Giới thiệu về Đấu khải
I – Vương Hổ
“Vương hổ” thuộc "Ma thú hệ" của Bắc Ngụy .
Là đấu khải hạng nặng, chủ yếu nhận nhiệm vụ áp chế chiến trường; do "Công trường liên hợp Hoàng gia" ở Lạc kinh phát minh và chế tạo, tải trọng 89 cân, khi chiến sĩ đấu khải sử dụng, lợi dụng "Chân khí" thúc dục, dấu hiệu rõ ràng nhất chính là hình hai đầu hổ khắc trên hai giáp vai rít gào, ngoài ra trên ngực áo giáp còn phát ra tia phóng xạ tạo thành một con mãnh hổ.
Nhằm đối kháng với trang bị mới của Giang Nam Đường quốc - đấu khải “Thiết toái sơn” cực mạnh mẽ, đế quốc Bắc Ngụy đã bắt tay vào dự án xây dựng đấu khải Vương hổ đời thứ tư, cùng "Hắc báo" và "Thương lang" cấu thành thế hệ quân đoàn đấu khải chủ lực mới của Ngụy quốc. Cũng có rất nhiều đấu khải sĩ sử dụng loại đấu khải này ở trên chiến trường lưu lại tên mình trong lịch sử khẳng định.
Nó là đại biểu cho kiệt tác của đấu khải đời thứ tư Ngụy quốc ma thú hệ.
II - Thiết toái sơn
"Thiết toái sơn" là đấu khải hạng trung, thuộc “Nam Hưng hệ” của Giang Nam Đường quốc.
Từ Đường quốc nghiên cứu phát triển, có thể xem nó là đấu khải đời thứ tư sớm nhất; giao cho "Giang Nam chế tạo cục" chế tạo, là đấu khải hạng trung có thể sử dụng thông thạo ở nhiều loại địa hình dưới nhiều loại điều kiện. Trên vai cùng cánh tay giáp đều khắc một tòa Băng liệt sơn phong -- làm huy hiệu của loại khải giáp này."Thiết toái sơn" có thể đột kích, chủ công, yểm trợ nhiệm vụ tác chiến, hơn nữa còn có thể cải tiến nhằm phục vụ nhiều mục đích, tải trọng 70 cân, chiến sĩ đấu khải khi sử dụng, lợi dụng "Chân khí" thúc dục. Bởi vì tư tưởng thiết kế cùng kỹ thuật rất tiên tiến khiến cho "Thiết toái sơn" có thể sản xuất trên quy mô lớn, lại còn khống chế dễ dàng, bảo trì thuận tiện, là loại khải giáp có sức chiến đấu rất mạnh.
Là đấu khải rất thông dụng trong quân đội ra đời trước "Vương hổ", "Hắc báo". Quân đội Nam Đường cũng đang bằng vào tính năng xuất sắc của nó mà chiến thắng rất nhiều trận khiến người ta phải trố mắt mà nhìn.
III - Bàn Cổ
"Bàn Cổ" là đấu khải hạng nặng, thuộc "Sơn hải hệ" của Thục quốc .
Là đấu khải hạng nặng chuyên dụng để công thành chiến, tải trọng 360 cân, cần bốn gã chiến sĩ đấu khải cấp "Quân" trở lên liên hợp thúc dục "Chân khí" cùng kết hợp với "Vu lực" của man tộc mới có thể thúc dục. Lực phòng hộ rất mạnh, có điều tốc độ di chuyển ở trên chiến trường cực thấp, gần như không có năng lực cận chiến, sau khi xuất động cần trang bị ít nhất một tiểu đội “Ngũ” trang bị đấu khải hạng trung hộ vệ.
Loại cải tiến của "Bàn Cổ" chính là một trong những đấu khải cực mạnh trong truyền thuyết -- "Xi Vưu", tải trọng lên tới 550 cân, phải lợi dụng "Vu lực" hấp thụ năng lượng nhật nguyệt trong thời gian dài, sau đó mới có thể thúc dục nổi.
IV - Tinh vệ
"Tinh vệ", thuộc "Sơn hải hệ" của Thục quốc.
Nó là đấu khải tầm trung chuyên dùng để bắn tỉa dưới nhiều loại địa hình khác nhau, được nghiên cứu phát triển từ Đường môn của Thục quốc rồi chế tạo ra, đấu khải sĩ lấy chân khí hoặc vu lực để khống chế; cánh tay mạnh mẽ được trang bị nỏ tiễn gắn liền, dùng để yểm trợ công kích trên chiến trường, tải trọng 53 cân, cung nỏ cùng tên mang theo tổng sức nặng là 13 cân, để cho cung nỏ tiện thao tác, "Tinh vệ" phải hy sinh một bộ phận năng lực phòng hộ của áo giáp. Đồng thời là đấu khải đời thứ ba có kỹ thuật hoàn thiện bậc nhất nên "Tinh vệ" ở trong quân đội cũng như chốn giang hồ còn có rất nhiều loại cải tiến, trong đó có cả phục vụ cận chiến cùng điều tra trinh sát như là "Dạ chi tinh vệ" cùng "Ảnh tinh vệ"….
V - Tham lang
Là phiên bản cải tiến từ đấu khải đời thứ ba "Tinh lang" của Bắc Ngụy, thuộc "Ma thú hệ", từ trung tâm kỹ thuật lệ thuộc "Đông Lăng vệ" nghiên cứu phát triển thành công, giao cho "Công trường liên hợp Hoàng gia" chế tạo, lấy danh xưng là ngôi sao Thiên giới. Tải trọng 72 cân, năng lực phòng hộ cùng tốc độ vận động tương đối cân đối, hoa văn trước mặt giáp lóe ra ngôi sao cùng một đôi nanh sói.
Tham lang vốn nhằm trang bị cho bộ đội chiến đấu trực thuộc Đông Lăng vệ sử dụng, bình thường chỉ dùng để trấn áp bạo động trên mặt đất cùng với hộ vệ một ít quan to hiển quý, cho nên số lượng khải giáp này cực ít, hơn nữa trang sức cùng hoa văn trên mặt giáp lại thường nổi tiếng bởi sự hoa lệ.
Nhưng sau này thiên hạ phát động chiến tranh toàn diện, “Tham lang” do có kỹ thuật tương đối hoàn thiện nên bắt đầu trang bị đại quy mô trong toàn quân Bắc Ngụy đế quốc, trở thành một trong những loại đấu khải chủ lực trên chiến trường, liên tiếp tham gia rất nhiều đại chiến dịch
Minh giác sư trong 《Đấu Khải》
I – Giới thiệu cơ bản về Minh giác sư
Ở trong thế giới đấu khải, Minh giác sư lợi dụng thần giao cách cảm cùng minh thức thuật để truyền lại tin tức tình báo trên chiến trường, đồng thời còn có thể thông qua tinh thần lực cường đại của bản thân triển khai công kích tinh thần địch nhân, khiến cho ý thức đối phương hỗn loạn, bị mị hoặc, tiến vào trạng thái tốc độ phản ứng chậm lại; thậm chí còn có thể bị khống chế tâm thần đến mức chuyển sang công kích chính đồng đội, hoặc tinh thần trực tiếp ngưng trệ, trở thành một cái xác không hồn. Ngược lại, Minh giác sư còn có thể thi triển tinh thần lực đối với đồng đội, khiến cho ý chí quyết tử cùng năng lực tác chiến được đề cao trên diện rộng.
Mà chiến sĩ đấu khải đẳng cấp cao có thể lợi dụng sự cộng hưởng giữa bản thân và đấu khải, qua đó thi triển ra các loại kỹ năng tất sát.
Lịch sử Minh giác sư và lịch sử chiến sĩ đấu khải cùng tồn tại đã lâu. Minh giáp sư sớm nhất trong truyền thuyết—— cũng là người cực mạnh——chính là quân sư hàng đầu của Lý Trường Sinh, khai quốc hoàng đế Nam Đường - Thẩm Thiên Sách, nàng cũng là người sáng lập nhất hệ Minh giác sư sau này.
II – Tác dụng của Minh giác sư
Minh giác sư, chính là chỉ một số ít người có năng lực đặc dị. Bọn họ có thể sử dụng tâm linh cảm ứng truyền tư tưởng tới người khác, đồng thời có thể sử dụng linh giác nắm giữ động tĩnh trong một phạm vi nhất định. Ứng dụng của Minh giác sư trên chiến trường cực lớn, đó là đồng đội số một bên cạnh sĩ quan chỉ huy, dùng thần giao cách cảm truyền đạt mệnh lệnh của chỉ huy tới đấu khải sĩ, đồng thời cũng dùng minh thức thuật điều tra tình báo chiến trường, phản ánh với sĩ quan chỉ huy, để cho sĩ quan chỉ huy có thể nắm giữ tình thế chiến trường kịp thời, dễ dàng điều khiển bộ đội, có thể nói là sợi dây liên lạc giữa chỉ huy tới đấu khải bộ đội. Với số lượng đấu khải bộ đội ngang nhau, nếu như có minh giác sư tham gia chỉ huy thì chiến lực của bộ đội so với không có minh giác sư phải cao hơn năm thành, đó là sự khác biệt giữa có tổ chức và vô tổ chức.
Hơn nữa tác dụng của Minh giác sư không chỉ như thế. Minh giác sư cường đại thậm chí có thể dùng tâm linh công kích, phát động "Tâm linh phong bạo", khiến cho quan binh cùng khải đấu sĩ đối phương điên cuồng hỗn loạn. Bộ đội không có Minh giác sư bảo hộ thậm chí có thể bị xóa sổ bởi một chiêu "Tâm linh phong bạo"—— có điều loại Minh giác sư cường đại như thế cũng là cấp bậc trong truyền thuyết, cực kỳ hiếm thấy.
Tác dụng của Minh giác sư không chỉ phản ánh ở trên chiến trường, ngay cả ở chính giới cùng dân gian cũng có ứng dụng rất lớn. Một số trọng trấn của triều đình Bắc Ngụy cùng quan phủ địa phương đều an trí một số Minh giác sư, đảm trách chức năng liên lạc giữa quan trấn phủ cùng triều đình trung ương. Mượn Minh giác sư, quan viên địa phương có thể nhanh chóng báo cáo với triều đình trung ương tình huống đột xuất cùng công tác quản lý, trung ương cũng có thể kịp thời nắm giữ tình hình thực tế ở địa phương, tăng mạnh quyền giám sát, đảm bảo được sự thống trị.
Tác dụng của Minh giác sư rất lớn, song số lượng lại cực kỳ thưa thớt. Chưa nói đến loại Thiên cấp Minh giác sư có thể phát động Tâm linh phong bạo, ngay cả một ít minh giác học đồ biết qua chút thần giao cách cảm đều quý như lông phượng sừng lân.
III – Nghiên cứu về Minh giác sư
Minh giác sư đầu tiên xuất hiện đến nay đã vượt quá ba trăm năm, vô luận ở Bắc Ngụy, Nam Đường hay là Tây Thục, ngành học thuật nghiên cứu về minh giác luôn gắn liền mật thiết với vận mệnh quốc gia. Đám học giả ăn lương cao ngất ngưởng này nghiên cứu gần ba trăm năm, số lượng công trình sáng tạo ra hoàn toàn có thể đè chết một tên chiến sĩ đấu khải. Nhóm học giả phân chia thành mười mấy phân ngành, sáng tạo ra cả đống lớn danh từ học thuật vừa nghe thôi đã rợn cả người—— cái gì mà "Não thùy biến dị", "Thiên phú minh giác luỹ thừa", "Ba truyền lại", "Tốc độ truyền sóng tăng lên" —— nghe nói có một lần, đột nhiên đương kim hoàng đế Thác Bạt Hoảng tâm huyết dâng trào, triệu tập đám học giả trong công trường liên hợp hoàng gia tới thỉnh giáo xem Minh giác sư rốt cuộc là thứ quỷ quái gì, chưa kịp uống xong ly trà, Thác Bạt Hoảng đã nổi giận lệnh đuổi đám học giả cút đi cho khuất mắt —— cứ nhìn ánh mắt bệ hạ anh minh là hiểu, có cho hắn cả vạn năm cũng không có khả năng nghe hiểu được thứ này.
Có thể nói Minh giác hệ nghiên cứu sáng tác ra toàn sách là sách, nhưng vấn đề mấu chốt lại ở chỗ: Rốt cuộc Minh giác sư sinh ra như thế nào? —— hoặc nói một cách cụ thể hơn chính là: làm sao mới có được Minh giác sư số lượng lớn? —— các quốc gia vẫn như cũ không hề tiến triển. Đám học giả chỉ biết là, một gã Minh giác sư sinh ra, chẳng những cần gian nan tu luyện cùng bồi dưỡng, hao phí một số lượng vật tư quý giá, mà trọng yếu hơn cả ——thân mình hắn phải có thiên phú minh giác!
Đạo lý cũng giống như tảng đá thì đẻ không ra gà con, người thường không có thiên phú thì cho dù có đưa cho hắn cả tòa núi vàng cũng không thành Minh giác sư nổi. Trong khi xác suất sinh ra người có thiên phú minh giác lại cực thấp, trong mười vạn thậm chí trong trăm vạn người cũng chưa chắc có một người mang thiên phú minh giác, đấy là chưa nói hắn có thể có vận khí được phát hiện rồi bồi dưỡng tu luyện hay không.
IV - Địa vị Minh giác sư
Cứ vật nào hiếm thì tất phải quý, địa vị của Minh giác sư cực kỳ cao quý. Trong triều đình Bắc Ngụy, quan quân trong quân đội chỉ từ cấp bậc quan quân trở lên mới có tư cách trang bị Minh giác sư làm trợ thủ, còn ở địa phương chỉ có Tổng đốc một tỉnh hoặc là quan lớn như tuần phủ mới có đủ tư cách.
Trong giang hồ, chỉ những danh môn gia tộc quyền thế cùng các đại bang phái mới có thể có được chiến lực của Minh giác sư. Mà có bao nhiêu Minh giác sư tức là đại biểu cho có bấy nhiêu thực lực.
Mặt khác Minh giác sư còn có một năng lực cực kỳ trọng yếu, một số nhân vật có thiên phú dị bẩm có thể đạt tới cảnh giới "Đấu minh song tu", tức là bản thân vừa là chiến sĩ đấu khải đồng thời còn mang năng lực của Minh giác sư, trực tiếp chỉ huy quân đoàn đấu khải tác chiến —— đương nhiên, những người trong lịch sử có thể đạt tới cảnh giới "Đấu minh song tu" đã ít lại càng ít, hơn ba trăm năm qua mà không có quá một trăm người.
Biên chế quân sự trong tác phẩm 《Đấu Khải》
Đơn vị tác chiến nhỏ nhất trong Đấu Khải là "Năm", do năm đấu khải tạo thành, binh lực này bình thường có ba đấu khải trang bị binh khí cận chiến khác nhau cùng hai đấu khải trang bị cung hoặc nỏ tiễn viễn trình bắn trợ chiến. Ngoài ra trong trường hợp tiểu đội có năng lực tổ hợp cao, trong lúc tác chiến còn có thể đánh ra tuyệt kỹ liên hợp đoàn thể.
Chỉ huy của tiểu đội "Năm" khải giáp là ngũ trưởng, sĩ quan phụ tá là thứ trưởng.
Mặt khác mỗi tiểu đội "Ngũ" thường thường còn có thể có hai chiếc xe ngựa hai bánh tiếp tế vận chuyển hậu cần.
Ba "Ngũ", 15 đấu khải tổ hợp thành một "Đội", tức trung đội, chỉ huy quân sự danh hiệu là đội chính, sĩ quan phụ tá là đội thứ.
Ba "Đội", 45 đấu khải tổ thành một "Doanh", chỉ huy gọi là quản lĩnh, sĩ quan phụ tá gọi là phó quản lĩnh.
Ba "Doanh", 135 đấu khải biên chế thành một "Lữ", chỉ huy là thống lĩnh, sĩ quan phụ tá là Phó thống lĩnh.
Ba "Lữ", 500 đấu khải biên chế thành một "Sư", chỉ huy là đô tướng, sĩ quan phụ tá là phó tướng.
Ba cái đến sáu "Sư" biên chế thành một "Quân", quan chỉ huy là trấn suất, trấn suất có thể khai mở phủ, có được quân khu của riêng mình, đó cũng là một đơn vị tác chiến lớn trong chiến tranh; ở trong quân khu được hưởng đặc quyền rất lớn về hành chính, tài chính, trên cơ bản những trấn suất có thể khai mở phủ riêng đều là quân phiệt một cõi, có kẻ còn trở thành bá chủ quân phiệt một phương.
Cần chú ý thêm chính là, đoàn đội đấu khải tùy vào tình hình thực tế có thể có thay đổi, số lượng trang bị đấu khải cụ thể có thể hoặc nhiều hoặc ít, cho nên thường xuyên có chuyện 10 đấu khải bị biên thành một "Đội", 30 đấu khải bị biên thành một "Doanh"....
|