TTCT - Chiếc xe hơi đậu trước cửa một tòa biệt thự của Trung Nam Hải. Dù hết sức tinh vi, hệ thống bảo vệ an ninh của nó gần như vô hình. Những người Mỹ bước nhanh qua phòng tiếp tân, có đặt một bàn bóng bàn. Ông bác sĩ của Mao đón rồi dẫn họ đến phòng làm việc của Mao.
Chỉ các phóng viên Trung Quốc (TQ) mới được phép chụp ảnh cảnh này: được một trong số các nữ trợ lý xinh đẹp dìu đi, người cầm lái vĩ đại tiến về phía Nixon. Ông chủ một đất nước đông dân nhất thế giới và tổng thống Hoa Kỳ. Người phát động cuộc Cách mạng văn hóa và người cùng lúc ra lệnh ném bom B-52 xuống Việt Nam cuối cùng đã ngồi lại với nhau. Mặt đối mặt. Mỉa mai hơn nữa: từ lâu Nixon là một kẻ chống cộng điên cuồng, không hề ngần ngại đầu quân dưới trướng thượng nghị sĩ McCarthy trong cuộc truy sát những người cộng sản từ những năm 1950-1956. Phó tổng thống của Dwight D. Eisenhower, bị J.F. Kennedy đánh bại trong cuộc bầu cử năm 1960, ứng cử viên dài dài của Nhà Trắng này, trong bao năm qua, chưa bao giờ ngừng xem Liên Xô và các đồng minh của Liên Xô là một mối hiểm họa.
“Tổng thống làm ngoại giao”
Con người hành động này, dẫu sao, lại biết tỏ ra thực tế. Thích quan hệ quốc tế, ông ghê tởm sự quan liêu. Nixon đã từng tuyên bố: “Muốn cai trị nước Mỹ, phải có một êkip có khả năng. Đối với đường lối ngoại giao, phải có một tổng thống. Không một bộ trưởng ngoại giao nào là đáng mặt cả. Tổng thống phải làm ngoại giao”. Đi đây đi đó nhiều, ông rất ngưỡng mộ tổng thống Pháp De Gaulle và thủ tướng Anh Winston Churchill. Trước khi chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1968, Nixon đã từng viết trên tạp chí Foreign Affairs: “Chúng ta không thể để TQ nằm ngoài dàn hợp xướng của các quốc gia”.
Là con người thực dụng, Nixon biết biến đổi mình khi tình hình thay đổi. Như tác giả Margaret MacMillan nhấn mạnh, có lẽ ông sống theo phương châm của chính trị gia người Anh Lord Palmerston: “Chúng ta không có kẻ thù vĩnh viễn cũng như bạn bè muôn đời. Chỉ có quyền lợi là vĩnh viễn và muôn đời mà thôi!”.
Tháng 1-1969, ngay trước khi nhậm chức tổng thống, Nixon đã muốn chấm dứt tình trạng cô lập bằng cách bổ nhiệm Henry Kissinger làm cố vấn an ninh quốc gia. Sáu tuần sau, ông đi thăm nhiều nước châu Âu. Đến Trung Quốc, ngay từ đầu, đã là một trong các mục tiêu chính yếu. Như ông nói, “đưa Trung Quốc vào lòng cộng đồng quốc tế không phải với tư cách một trung tâm cách mạng của thế giới, mà như một cường quốc tiến bộ”.
Đúng là tình thế đã thay đổi. Trong Thế chiến thứ hai, Hoa Kỳ đã từng hỗ trợ TQ chống Nhật. Nhưng, vì là đồng minh trung thành của Quốc dân đảng, Hoa Kỳ đã không công nhận nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, khi Mao Trạch Đông chiến thắng vào năm 1949 và Tưởng Giới Thạch phải chạy ra Đài Loan. Tệ hơn nữa: trong cuộc xung đột vũ trang đầu tiên của cuộc chiến tranh lạnh, vốn đã làm chết hơn 1 triệu người, lính Mỹ và TQ đã đối đầu nhau trên lãnh thổ Triều Tiên. Bão tố đã nổi lên trong quan hệ song phương của hai nước. Những khẩu hiệu chống đế quốc Mỹ tràn ngập trên tường của các thành phố TQ, trong lúc Đài Loan vẫn nhận được sự hỗ trợ của Washington...
Khi Mao phát động cuộc cách mạng văn hóa, TQ lại càng tự cô lập hơn nữa. Mối quan hệ càng tồi tệ hơn khi Mỹ đánh bom Việt Nam. Nhưng, năm 1969, tình thế đã không còn hoàn toàn giống như cũ. Mao biết rõ đất nước mình đang bị cô lập, thậm chí bị đe dọa. Bởi vì những cuộc đụng độ liên tục xảy ra với “người anh vĩ đại” Liên Xô ở biên giới phía Bắc. Đỉnh điểm là cuộc xung đột ác liệt tại hòn đảo Chen-Pao (mà phía Liên Xô gọi là Damansky) trên sông Oussouri vào tháng ba. Mối lo sợ bị sức mạnh tên lửa của Liên Xô tấn công ngay vào ngày Quốc khánh 1-10-1969 lan truyền trong hàng ngũ các lãnh đạo chóp bu TQ.
Bên kia bờ Thái Bình Dương, Nixon muốn bằng mọi giá tìm một giải pháp cho cuộc xung đột Việt Nam vốn đã quá tốn kém và đã làm hoen ố hình ảnh của nước Mỹ, cũng như mang lại mỗi ngày những làn sóng thương vong và những cuộc biểu tình phản đối. Liên Xô đã nhiều lần từ chối dùng ảnh hưởng của mình giúp Mỹ tìm một lối thoát danh dự. Còn nếu như TQ chịu hợp tác hơn thì sao?
Khi một cân bằng thế giới mới dường như đang hình thành, hai kẻ thù ngày hôm qua còn phải bỏ ra ba năm mới có được một cuộc hội ngộ. Để bắt đầu, Nixon phải thuyết phục... Kissinger. Bộ ngoại giao đứng ngoài cuộc: do quá quan liêu, bộ ngoại giao đánh bài rút dù, còn Nixon, vốn có tài đi đêm, lại tìm cách tránh né mọi tranh luận công khai trước khi loan báo chuyến công du của mình.
Pakistan làm trung gian....
Thoạt đầu, và trái với điều được ông ta xác nhận sau này, Kissinger tỏ ra rất hoài nghi. Ông ta tiết lộ với phụ tá, tướng Alexander Haig, vào năm 1969: “Tổng thống đã mất hết cảm giác thực tế. Ông ta bảo tôi biến điều huyễn hoặc này thành hiện thực”. Mấy tháng sau, ông lại ngả theo ông chủ của mình. Kissinger viết trong hồi ký:” Chúng ta đến Bắc Kinh không phải để đền tội về lỗi lầm của chúng ta về chính sách của chúng ta đối với TQ vào cuối những năm 1940, nhưng để tạo lập một sự cân bằng toàn cầu”.
Cuối những năm 1960, không cho Bộ trưởng Ngoại giao Williams Rogers biết, Nixon và Kissinger tìm cách tiếp cận qua trung gian. Tiếp xúc duy nhất giữa các nhà ngoại giao TQ và Mỹ hiện có lúc đó là qua con đường visas và trao đổi tù binh chiến tranh. Những việc này đã diễn ra tại Varsava, Ba Lan, nơi chính phủ Ba Lan dành cho họ một tòa lâu đài tuyệt đẹp.
Suốt mùa thu 1969, Nixon gửi đi thông tin đầu tiên: “Chúng tôi luôn khẳng định rõ rằng chúng tôi không có kẻ thù vĩnh cửu và chúng tôi đối xử với các nước khác, bắt đầu là Trung Hoa cộng sản, dựa vào các sự việc cùng hành động, chứ không dựa vào ý thức hệ”. Người ta đã nhận ra nhiều tín hiệu rụt rè nhằm giảm bớt căng thẳng. Đài VOA không còn gọi “Beiping” để chỉ thủ đô nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa giống như thường gọi ở Đài Loan mà là “Beijing” (Bắc Kinh) một cách nghiêm chỉnh. Nixon ra lệnh giảm rồi sau đó bãi bỏ những cuộc tuần tra của hải quân Hoa Kỳ tại eo biển Đài Loan. Tháng 7-1969, chính quyền Mỹ đơn giản hóa các thủ tục thương mại giữa hai nước và tạo dễ dàng cho các chuyến du lịch qua lại giữa hai nước. Thông tin gián tiếp chuyển qua trung gian Ba Lan, Campuchia và Pháp nói rằng Washington sẵn sàng bắt đầu cuộc đối thoại.
Nhưng chính qua trung gian Pakistan và tướng Yahya Khan mà Nixon có thể tiếp cận mục tiêu trực tiếp hơn. Bắc Kinh tỏ ra sẵn sàng lắng nghe. Bởi thế, khi một chiếc du thuyền Mỹ bị bắt trong vùng biển TQ, người trên thuyền đã được thả ra nhanh chóng, không bị kết án như từng diễn ra trong quá khứ, là điệp viên CIA. Đích thân Chu Ân Lai đã thu xếp chuyện này.
Mùa thu năm 1969, Nixon và Kissinger quyết định tăng tốc. Đại sứ Mỹ tại Varsava Walter Stoessel được yêu cầu bí mật tiếp xúc với các nhà ngoại giao TQ vào ngày 3-12 trong một cuộc biểu diễn thời trang do Nam Tư tổ chức. Ngày 20-1-1970, Stoessel thông báo với các đối tác rằng Hoa Kỳ sẵn sàng gửi một sứ giả cao cấp đến Bắc Kinh.