đứng trên không nom thấy được và có nom thấy cũng không có lối xuống vì đường dốc và rừng gai rậm rạp. Ngọc đi thoăn thoắt và bỏ xa hai người, những lúc lên dốc chàng lại càng đi mau hơn. Ngọc ngoái cổ lại nói to:
“Để em vừa đi vừa hát, các anh đi cho vui chân”.
Chàng cất tiếng hát cao giọng, đi thật mau cho bước chân ăn nhịp với nhịp bài hát mà chàng cố hát thật mau:
Hồn nước muôn năm sống cùng non nước!
Ngày nay ta noi tấm gương anh hùng.
Dù khó thế mấy quyết cùng nhau bước,
Làm cho vang tiếng cháu con nòi giống Tiên Long.
Chàng chuyển sang điệp khúc:
Mau, mau đồng lòng, tay cầm tay, trông cờ nước, ta đều bước,
Tuốt gươm, quyết tâm thề với núi sông...
Hồn nước muôn năm sống cùng... [1]
Bài hát ấy là của Lưu Hữu Phước, đảng viên Việt Quốc trong thời kỳ bí mật trong nước truyền ra, do Ninh dạy chàng. Ninh có nói là thay đổi lời đi đôi chút cho nó mạnh hơn và đúng bằng trắc hơn.
Trời bắt đầu nắng mỗi lúc một gắt; Nghệ và Tứ không biết là bài hát gì nhưng vì nhịp quyến rũ nên cũng cố bước theo cho đúng nhịp. Thỉnh thoảng thấy Nghệ và Tứ đi chậm, chàng lại cất tiếng hát thật lớn:
Hồn nước muôn năm...
Chàng cứ nhè chỗ nào thoai thoải lên dốc là bắt đầu hát. Chàng vẫn nghiệm đã từ lâu rằng những chỗ dốc hẳn, ai cũng thấy ngay, và đi chậm lại; chỉ những đoạn dốc thoai thoải và dài phần nhiều ai cũng tưởng rằng đường phẳng, cứ đi mau chân, mỏi lúc nào không hay.
Lúc đó đi đã được nửa đường từ Ma-Li-Pố đến Pin-chai: chính Ngọc đi quen mà cũng thấy mình thở mạnh, mồ hôi lấm tấm ở trán và khát khô cả cổ. Chàng đoán Tứ và Nghệ còn khát hơn; hai bi-đông nước chè Tứ và Nghệ đem theo chắc đã uống hết vì tuy không quay lại nhưng những chỗ đường vòng chàng vẫn thấy hai người đứng lại đổ nước ra nắp, nốc uống. Vì lòng tự đắc, vì đường dốc thoai thoải không biết là dốc, vì điệu hát của Ngọc nên hai người không nghỉ, cứ cố theo cho kịp Ngọc.
Đến một chỗ có bóng râm, Ngọc ngừng lại đợi. Trong tám cây số, Ngọc không sợ Nghệ ra tay vì Nghệ xa chàng quá, có bắn cũng không trúng và nếu bắn hụt chàng có thể chạy trốn dễ như không rồi báo cho bộ đội ở Lao-Mu-Ngan cách đây dăm cây số bắt Nghệ. Lúc ngừng lại, đợi Nghệ đến chàng mới đâm lo.
Đến gần, Nghệ chỉ trách:
“Anh đưa đường mà anh không nghĩ gì đến những người nhiều tuổi hơn anh và đi không quen”.
Ngọc đáp:
“Xin lỗi hai anh, em thấy đi như vậy là vừa tầm nên quên phắt đi rằng hai anh khác. Vả lại cần đi mau để được việc cho hai anh”.
Nghệ ôm lấy bụng mặt tái lại rồi ngả người trên bờ cỏ vệ đường:
“Tôi thấy đau quặn ở bụng chắc là lên cơn đau gan. Không đi thì đứng!”
Nghệ lại ôm lấy bụng rồi quằn quại, mồ hôi toát ra ướt cả mặt.
“Thôi quay về Ma-Lì-Pố”.
Lần đầu tiên Ngọc thấy Nghệ cáu gắt, mất bình tĩnh. Nhất định không phải Nghệ giả vờ vì Ngọc đã chứng kiến nhiều người đau gan lúc lên cơn, lăn từ giường này sang giường kia, có khi lăn cả xuống đất, người quằn quại như sắp chết đến nơi. Ngọc lấy ra một lọ dầu rồi cùng Tứ vừa xoa vừa nắn bụng Nghệ. Chàng ngồi xuống cỏ, đặt đầu Nghệ gối lên đùi mình; một phút sau thấy Nghệ nằm yên, mắt nhắm lại, mồ hôi toát đầy trán và hai môi mím chặt như người vẫn đau nhưng cố giữ không kêu.
Ngọc cứ để yên Nghệ gối đùi mình một lúc lâu. Chân chàng đã tê dại nhưng chàng cố không nhúc nhích. Một lúc sau, chàng thấy Nghệ duỗi thẳng hai chân hai tay, cả thân thể yên lặng một cách lạ lùng và hình như không thở nữa.
Chàng sẽ lay người Nghệ, gọi:
“Anh Nghệ, anh Nghệ ơi!”
Không thấy Nghệ trả lời, Ngọc đặt tay vào ngực chỗ quả tim nhưng không thấy tiếng đập, chàng bảo Tứ:
“Anh thử bắt mạch anh ấy xem”.
Tứ loay hoay tìm mãi rồi lắc đầu.
Ngọc cho là Nghệ đã chết. Hình như chàng thấy hơi lạnh của Nghệ thấm dần, thấm dần vào đùi mình. Cái trán nữa, cái trán có một vẻ yên lặng như trán Thúy khi Thúy mất, yên lặng hơn cả vùng trời xanh và cao hẳn lên. Tai Ngọc không nghe thấy gì nữa; không một tiếng động trong rừng núi hay trong những cành thông trên đầu chàng. Nghĩ đến Nam khi giết Đức, Ngọc tiếc không đem cái gương con nào để thử như Nam.
“Thế là Nghệ đã chết, chết một cách tự nhiên”.
Chàng định bụng để Tứ đi trước, rồi chàng sẽ quẳng xác Nghệ vào một bụi rậm gần đấy cho người qua đường khỏi thấy. Khi trở về chàng sẽ lấy ví cùng các giấy tờ rồi lột quần áo Nghệ cho mất hết dấu tích. Tự nhiên chàng đổi ra thương hại Nghệ, một cán bộ lỗi lạc, lợi hại của Việt Minh, thương hại một người mà chàng cần phải giết vì biết rằng để Nghệ đi lọt về nước thì bao nhiêu hệ thống Ninh đã tốn công phu mới gây lên được sẽ bị tan vỡ hết. Chàng lại mừng sẽ cứu được Tứ. Chỉ độ hơn hai giờ nữa, chàng sẽ giao Tứ cho bọn buôn lậu, Tứ chắc sẽ về được Tuyên Quang gặp lại Nga. Thoáng rất nhanh, chàng nghĩ đến đêm gặp gỡ và cuộc ái ân sau mấy năm cách biệt của đôi vợ chồng yêu nhau đằm thắm ấy.
Bỗng Ngọc thấy mấy đầu ngón chân Nghệ cựa quậy. Chàng nhìn trừng trừng không tin, tưởng mắt mình bị hoa nắng. Hai bàn tay Nghệ cũng gấp lại đặt trên ngực và Nghệ bắt đầu thở mạnh. Một lúc sau Nghệ mở mắt nhìn Ngọc. Không phải lần đầu Nghệ bị ngất đi như vậy vì bác sĩ vẫn bảo chàng đau tim không nên làm những việc gì nặng nhọc quá sức. Ý nghĩ đầu tiên của chàng là ý nghĩ ngầm cám ơn và hơi mến Ngọc khi nhận ra Ngọc có vẻ lo sợ cho mình, nhưng còn việc phải giết Ngọc sau khi bắt liên lạc được với Long bên Thanh Thủy vẫn không thay đổi. Chàng bảo Ngọc:
“Chỉ tại anh đi mau quá, tôi phải gắng quá để cố theo. Tim tôi lại yếu nữa”.
Nhưng đấy chỉ là một câu nhận định, giọng nói không có vẻ oán trách Ngọc. Nghệ ngồi nhỏm dậy, vẫn để Ngọc đỡ lưng mình. Tứ nói:
“Cho anh uống ít cà-phê cho tỉnh hẳn”.
Ngọc đáp ngay:
“Phải đấy, uống cà-phê nó trợ tim, nhưng chỉ uống một ít thôi. Cà-phê nước cốt uống nhiều sợ anh ấy lại ngất đi lần nữa”.
Chàng xoay mở nắp bi-đông rồi rót một nửa nắp cầm tay đưa lên miệng Nghệ, tay chàng vẫn đỡ lấy lưng Nghệ. Thấy Nghệ ngập ngừng, Ngọc nói luôn:
“Để em uống thử xem đặc nhạt ra sao”.
Chàng uống một ngụm rồi bảo Nghệ:
“Uống được. Ngon lắm. Phải cái chị Nam pha đặc quá”.
Nghệ đỡ lấy nắp cà-phê uống một hơi cạn; lần này thì chàng không ngập ngừng nữa.
Để Nghệ nghỉ độ nửa tiếng rồi Tứ và Ngọc mỗi người một bên vực chàng đi rất thong thả. Ngọc phải vừa khoác túi vải của mình trên vai vừa xách giùm túi cho Nghệ. Dần dà, Nghệ bảo hai người bỏ tay ra, đi một mình. Nghệ lại khỏe khoắn như thường, tuy vẫn phải cẩn thận đi chậm bước. Chàng nhìn Ngọc âu yếm:
“Qua khỏi rồi, không sao. Tôi chỉ lo nhất là không làm xong phận sự. Chết thế này thà về tới Thanh Thủy chết về tay Pháp còn hơn”.
Cả Ngọc và Nghệ hai người đều nhẹ nhõm: Ngọc thì yên trí Nghệ không còn nghi trong cà-phê có thuốc độc nữa. Nghệ thì tin chắc trong cà-phê không có bỏ thuốc độc.
Ngọc hỏi Tứ:
“Nước chè sáng ngày Bô Hân đổ đầy bi-đông các anh còn không, em khát quá”.
Tứ nói:
“Tôi với anh Nghệ đã nốc cạn cả hai bi-đông không còn một giọt”.
Ngọc thản nhiên nói:
“Cũng không sao. Sắp đến chỗ có suối rồi”.
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Theo điệu bài Bạch Đằng Giang của Lưu Hữu Phước.
Xem tiếp chương 13