Đốc mạch là nơi tổng hội các kinh dương. Các kinh dương dù đi theo chiều nào, rồi cũng phải thông với Đốc mạch. Cho nên phàm trong phép luyện khí công không thể không xử dụng đến mạch này.
3.21. Đường di chuyển của kinh mạch
Đường di chuyển của Đốc mạch có bốn Lạc tuyến:
– Khởi từ bụng dưới, tới huyêt Hội âm (VC1), chạy theo xương sống, tới ót, tại huyệt Phong phủ (VG16), nhập vào não, lên đỉnh đầu, rồi chuyển xuống sống mũi.
– Khởi từ bụng dưới, tới bộ phận sinh dục, đến huyệt Hội âm (VC1), qua xương cụt, phân phối vào mông, đi giữa hai tuyến bên trong của túc Thiếu âm thận kinh, rồi chạy trở lên gặp túc Thái dương bàng quang kinh, lại nhập vào giữa xương sống, tới thận.
– Cùng với Túc Thái dương bàng quang kinh, khởi từ khóe trong mắt, lên trán, giao hội với đoạn ở đỉnh đầu, một lạc mạch vào não, xuyên ra hai u đầu, xuống cần cổ, đi hai bên xương sống, tới vùng thận, thì nhập thận.
– Từ hai bên bụng dưới trực thượng, qua vùng rốn, hướng thượng lên tâm, lên hầu, qua hai cằm, rồi nhập hai đồng tử.
3.22. Các huyệt trực thuộc
VÙNG MÔNG, THẮT LƯNG
Trường cường (VG1), Yêu du (VG2), Dương quan (VG3), Mệnh môn (VG4), Huyền xu hay khu (VG5), Tích trung (VG6).
VÙNG LƯNG, LỒNG NGỰC
Trung xu hay khu (VG7), Tiết túc (VG8), Chí dương (VG9), Linh đài (VG10), Thần đạo (VG11), Thân trụ (VG12), Đào đạo (VG13), Đại trùy (VG14).
VÙNG ĐẦU, CỔ.
Á môn (VG15), Phong phủ (VG16), Não hậu (VG17), Cường gian (VG18), Hậu đỉnh (VG19), Bách hội (VG20), Tiền đỉnh (VG21), Thông hội (VG22), Thượng tinh (VG23), Thần đình (VG24), Tố liêu (VG25), Thủy cấu (VG26), Đoài đoan (VG27), Ngân giao (VG28).
3.23. Giao hội huyệt
– Giao hội với túc Thái dương bàng quang kinh tại huyệt Phong phủ (VG16).
– Giao hội với Nhâm mạch tại huyệt Hội âm (VC1).