Hải chiến Thái Bình Dương-WW2
Phần 1- Hải chiến tại vùng biển san hô
Giới thiệu Trận hải chiến trên vùng biển San hô là cuộc đụng độ trên biển lớn trong Đệ nhị thế chiến, nó diễn ra trong hai ngày 7-8 tháng 5/1942 giữa lực lượng của Mỹ và Nhật Bản. Trận chiến này là một bước ngoặt bởi vì nó đã chặn đứng đà tiến công của quân Nhật xuống phía nam. Mục tiêu Australia Nỗi lo sợ về mưu đồ của chủ nghĩa đế quốc Nhật đối với Austrlia bắt đầu từ đầu thế kỷ khi mà nước Nga bị đánh bại trong cuộc chiến Nga-Nhật năm 1904-1905. Những câu chuyện và những vở kịch đã góp phần làm thổi phồng lên nguy cơ đó hay còn được gọi là “mối đe doạ da vàng”.Trong những năm 30, những tài liệu của Nhật như tài liệu về Khối thịnh vượng chung Đại Đông Á thỉnh thoảng đề cập Australia như một thuộc địa tiếm năng. Sau khi tiếp cận một số tài liệu mật, các sử gia ngày nay cho rằng ý tưởng này,đề xuất bởi Hải quân Nhật, đã bị Bộ tư lệnh tối cao bác bỏ. Những cuộc ném bom vào Darwin hay những vùng khác của nước Úc chỉ nhằm làm suy yếu, không cho nó trở thành một căn cứ của Mỹ. Tuy vậy, lúc đó, người ta không nhận thức được điều này và nỗi lo sợ về một cuộc xâm lăng là có thật. Trong suốt tháng 3/1942, đà tiến công của Nhật vẫn tiếp tục. Lực lượng của họ chiếm giữ nhiều hòn đảo phía đông Papua như Solomon, Bougainville. Những sân bay quan trọng được thiết lập ở trên đảo Tulagi và Guadalcanal. Cuối tháng tư, tình báo Mỹ phát hiện một hải đội Nhật đang tiến về vùng biển San hô. Mật danh của Nhật cho hải đội này là Chiến dịch MO. Mục tiêu của nó là cảng Moresby, New Guinea, một vị trí nhỏ nhưng đặc biệt quan trọng.
Bản đồ nơi diễn ra trận chiến
Diễn biến toàn chiến dịch Ngày 7/4/1942 Trung uý Kiyoshinge Sato của quân đội Hoàng gia Nhật rời Rabaul, nằm trên mũi phía bắc của đảo New Britain trong vùng biển San hô vào vùng nội địa của Talasea. Nhiệm vụ của anh ta là bảo đảm rằng không còn một trạm vô tuyến nào còn lại trên đảo,
cho phép quân Nhật mở một chiến dịch đổ bộ vào cảng Moresby và quần đảo Solomon từ Rabaul, bắt đầu từ Tulagi. Việc chiếm được cảng Moresby là bước quyết định để tấn công bắc Úc, khống chế không lực nước này.Nước Nhật đã tin chắc vào ưu thế tuyệt đối của mình tại chiến trường Thái Bình Dương. Sau vụ đột kích vào Trân Châu Cảng, lá cờ Mặt trời mọc đã dễ dàng tung bay ở Hồng Kông, Singapore, Philippine, Java, Sumatra…Những hạm đội của phương Tây tan vỡ, và cái ngày mà quyền kiểm soát của Nhật được đưa đến từng ngóc ngách của thế giới dường như không còn xa. Ngày 8/4/1942 Nhật chiếm được Talasea. Bộ tư lệnh tối cao chuẩn bị chiếm cảng Moresby, một căn cứ không quân lớn của Australia ở New Guinea và Tulagi trong quần đảo Solomon, nơi mà một căn cứ thủy phi cơ có thể được xây dựng. Việc này cho phép nước Nhật kiểm soát vùng biển San hô, từ đó dễ dàng tiếp cận Bắc Australia và quan sát mọi hoạt động chuẩn bị lực lượng của quân đồng minh ở đây. Giữa tháng 4/1942 Đơn vị tình báo của tướng Douglas McArthur liên tục cập nhật thông tin về hoạt động của quân Nhật trong khu vực gần Tulagi và Rabaul cho đô đốc Nimitz và bộ tham mưu, đang đóng tại Trân Châu Cảng. MacArthur đặt cược lớn vào sự an toàn của Moresby. Kế hoạch của ông là điều động binh lính hỗ trợ cho các chuỗi đảo, biến Moresby thành bước đệm để sau này tiến thẳng đến Philippine. Ngày 29/4/1942 Chiến dịch MO, được chỉ huy bởi Đô đốc Inouye nhận được quân lệnh tấn công cảng Moresby. Lực lượng Nhật đóng ở Rabaul và Tulagi. Hạm đội đồng minh tại khu vực do chuẩn đô đốc Fletcher chỉ huy. Còn chỉ huy toàn bộ hải quân đồng minh ở Thái Bình Dương là Đô đốc C.W.Nimitz.
Chuẩn đô đốc Fletcher
Những tàu chiến của đồng minh lúc đó được trang bị radar, một kỹ thuật mà người Nhật chưa có. Về phía hạm đội của Australia, chỉ huy là Chuẩn Đô đốc Sir John Gregory Crace, một một thành viên của Hải quân Anh sinh tại Australia. Lực lượng bao gồm tuần dương hạm hạng nặng HMAS Australia (tàu chỉ huy), tuần dương hạm hạng nhẹ HMAS Hobart, và chiếc HMAS Canberra, ngoài ra còn có một số tàu của Mỹ là tuần dương hạm USS Chicago, khu trục hạm USS Perkins, USS Walker, USS Farragut cũng nằm dưới sự chỉ huy của Crace. Không quân của Crace gồm những máy bay bay từ các căn cứ ở Queensland bởi cả những phi đoàn người Úc hay Mỹ.
Ngày 30/4/1942 Tình báo Nhật xác định Mỹ có khoảng 200 máy bay chủ lực ở Australia. Sau 5 tháng giao tranh và tổn thất khá ít, người Nhật không cảm thấy lo lắng gì nhiều. Lực lượng không quân từ các căn cứ trên bộ của Nhật thuộc chiến dịch MO là 150 chiếc, lực lượng xung kích gồm 2 tuần dương hạm hạng nặng Myoko và Haguro, 6 khu trục hạm, một tàu dầu và hai tàu sân bay cỡ lớn Shokaku và Zuikaku, là những chiếc đã tham gia tấn công Trân Châu Cảng. Lực lượng tấn công chiếm Tulagi gồm 6 khu trục hạm, 11 tàu vận tải, một số tàu quét mìn, 2 tàu dầu và một tàu sửa chữa, 2 tuần dương hạm hạng nhẹ. Kế hoạch của quân Nhật là chiếm Tulagi ngày 3/5 và Moresby ngày 10/5. Trong thời gian này, đơn vị tình báo Mỹ “Magic” biết được rằng phía Nhật đang di chuyển không lực của mình từ quần đảo Marina và Marshall về khu vực này. Những cuộc không kích vào cảng Moresby và Tulagi đang đến gần. Tất cả các dấu hiện đều cho thấy một chiến dịch quân sự lớn từ Rabaul có thể bắt đầu vào khoảng đầu tháng 5. Đô đốc Nimitz biết được rằng tàu sân bay Zuikaku và Shokaku đang ở quanh Rabaul, và quân Nhật đang tập trung tàu thuyền ở đây. Phía Mỹ cũng đã điều động 22000 quân tới New Caledonia, phía nam quần đảo Solomon. Bắc New Caledonia, Efate thuộc quần đảo New Hebride do một số tàu của New Zealand và Mỹ canh giữ. Hải quân Nhật cũng đoán rằng sẽ có hải chiến trước khi họ có thể đổ bộ lên Moresby. Tình báo của họ xác định rằng có 1 tàu sân bay Mỹ đang trong khu vực, họ nghĩ rằng đó là chiếc Saratoga. Nhưng thật ra nó là chiếc Yorktown của chuẩn đô đốc Fletcher. Đô đốc Inouye dự định sẽ nhử các đơn vị hải quân Mỹ vào khu vực biển San hô, và kẹp họ trong một gọng kềm, với một bên là tàu sân bay hạng nhẹ Shoho cùng những tuần dương hạm của nó, và một bên là 2 tàu sân bay hạng nặng, khu trục hạm, tuần dương hạm. Nimitz không bị lừa dễ dàng. Đô đốc Fitch cùng tàu sân bay Lexington được lệnh gặp chiếc Yorktown của Fletcher ở phía tây quần đảo New Hebride. Lực lượng hải quân của tướng MacArthur và đô đốc Crace sẽ đóng góp một số tàu chiến, trong số đó có chiếc USS Chicago và USS Perkins. Đô đốc Halsey cùng 2 tàu sân bay của mình trở về từ chiến dịch ném bom Tokyo có thể đến trong vài ngày tời, nhưng có thể ông ta sẽ không đến kịp. Nimitz chắc chắn rằng Fletcher sẽ đụng với một trận hải chiến lớn trong vùng biển San hô. Hai tàu sân bay, 5 tuần dương hạm và 8 khu trục hạm, đó là lực lượng tạo nên Nhóm tác chiến 17 của hải quân Mỹ trong khu vực này, do Chuẩn đô đốc Frank Fletcher chỉ huy.
Ngày 1/5/1942 Người Úc biết rằng quân Nhật đang hướng về Tulagi, và họ cho rút đơn vị đồn trú nhỏ của họ ở đó trước khi người Nhật đến vào ngày 3. Đội tàu của đô đốc Fitch và Crace gặp lực lượng của Fletcher. Fletcher, chỉ huy đội tuần dương hạm của Hạm đội Thái Bình Dương, xem tàu sân bay chủ yếu là nơi để phóng máy bay đi, nhưng vẫn là một tàu chiến mặt biển với khả năng tư chiến đấu. Ông thuộc những người theo trường phái cũ, những người luôn xem tàu sân bay như một con tàu luôn cần được tiếp nhiên liệu và phải sẵn sàng di chuyển bất cứ lúc nào. Tiếp dầu và tiếp tế luôn nằm trong suy nghĩ của Fletcher. Những con tàu được tập trung lại và chờ được tiếp tế để chuẩn bị cho giao tranh. Tuy vậy, trận hải chiến ở biển San hô lại là trận giao tranh trên biển đầu tiên mà những tàu chiến rên mặt biển không hề bắn ra một phát đạn. Những máy bay ném bom bổ nhào, máy bay phóng ngư lôi từ tàu sân bay là trở thành một phần mới của chiến tranh.
Ngày 2/5/1942 MacArthur báo cáo rằng đối phương đang di chuyển về phía Tulagi. Fletcher vội rời đội hình, để Fitch ở lại tiếp nhiên liệu. Fletcher lao nhanh về phía Solomon xem ông ta có thể làm được gì. Ông lo ngại rằng quân Nhật có thể nhận thấy sự có mặt của mình ở khu vực bởi vì một máy bay trinh sát của ông đã phát hiện và ném bom một tàu ngầm Nhật tối hôm qua. Fletcher đã gặp may, bởi vì trong đêm mà 11 chiếc tàu của ông hướng về quần đảo Solomon, thời tiết xấu đã che giấu sự hiện diện của ông.
trong đêm mà 11 chiếc tàu của ông hướng về quần đảo Solomon, thời tiết xấu đã che giấu sự hiện diện của ông.
Ngày 3/5/1942
Quân Nhật chiếm Tulagi mà không gặp sự kháng cự nào, chuẩn bị xây dựng một căn cứ thủy phi cơ. Lính công binh với trang thiết bị đổ bộ lên bờ, và người Nhật ghi thêm một thắng lợi dễ dàng nữa. Fletcher đang ở giữa vùng biển San hô và lại đang tiếp nhiên liệu. Những khu trục hạm của ông ta đợi tàu dầu Neosho, từng chiếc một.
2 đồng chí này trong trận midway đều hi sinh hết
Đến 7h tối, tin về việc Tulagi bị chiếm đến tới Fletcher, lực lượng Mỹ bị phân rã ra thành nhiều mảnh. Fitch và Crace đang hướng đến điểm tập kết 300 dặm về phía nam Guadalcanal. Fletcher rơi vào cảnh một mình, 100 dặm ngoài khơi Guadalcanal, hoàn toàn không có sự chuẩn bị cho bất cứ cuộc tấn công nào của quân Nhật. Việc đánh mất tính bất ngờ mà Fletcher từng trông đợi có lẽ là điều tệ hại nhất có thể xảy ra.
Ngày 4/5/1942
Yorktown bắt đầu phóng đi những phi cơ của mình trong cơn mưa và gió giật tới 35 hải lý/h. Từng đợt phi cơ ném bom Mỹ tấn công Tulagi vào sáng sớm. Những pháo thủ Nhật tỏ ra thiếu kinh nghiệm và hoả lực của họ không chính xác. Những con tàu của Nhật bắt đầu quay đầu chạy về phía bắc, trở lại Rabaul và an toàn.
Diễn viên chính bên Mẽo, yorktown, tiêu đề của ảnh có thể đọc trên phần đầu của bức ảnh
Ba thủy phi cơ Nhật bay lên không. Fletcher gửi đi bốn tiêm kích cơ để chặn đánh những thủy phi cơ này. Cả 3 chiếc đều bị bắn rơi. Lần đầu tiên, người Mỹ gặp kẻ thù trong một trận đánh mở, họ để lỡ một trận đánh lớn vì sương mù, nhưng tin rằng mình đã đánh đắm 2 khu trục hạm, 1 tàu vận tải, 4 tàu chiến nhỏ, làm mắc cạn một tuần dương hạm hạng nhẹ, và làm hư hỏng một khu trục hạm và tàu vận tải khác.
Ngày 5/5/1942
Diễn viên đóng vai kẻ xấu số bên Mẽo, Lexington
Đội tàu Yorktown của Fletcher gặp đội Lexington của Fitch và đơn vị hỗ trợ của Crace 300 dặm về phía nam Solomon. Hai phi công tiêm kích cơ của Yorktown bị rơi và được giải cứu. Một máy bay phóng lôi gặp nạn, không ai sống sót.
Đêm đó, Fletcher lại tiếp liệu, và hướng về tây bắc, ước tính rằng bất cứ lực lượng nào muốn tấn công Moresby đều phải qua đây từ Rabaul. Mục đích chính của ông là tiếp tục chuẩn bị cho trận giao chiến quyết định.
Bề ngoài thì đó là một mong muốn hợp lo-gic, nhưng sau đó Fletcher chịu nhiều sự chỉ trích vì sự chuẩn bị liên tục của mình. Tại Washington, Đô đốc King, tư lệnh hải quân, trách Fletcher cứ chạy vòng vòng trong khi ông có thể tấn công quân Nhật mạnh hơn nữa. Một tháng sau, trong trận Midway, những chỉ trích đó trở thành sự thật, khi mà những yếu kém của Fletcher dẫn đến việc mất chiếc Yorktown, và lúc đó thì ông bị thay thế bởi một sĩ quan trẻ hơn
|